TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 698/QĐ-CA
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 10 năm 2016
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC CÔNG BỐ ÁN LỆ
CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ Điều 27 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014;
Căn cứ Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28
tháng 10 năm 2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ;
Căn cứ kết quả lựa chọn và biểu quyết thông qua
án lệ của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Biên bản phiên họp
ngày 03 và ngày 07 tháng 10 năm 2016,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Công bố 04 (bốn) án lệ đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 03 và ngày 07 tháng 10 năm 2016. Các án lệ được
ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự có trách nhiệm nghiên
cứu, áp dụng các án lệ trong xét xử kể từ ngày 01-12-2016.
Việc áp dụng án lệ được thực hiện theo hướng dẫn tại
Điều 8 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28-10-2015 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng
án lệ.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Nơi nhận:
- Ủy ban thường vụ Quốc hội (để
b/c);
- Ủy ban tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ban Chỉ đạo CCTPTW;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an;
- Liên đoàn luật sư Việt Nam;
- Trung ương Hội luật gia Việt Nam;
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Các đơn vị thuộc TANDTC;
- Lưu: VT (TANDTC, Vụ PC&QLKH).
|
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|
Án lệ số
07/2016/AL về công nhận hợp đồng mua bán nhà được xác lập trước ngày 01-7-1991.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết
định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số
126/2013/DS-GĐT ngày 23-9-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về
vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” tại thành phố Hà Nội giữa
nguyên đơn là các ông, bà Nguyễn Đình Sông, Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hương với
bị đơn là các ông, bà Đỗ Trọng Thành, Đỗ Thị Nguyệt, Vương Chí Tường, Vương Chí
Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm
các ông, bà Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Hay, Tô Thị Lâm, Nguyễn Đình Uân, Nguyễn
Thị Hợp, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Trần Thị Bích, Vũ Đình Hậu.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4 phần “Xét thấy” của quyết định
giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Hợp đồng mua bán nhà được lập thành
văn bản trước ngày 01-7-1991, có chữ ký của bên bán, ghi rõ bên bán đã nhận đủ
tiền, bên mua tuy chưa ký tên trên hợp đồng nhưng là người giữ hợp đồng và đã
quản lý, sử dụng nhà ở ổn định trong thời gian dài mà bên bán không có tranh chấp
đòi tiền mua nhà.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, hợp đồng có giá trị
xác định bên mua đã trả đủ tiền cho bên bán và ý chí của bên mua đồng ý với hợp
đồng mua bán nhà đó, hợp đồng mua bán nhà được công nhận.
Quy định của pháp luật liên quan đến
án lệ:
- Các điều 81, 82, 83
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (tương ứng với các điều 93,
94, 95 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015);
- Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10
ngày 20-8-1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được
xác lập trước ngày 1 tháng 7 năm 1991.
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng mua bán nhà”; “Một bên
không ký tên trong hợp đồng”; “Xác định chứng cứ”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 06-3-2006 và
trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Nguyễn Đình Sông trình bày:
Bố ông là cụ Nguyễn Đình Chiện (chết năm 1998), mẹ ông là cụ Nguyễn Thị Mở (chết
năm 2005). Bố mẹ ông có 04 người con gồm ông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị
Hương, bà Nguyễn Thị Lan. Trước đây gia đình ông ở số 2 Hàng Bún, còn bác ông
là Nguyễn Đình Nhuần ở số 10 Hàng Bún. Khi đi sơ tán về thì nhà của bác bị Nhà
nước lấy giao cho người khác sử dụng, nên bố ông đã nhường nhà số 2 Hàng Bún
cho cụ Nhuần ở, gia đình ông đi thuê nhà, ông Đỗ Trọng Thành là người ký hợp đồng
cho bố ông thuê tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc ngày 01-02-1972. Nhà 19 Thuốc Bắc
thuộc quyền sở hữu của 05 anh chị em ông Thành gồm ông Đỗ Trọng Thành, bà Đỗ Thị
Ngà, bà Đỗ Song Toàn, bà Đỗ Thị Nguyệt, ông Đỗ Trọng Cao. Do ông Cao cần tiền
chữa bệnh nên đã bán 01 buồng 38m² tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông, hợp
đồng ông Cao ký bán không ghi ngày tháng năm, giá bán là 6550 đồng, ông Cao đã
nhận đủ tiền. Khi ông Cao bán gian buồng 38m² có đưa cho bố ông bằng khoán nhà
19 Thuốc Bắc, trong bằng khoán nói rõ ông Cao được hưởng 8/12 phần căn nhà, còn
ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt, bà Toàn được hưởng 4/12 phần căn nhà; tầng 1 căn
nhà 19 Thuốc Bắc thì trước đó anh em ông Thành đã bán cho vợ chồng ông Vũ Đình
Tiệp, bà Trần Thị Bích; ông Cao sửa gian bếp 07m² tầng 2 để ở. Sau khi ông Cao
chết ngày 05-11-1972 thì anh em ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt đã ký bán nốt 07m²
tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông giá 3000 đồng và bên bán đã hợp thức
hóa bằng hợp đồng bán đứt tầng 2 ngày 05-11-1972 là ngày ông Cao chết. Anh em
ông Thành cùng ký tên vào văn tự ghi rõ bên bán đã nhận đủ tiền. Ông Thành đã
giao cả giấy ủy quyền của ông Cao viết ngày 09-9-1972 có nội dung ông Cao là chủ
sở hữu nhà 19 Thuốc Bắc, do bị bệnh nên viết ủy quyền phòng khi bị mất, để ông
Thành có quyền thay ông Cao bán gian buồng phụ thuộc nhà 19 Thuốc Bắc. Giấy tờ
mua bán 02 gian nhà tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc gia đình ông giữ nên cha mẹ ông ký
vào giấy này lúc nào cũng được. Ông Thành cho rằng cha mẹ ông không ký vào giấy
mua bán để cho rằng chưa trả tiền là không đúng.
Cụ Nhuần đã chết năm 2000, vợ của cụ
Nhuần là cụ Tô Thị Lâm và các con của cụ Nhuần là các ông, bà Nguyễn Đình Uân,
Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Đình Hợp, Nguyễn Thị Minh Nguyệt đều xác nhận là cụ Chiện
mua căn buồng tầng 2 của ông Cao chứ không phải cụ Nhuần mua, cụ Nhuần chỉ là
người đứng tên hộ.
Gia đình ông Thành (ở tại nhà 17 Thuốc
Bắc) luôn gây khó khăn trong sinh hoạt cho gia đình ông. Ông Thành sang chiếm
nóc tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc nên cha ông có sang trao đổi với ông Thành không được
sử dụng nóc nhà nhưng ông Thành không nghe, nên hai bên buộc phải có văn bản
ngày 20-12-1987 đồng ý cho ông Thành được sử dụng chung nóc nhà nhưng hai gia
đình ngày càng mâu thuẫn. Sau đó gia đình ông đi kê khai sang tên sở hữu tầng 2
nhà 19 Thuốc Bắc nhưng ông Thành luôn gây khó khăn. Nay ông yêu cầu Tòa án công
nhận hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.
Ngoài ra, ông cũng yêu cầu một số vấn
đề sau:
- Nhà 19 Thuốc Bắc tầng 1 ông Thành
đã bán cho gia đình ông Tiệp, tầng 2 đã bán cho gia đình ông, nên ông Thành
không còn quyền lợi gì của nhà 19 Thuốc Bắc, do đó ông Thành không được sử dụng
nóc nhà tầng 2 và khu phụ nhà 19 Thuốc Bắc.
Gia đình ông mua tầng 2, khi đó thỏa
thuận miệng là đi ra đường bằng lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc của ông
Thành, nên ông yêu cầu ông Thành không được để hàng hóa tại lối đi từ đường
Hàng Cá vào đi qua nhà 17, 19 Thuốc Bắc lên tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc.
- Yêu cầu ông Thành bồi thường thiệt
hại do đã chiếm hữu nóc nhà, sử dụng lối đi để hàng hóa từ năm 1987 đến nay với
số tiền là 540.000.000 đồng (2.500.000đ/tháng x 18 năm).
- Bồi thường thương tích cho ông và vợ
ông do con ông Thành gây ra là 5.000.000đ/người.
- Bồi thường thiệt hại về tinh thần
do ông Thành tranh chấp gây bất ổn cho cuộc sống của gia đình ông, số tiền là
800.000.000 đồng.
- Ông Thành phải trả chi phí cải tạo
nóc nhà ông do ông Thành để đồ đạc làm hỏng, dự kiến sửa hết 120.000.000 đồng.
- Việc khiếu kiện kéo dài làm mất việc
làm của ông do ông Thành gây ra nên ông Thành phải trả 108.000.000 đồng
(12.000.000đ/năm x 9 năm).
Bị đơn là ông Đỗ Trọng Thành trình
bày: Nhà 19 Thuốc Bắc mang bằng khoán điền thổ số 1577 khu Đồng Xuân, diện tích
69m² do cụ Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê Thị Hữu (là cha mẹ của ông) đứng tên sở hữu;
ngày 21-4-1959 đã sang tên cho các con được thừa hưởng, cụ thể: ông Cao hưởng
8/12, còn lại 04 người con là bà Nga, bà Nguyệt, bà Toàn và ông hưởng chung
4/12 phần căn nhà. Năm 1971, các anh chị em ông có cho vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở
(là bố mẹ ông Sông) thuê tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc. Sau đó cũng năm 1971, ông Cao
bán đứt 01 buồng 38m² nhà 19 Thuốc Bắc cho cụ Nguyễn Đình Nhuần, nhưng cụ Chiện
lại ký thay trong giấy mua bán, giá bán là 6550 đồng, giấy không ghi ngày tháng
năm.
Ngày 09-9-1972, ông Cao lập giấy ủy
quyền cho ông bán 01 buồng 7,8m² tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc. Ngày 05-11-1972, ông Cao
chết. Căn cứ giấy ủy quyền của ông Cao, ông đã viết giấy bán buồng 07m² cho cụ
Chiện, nhưng cụ Chiện đề nghị ông viết gộp cả buồng 38m² mà cụ Chiện đã mua của
ông Cao, nên ông đã viết văn tự bán đứt tầng 2, chị em ông đã ký vào văn tự,
nhưng khi đưa văn tự sang cho cụ Chiện, cụ Mở ký thì cụ Nhuần có mặt ở đó mắng
và không cho vợ chồng cụ Chiện ký, nên vợ chồng cụ Chiện không ký được. Ông
không đồng ý yêu cầu của ông Sông vì ông Sông chỉ ở nhờ nhà của cụ Nhuần.
Ông Thành còn có lời khai khác, cụ thể
là: Ông Cao bán 01 buồng nhưng đến năm 1998 ông mới biết và khi đó ông mới biết
ông có phần trong nhà này, trước đó ông hiểu là nhà thuộc phần của ông Cao. Ông
Cao có ủy quyền cho ông bán buồng 07m², trong giấy mua bán viết bên mua đã nhận
nhà, bên bán đã giao tiền, nhưng thống nhất bên mua ký mới giao tiền. Ông Cao ủy
quyền cho ông là sai vì đây là tài sản chung của mấy anh chị em; nhà 19 Thuốc Bắc
ông chưa kê khai vì còn đang tranh chấp; nhà 17 Thuốc Bắc ông đã kê khai là
trên cơ sở ông được hưởng theo bản án chia thừa kế năm 1992. Giấy ông Cao bán
nhà cho cụ Nhuần 38m² ông áng chừng viết khoảng năm 1971. Ông chỉ lưu bản chính
ông Cao bán nhà cho cụ Nhuần, còn các văn bản khác ông không giữ. Khi bán nhà
cho cụ Nhuần, ông Cao có đưa bằng khoán nhà 19 Thuốc Bắc cho cụ Nhuần.
Ông không đồng ý yêu cầu của ông Sông
vì không có việc mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc, bố mẹ ông Sông chưa ký vào giấy
mua bán và chưa trả tiền; hợp đồng mua bán nhà không hợp pháp, nên ông Sông
không có quyền đòi nóc nhà tầng 2; lối đi qua tầng 1 nhà 17 Thuốc Bắc, ông Sông
chỉ đi nhờ (Bl 586). Diện tích phụ nhà 19 Thuốc Bắc, anh chị em ông không bán
nên ông vẫn có quyền sử dụng. Ông cũng không chấp nhận yêu cầu của ông Sông đòi
bồi thường thiệt hại về thu nhập vì ông Sông là người tranh chấp chứ không phải
ông. Đánh nhau thì hai bên cũng có thương tích, Công an không giải quyết gì nên
ông không đồng ý bồi thường.
Ngày 07-4-2009, ông Thành có đơn phản
tố đề nghị gia đình ông Sông phải đi ra đường trên diện tích nhà 19 Thuốc Bắc,
có nghĩa là nhà tầng 1 số 19 Thuốc Bắc phải mở lối đi ra đường cho gia đình ông
Sông. Nhà 17 Thuốc Bắc thuộc quyền sở hữu của ông, khi anh chị em ông bán tầng
1 nhà 19 Thuốc Bắc cho gia đình ông Tiệp cũng đã ghi rõ ở như diện tích đang ở,
trừ lối đi.
Ngày 23-9-2009, ông Thành có đơn xin
rút yêu cầu phản tố về lối đi.
- Bà Đỗ Thị Nguyệt và các con bà Đỗ
Thị Nga là Vương Chí Tường, Vương Chí Thắng, Vương Bích Vân, Vương Bích Hợp có
đơn trình bày: Buồng 38m² ông Cao viết bán, nhưng nhà thuộc các đồng sở hữu nên
không có quyền, còn bà Ngà, bà Nguyệt có ký bán buồng 7m² cho cụ Chiện nhưng
bên mua chưa trả tiền nên yêu cầu trả lại nhà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan:
- Cụ Tô Thị Lâm trình bày: Chồng cụ
là cụ Nguyễn Đình Nhuần (chết năm 2000). Trước đây vợ chồng cụ sống ở số 10 phố
Hàng Bún, vợ chồng cụ Chiện sống cùng vợ chồng cụ. Năm 1970, vợ chồng cụ Chiện
chuyển sang nhà số 19 Thuốc Bắc ở. Vợ chồng cụ Chiện mua nhà thế nào cụ không
biết, cụ chỉ nhớ là năm 1972 cụ Nhuần về nói với cụ là cụ Chiện mua nhà, nhờ cụ
Nhuần đứng tên. Nhà 19 Thuốc Bắc là do vợ chồng cụ Chiện mua và trả tiền, vợ chồng
cụ không tham gia giao dịch mua bán với ông Thành, gia đình cụ cũng không có
quyền lợi gì liên quan đến nhà 19 Thuốc Bắc.
- Các con của cụ Lâm là ông Nguyễn
Đình Uân, ông Nguyễn Đình Hòa, bà Nguyễn Quỳnh Hợp, bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt
trình bày nhất trí với lời khai của cụ Lâm.
- Bà Trần Thị Bích, ông Vũ Đình Hậu
trình bày: Ông, bà đang ở tầng 1 nhà 19 Thuốc Bắc. Ông Thành không có quyền yêu
cầu gia đình bà phải mở lối đi cho gia đình ông Sông ở tầng 2; ông Thành đã có
đơn xin rút yêu cầu phản tố về lối đi, ông, bà không có ý kiến gì.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 78/DSST
ngày 21-11-2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
- Bác yêu cầu của ông Nguyễn Đình
Sông.
Ngày 21-11-2007, ông Nguyễn Đình Sông
có đơn kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
121/2008/DSPT ngày 30-6-2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội
quyết định: Hủy án sơ thẩm, giao sơ thẩm giải quyết lại.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số
52/2009/DSST ngày 29-9-2009, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu công nhận
hợp đồng mua bán toàn bộ tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc của nguyên đơn.
2. Chấp nhận yêu cầu của ông Sông về
việc buộc ông Thành phải dọn toàn bộ đồ đạc, cây cảnh trên nóc tầng 2 nhà 19
Thuốc Bắc chuyển dọn về nhà 17 Thuốc Bắc.
Gia đình ông Thành và gia đình ông
Sông sử dụng nóc nhà tầng 2 nhà 19 Thuốc Bắc đúng như cam kết ký ngày
20-12-1987.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông
Sông không cho gia đình ông Thành sử dụng diện tích phụ, sân tại nhà 19 Thuốc Bắc.
4. Xác định lối đi từ phố Hàng Cá đi
vào nằm trên hai diện tích đất của nhà 17, 19 Thuốc Bắc, không ai được để hàng
hóa, vật dụng cản trở việc đi lại.
5. Không chấp nhận các yêu cầu của
ông Sông đòi bồi thường thiệt hại đối với ông Thành.
6. Bác các yêu cầu khác của các bên
đương sự.
7. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu
phản tố của ông Thành.
Ngày 01-10-2009, ông Nguyễn Đình Sông
có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Ngày 12-10-2009, ông Đỗ Trọng Thành
có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm về phần lối đi,
đề nghị xác định lối đi này là tạm thời.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số
86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội
quyết định: Y án sơ thẩm về giải quyết hợp đồng mua bán nhà và các yêu cầu
khác, hủy một phần bản án sơ thẩm giao sơ thẩm giải quyết lại về phần lối đi
qua nhà 17 Thuốc Bắc.
Ngày 20-7-2010, ông Nguyễn Đình Sông
có đơn đề nghị giám đốc thẩm, xin công nhận hợp đồng mua bán tầng 2 nhà 19 Thuốc
Bắc.
Tại Quyết định số 148/2013/KN-DS ngày
11-4-2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm
số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Hà Nội; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm
hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 52/2009/DS-ST
ngày 29-9-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng theo hướng
hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, giao Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nhận định:
Theo lời khai của nguyên đơn, bị đơn và
các tài liệu trong hồ sơ vụ án thì căn nhà số 19 phố Thuốc Bắc, phường Hàng Bồ,
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội thuộc quyền sở hữu của vợ chồng cụ Đỗ Huy Ngọc và cụ Lê
Thị Hữu đã sang tên thừa kế cho các con là ông Đỗ Trọng Cao (chết năm 1972,
không vợ con) được hưởng 8/12 phần, còn lại bà Đỗ Thị Ngà (tức Nga), bà Đỗ Thị
Nguyệt, bà Đỗ Thị Song Toàn (chết năm 1963, không chồng con), ông Đỗ Trọng
Thành hưởng chung 4/12 phần. Ngày 01-7-1971, ông Thành ký hợp đồng cho gia đình
cụ Nguyễn Đình Nhuần (là bác ruột ông Nguyễn Đình Sông, chết năm 2000) và vợ chồng
cụ Nguyễn Đình Chiện (là cha của ông Sông, chết năm 1998) thuê gian buồng tầng
2 nhà 19 phố Thuốc Bắc, diện tích 39,36m² để lấy tiền chữa bệnh cho ông Cao, đã
nhận trước 2000 đồng.
Tại “Giấy bán đứt một buồng ở” (không
ghi ngày tháng năm nhưng ông Thành thừa nhận văn bản này viết khoảng năm 1971),
ông Cao đã bán cho cụ Nhuần 01 gian buồng tầng 2 nhà 19 phố Thuốc Bắc (không
ghi diện tích) giá 6550 đồng, bên bán đã nhận đủ tiền, ghi là cụ Chiện đại diện
mua bán và ký thay cụ Nhuần. Ông Thành cho rằng gian nhà bán này chính là gian
nhà thuê nêu trên và bán cho cụ Nhuần, không phải bán cho cụ Chiện. Tuy nhiên,
cụ Tô Thị Lâm và các ông, bà Nguyễn Đình Uân, Nguyễn Đình Hòa, Nguyễn Quỳnh Hợp,
Nguyễn Thị Minh Nguyệt (là vợ, con cụ Nhuần) đều xác định cụ Chiện trực tiếp
giao dịch và trả tiền, cụ Nhuần chỉ đứng tên hộ cụ Chiện trên hợp đồng mua nhà
do ông Cao bán. Do đó, có cơ sở xác định cụ Chiện là người mua gian buồng này.
Ngày 09-9-1972, ông Cao viết giấy ủy quyền
để ông Thành bán căn buồng phụ ông Cao đang ở. Ngày 05-11-1972, ông Cao chết
không để lại di chúc. Cùng ngày 05-11-1972, ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt ký
“Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” có nội dung bán cho vợ chồng cụ
Chiện buồng chính 38,07m², buồng phụ 7,095m², tổng là 45,165m², giá 3000 đồng,
bên bán đã nhận đủ tiền, bên mua đã nhận sử dụng diện tích tầng 2 và đang ở;
văn tự có đủ 3 người gồm ông Thành, bà Ngà, bà Nguyệt là bên bán ký tên, còn
bên mua ghi tên cụ Chiện, cụ Mở nhưng không ký.
Khi tranh chấp, ông Sông xuất trình
được 02 văn tự bán nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền cho ông Thành bán
nhà. Thực tế, gia đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng 2 nhà 19 phố
Thuốc Bắc của gia đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông Thành ở số
nhà 17 phố Thuốc Bắc liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc tiền mua
nhà. Nội dung “Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi rõ bên
bán đã nhận đủ tiền, không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền riêng,
đây chính là biên nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên mua chưa
ký vào văn bản mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn có giá
trị xác định nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm cho rằng bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng
minh được đã trả tiền để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên
đơn là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn.
Giao dịch mua bán nhà ở giữa các anh
chị em ông Thành và vợ chồng cụ Chiện, cụ Mở được xác lập trước ngày 01-7-1991,
nên cần phải áp dụng Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20-8-1998 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội để giải quyết vụ án. Bà Nguyễn Thị Lan (con cụ Chiện, cụ Mở)
tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là do thuộc
diện thừa kế di sản của cụ Chiện, cụ Mở mà không tham gia vào giao dịch này. Bà
Lan mới định cư tại Cộng hòa Séc từ năm 1997, việc mua bán này không phải là
giao dịch nhà ở trước ngày 01-7-1991 có người định cư ở nước ngoài trước ngày
01-7-1991 tham gia, nên Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm căn cứ Nghị quyết
1037/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 27-7-2006 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập
trước ngày 01-7-1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia để giải
quyết vụ án là chưa đúng.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng
dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 ngày 29-3-2011 của
Quốc hội);
QUYẾT
ĐỊNH:
Hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số
86/2010/DS-PT ngày 18-5-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội
về vụ án “Tranh chấp quyền sở hữu, sử dụng nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn
Đình Sông, bà Nguyễn Thị Hồng, bà Nguyễn Thị Hương với bị đơn là ông Đỗ Trọng
Thành, bà Đỗ Thị Nguyệt, anh Vương Chí Tường, anh Vương Chí Thắng, chị Vương
Bích Vân, chị Vương Bích Hợp; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 09 người.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo quy định của pháp
luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Khi tranh chấp, ông Sông xuất
trình được 02 văn tự bán nhà nêu trên và cả giấy ông Cao ủy quyền cho ông Thành
bán nhà. Thực tế, gia đình cụ Chiện đã quản lý cả 02 gian buồng tầng 2 nhà 19
phố Thuốc Bắc của gia đình ông Thành từ năm 1972 đến nay, gia đình ông Thành ở
số nhà 17 phố Thuốc Bắc liền kề không tranh chấp đòi tiền thuê nhà hoặc tiền
mua nhà. Nội dung “Văn tự bán đứt tầng 2 số nhà 19 phố Thuốc Bắc” đều ghi rõ
bên bán đã nhận đủ tiền, không có việc hai bên thỏa thuận sẽ lập giấy trả tiền
riêng, đây chính là biên nhận mà bên bán xác nhận là bên mua đã trả tiền. Bên
mua chưa ký vào văn bản mua bán, nhưng văn bản này bên mua là người giữ, nên vẫn
có giá trị xác định nghĩa vụ của bên bán về việc đã nhận tiền. Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm cho rằng bên mua chưa ký tên vào văn bản mua bán nhà và không chứng
minh được đã trả tiền để bác yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà của nguyên
đơn là chưa đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn”.
Án lệ số
08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng
kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết
định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số
12/2013/KDTM-GĐT ngày 16-5-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố
Hà Nội giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam với
bị đơn là Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan gồm các ông, bà Nguyễn Thị Phượng, Nguyễn Đăng Duyên, Đỗ Thị Loan.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 16 phần “Xét thấy” của quyết định
giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Trong hợp đồng tín dụng, các bên có
thỏa thuận về lãi suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ
quá hạn, việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức
tín dụng cho vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh
toán, hoặc thanh toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, khách hàng vay phải
tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa
thanh toán, tiền lãi trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền
gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về
việc điều chỉnh mức lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức
tín dụng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo
quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi
suất của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay.
Quy định của pháp luật liên quan đến
án lệ:
- Các điều 471, 474 và
Điều 476 Bộ luật dân sự 2005;
- Khoản 2 Điều 91 Luật
Tổ chức tín dụng năm 2010;
- Khoản 1 Điều 1 Thông
tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức
tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;
- Khoản 2 Điều 11 Quy
chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành theo Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được
sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03-2-2005.
Từ khóa của án lệ:
“Lãi suất”; “Nợ gốc chưa thanh
toán”; “Hợp đồng tín dụng”; “Điều chỉnh lãi suất”; “Lãi suất nợ quá hạn”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 20-7-2010
và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy:
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam
- Chi nhánh Thăng Long (sau đây viết tắt là Vietcombank) và Công ty Cổ phần Dược
phẩm Kaoli (sau đây viết tắt là Công ty Kaoli) có ký kết 04 hợp đồng tín dụng,
gồm: Hợp đồng tín dụng số 03/07/NHNT-TL ngày 25-12-2007; số 04/07/NHNT-TL ngày
28-12-2007; số 144/08/NHNT-TL ngày 28-3-2008 và số 234/08/NHNT-TL ngày
27-5-2008. Các hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại:
- Số 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận
Ba Đình, thành phố Hà Nội (thửa đất số 46B+39C+37C, tờ bản đồ số 19) thuộc quyền
sở hữu và sử dụng của bà Nguyễn Thị Phượng (theo Hợp đồng thế chấp số
1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008; bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là
4.605.000.000 đồng; các điều kiện chi tiết về việc vay và cho vay khoản tiền
nêu trên sẽ được ghi cụ thể trong các giấy tờ nghiệp vụ ngân hàng mà
Vietcombank và Bên được bảo lãnh (Công ty Kaoli) sẽ ký tại trụ sở của
Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị tài sản thế chấp là 4.605.000.000 đồng
theo Biên bản định giá tài sản số 105/08/NHNT.TL; thời hạn thế chấp là 05 năm
tính từ ngày Bên được bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 10.1 Điều 10). Hợp đồng
này được công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố Hà Nội công chứng ngày
25-6-2008 và Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình chứng nhận đăng ký thế
chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 10-7-2008). Trước
đó, ngày 03-9-2007, bà Phượng và Vietcombank lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung: “Hai bên tiến hành bàn giao các giấy tờ
bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm bảo cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần
dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long; tên
tài sản: Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại 122 Đội Cấn, phường Đội
Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội” (BL 52).
- Tổ 13 cụm 2 phường Nhật Tân, quận
Tây Hồ, thành phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Đăng
Duyên và vợ là bà Đỗ Thị Loan (theo Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày
25-6-2008, bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 1.250.000.000 đồng;
các điều kiện chi tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên sẽ được ghi cụ
thể trong các giấy tờ nghiệp vụ ngân hàng mà Vietcombank và Bên được bảo lãnh
(Công ty Kaoli) sẽ ký tại trụ sở của Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị
tài sản thế chấp là 1.250.000.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản số
106/08/NHNT.TL ngày 03-9-2007 (khoản 3.1 Điều 3); thời hạn thế chấp là 05 năm
tính từ ngày Bên được bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm
đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 10.1 Điều 10); hợp đồng
này được công chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố Hà Nội công chứng ngày
25-6-2008 và Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình chứng nhận đăng ký thế
chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 01-7-2008). Trước
đó, ngày 03-9-2007, ông Nguyễn Đăng Duyên và Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long
lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung:
“Hai bên tiến hành bàn giao các giấy tờ bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm
bảo cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại
thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long; tên tài sản: Quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở tại tổ 13 cụm 2 phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội” (BL 58a).
Ngoài ra, các khoản vay của các hợp đồng
tín dụng nêu trên còn được bảo đảm bằng tài sản là nhà, đất thuộc quyền sử dụng
và sở hữu của ông Cao Ngọc Minh và vợ là bà Đoàn Thị Thanh Thủy; nhà, đất của
ông Giang Cao Thắng và vợ là bà Dương Thị Sinh (đã được giải chấp); quyền sử dụng
đất của ông Chu Quốc Khanh; nhà, đất của bà Chu Thị Hồng và ông Nguyễn Văn
Minh.
Thực hiện hợp đồng, Vietcombank - Chi
nhánh Thăng Long đã giải ngân cho Công ty Kaoli vay số tiền theo các hợp đồng
tín dụng nói trên. Công ty Kaoli chỉ mới trả được một phần tiền nợ gốc và nợ
lãi. Vietcombank khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Kaoli phải thanh toán số
tiền còn nợ của 04 hợp đồng tín dụng nêu trên là 8.197.957.837 đồng (trong đó:
nợ gốc là 5.457.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 397.149.467 đồng, nợ lãi quá
hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.343.808.370 đồng) và xử lý tài sản thế chấp
của bà Nguyễn Thị Phượng; của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan để thu hồi
nợ.
Đại diện bị đơn - ông Đỗ Văn Chính,
giám đốc Công ty Kaoli trình bày: Ông thừa nhận Công ty Kaoli còn nợ
Vietcombank số tiền gốc và lãi trong hạn, lãi quá hạn theo 04 Hợp đồng tín dụng
như Vietcombank trình bày là đúng. Ông xác định trách nhiệm trả nợ theo 04 hợp
đồng tín dụng nêu trên là của Công ty Kaoli và xin trả dần trong thời hạn 05
năm.
Trường hợp Công ty Kaoli không trả được
nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, Vietcombank yêu cầu phát mại tài sản đảm bảo của
bà Nguyễn Thị Phượng, của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan thì đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông Chính xác nhận Vietcombank
giải ngân trước khi ký kết Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008
và Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Từ ngày 25-6-2008 đến
nay, Công ty Kaoli không vay thêm một khoản vay nào khác, không ký hợp đồng tín
dụng nào khác với Vietcombank.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày:
- Ông Nguyễn Văn Nghi (đại diện theo ủy
quyền của bà Nguyễn Thị Phượng) trình bày: Vietcombank khởi kiện Công ty Kaoli
và đề nghị Tòa án cho phát mại tài sản của bà Phượng trong trường hợp Công ty
Kaoli không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ông không đồng ý vì bà Phượng ký kết hợp
đồng thế chấp vào ngày 25-6-2008 nên không phải chịu trách nhiệm bảo lãnh cho khoản
vay của Công ty Kaoli tại Vietcombank theo 04 hợp đồng tín dụng mà Vietcombank
đang khởi kiện. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank làm thủ tục giải chấp và trả lại
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho bà Phượng.
- Ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị
Loan cùng trình bày: Vợ chồng ông, bà có ký Hợp đồng thế chấp ngày 25-6-2008
nhưng hợp đồng này chỉ đảm bảo cho khoản vay của Công ty Kaoli tại Vietcombank
và sẽ chịu mọi trách nhiệm phát sinh từ thời điểm sau ngày 25-6-2008 đến ngày
25-4-2009 còn toàn bộ những hợp đồng tín dụng đã ký trước thời điểm ngày
25-6-2008 giữa Vietcombank và Công ty Kaoli thì ông, bà không chịu trách nhiệm.
Theo Vietcombank thì từ sau thời điểm ngày 25-6-2008 đến nay, Vietcombank không
ký hợp đồng tín dụng nào với Công ty Kaoli. Do vậy, trách nhiệm pháp lý của
ông, bà chưa phát sinh. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank phải giải chấp tài sản
theo Hợp đồng thế chấp ngày 25-6-2008 cho ông, bà.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 24-3-2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết
định:
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đối với Công ty Kaoli. Buộc Công
ty Kaoli có trách nhiệm phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi là
8.197.957.837 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của Ngân
hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đòi phát mãi các tài sản là giá trị quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 46B + 39C + 37C, tờ bản đồ số 19,
địa chỉ số 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội theo Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101132587 do Uỷ ban
nhân dân quận Ba Đình cấp ngày 27-4-2004 cho bà Nguyễn Thị Phượng và giá trị
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ số tổ 13, cụm 2, phường
Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 13+64A (1 phần), tờ bản đồ số 04 tại địa
chỉ số tổ 13 cụm 2, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội theo Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10103090899 do Ủy ban nhân dân
thành phố Hà Nội cấp ngày 23-3-2004 cho ông Nguyễn Đăng Duyên và vợ là bà Đỗ Thị
Loan.
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam
có trách nhiệm trả lại đầy đủ giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất
ở và làm thủ tục giải tỏa tài sản thế chấp cho bà Nguyễn Thị Phượng và vợ, chồng
ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn có
quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp
luật.
Ngày 04-4-2011, Vietcombank có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội căn cứ khoản 2 Điều 275 và khoản 1 Điều 276 Bộ
luật tố tụng dân sự quyết định:
“Sửa Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 23 và 24-3-2011 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
về phần nghĩa vụ bảo lãnh đối với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ, chồng ông Nguyễn
Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan, cụ thể như sau:
Xử: Các Biên bản bàn giao hồ sơ tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007 giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt
Nam - Chi nhánh Thăng Long với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ chồng ông Nguyễn Đăng
Duyên, bà Đỗ Thị Loan là hợp đồng bảo lãnh (các bút lục số 52, 58a).
Buộc Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli
phải có trách nhiệm thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam tổng
số tiền nợ gốc và nợ lãi là 8.197.957.837 đồng...
Trong trường hợp Công ty cổ phần dược
phẩm Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ
cho Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam thì Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt
Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo
lãnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách nhiệm bảo
lãnh của người bảo lãnh.
...Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp
luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành
án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn
quyết định về án phí, về việc thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Nguyễn
Thị Phượng; ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan có nhiều đơn đề nghị xét lại
bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số
34/2012/KDTM-KN ngày 15-10-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng
hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nhận định:
Xét các Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn ngân hàng
(Số công chứng: 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày 25-6-2008) thấy:
Cả hai hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn ngân hàng
đều không nêu rõ bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng nào và đều được
ký kết sau khi 04 Hợp đồng tín dụng (số 03/07/NHNT-TL ngày 25-12-2007; số
04/07/NHNT-TL ngày 28-12-2007; số 144/08/NHNT-TL ngày 28-3-2008 và số
234/08/NHNT-TL ngày 27-5-2008) đã được Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long giải
ngân. Theo quy định tại khoản 1.3 Điều 1 của hai Hợp đồng thế chấp nêu trên
thì: “Các điều kiện chi tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên (Nghĩa
vụ được bảo đảm là khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng...; - khoản
1.2 Điều 1 Hợp đồng thế chấp) sẽ được ghi cụ thể trong giấy tờ nghiệp vụ Ngân
hàng mà bên B (Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long) và bên được bảo lãnh sẽ ký tại
trụ sở của bên B (Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long)” thì có thể hiểu bà Phượng,
vợ chồng ông Duyên và bà Loan chỉ bảo lãnh cho Công ty Kaoli vay tiền theo các
hợp đồng tín dụng sẽ được ký tại trụ sở của Vietcombank sau ngày ký hợp đồng thế
chấp (ngày 25-6-2008) chứ không bảo lãnh cho các khoản vay của 04 Hợp đồng tín
dụng đã ký trước đó.
Vietcombank căn cứ vào khoản 6.2 Điều
6 của 04 Hợp đồng tín dụng nêu trên về biện pháp bảo đảm tiền vay có ghi (viết
tay) nội dung: “Các thỏa thuận chi tiết về tài sản, quyền và nghĩa vụ của các
bên được xác định cụ thể trong...Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày
25-6-2008 và Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008” để yêu cầu Tòa
án buộc bà Phượng, vợ chồng ông Duyên và bà Loan phải có trách nhiệm bảo lãnh đối
với các khoản vay của Công ty Kaoli theo 04 Hợp đồng tín dụng nêu trên. Nhưng nội
dung này, theo đại diện Vietcombank trình bày tại phiên tòa sơ thẩm là “do kế
toán của Ngân hàng viết”. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Đỗ Văn Chính - Giám đốc
Công ty Kaoli trình bày: “Công ty Kaoli không biết việc viết thêm này” và
“Không đồng ý với yêu cầu phát mại của Ngân hàng. Các tài sản của bà Phượng và
vợ chồng ông Duyên, bà Loan là do Ngân hàng ghi thêm trong các hợp đồng tín dụng”.
Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm đại
diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Phượng cho biết bà Nguyễn Thị Phượng không
nhận được hợp đồng tín dụng nào từ Vietcombank; còn ông Duyên, bà Loan thì có
nhận được hợp đồng tín dụng từ Vietcombank. Như vậy, ông Chính, bà Phượng và vợ
chồng ông Duyên, bà Loan không biết nội dung chữ viết tay do kế toán Ngân hàng
ghi trong các hợp đồng tín dụng, không ký vào hợp đồng tín dụng cho nên chưa có
căn cứ để xác định các hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm bằng các Hợp đồng
thế chấp số 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày 25-6-2008.
Bên cạnh hai hợp đồng thế chấp nêu
trên thì trong hồ sơ vụ án có 02 bộ tài liệu liên quan đến việc thế chấp tài sản:
01 bộ của bà Phượng; 01 bộ của vợ chồng ông Duyên, bà Loan; trong mỗi bộ đều
có: Biên bản định giá tài sản và Biên bản bàn giao tài sản cùng đề ngày
03-9-2007; Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp (ngày 29-01-2008 của bà Phượng; ngày
25-6-2008 của ông Duyên, bà Loan). Tuy nhiên, trong các Biên bản và Đơn yêu cầu
đăng ký thế chấp này cũng không nói rõ bảo đảm cho khoản vay của hợp đồng tín dụng
nào.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định (tóm tắt):
“Các Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh giữa Ngân hàng
TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long với bà Phượng, vợ chồng ông
Duyên, bà Loan lập ngày 03-9-2007 đều có nội dung thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng...nên xác định
đây là một hợp đồng…”. Và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên xử: “Các Biên bản bàn giao
hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007 giữa Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ chồng ông
Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan là hợp đồng bảo lãnh (các bút lục số 52,
58a)” và “Trong trường hợp Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng TMCP ngoại
thương Việt Nam, thì Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cục
thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo lãnh theo quy định của Luật
thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh”.
Nhận định và quyết định trên đây của
Tòa án cấp phúc thẩm là không có căn cứ và không đúng pháp luật. Bởi lẽ:
- Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế
chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007 giữa bà Nguyễn Thị Phượng (cũng như giữa
ông Duyên, bà Loan) với Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long không phải là hợp đồng
bảo lãnh như Tòa án cấp phúc thẩm xác định.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày
17-8-2011 đại diện Vietcombank cũng chỉ xác định: “Biên bản bàn giao tài sản,
biên bản định giá tài sản là một bộ phận không thể tách rời hợp đồng thế chấp
tài sản”.
- Theo Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, Biên bản định giá tài sản và trình bày của đại diện
Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm thì ngày giao nhận hồ sơ và định giá tài sản
là ngày 03-9-2007. Còn hợp đồng thế chấp giữa bà Phượng (cũng như giữa ông
Duyên, bà Loan) với Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long được ký vào ngày
25-6-2008 (sau ngày lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản và Biên bản định giá
tài sản) nên không thể coi các Biên bản này là một bộ phận không thể tách rời của
Hợp đồng thế chấp nói trên. Tòa án cấp phúc thẩm cũng xác định: “Hợp đồng thế
chấp ngày 25-6-2008... không liên quan đến các biên bản giao nhận hồ sơ…”.
- Theo ngày ghi trong biên bản và
trình bày của đại diện Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm thì ngày giao hồ sơ
(bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở) và ngày định
giá tài sản là ngày 03-9-2007, nhưng trong các Biên bản định giá tài sản này lại
ghi: “Căn cứ Bảng giá đất tại các quận tại Hà Nội ban hành kèm theo Quyết định
số 150/2007/QĐUBND ngày 28-12-2007 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội” và
Biên bản này là bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng thế chấp số
1678.2008/HĐTC và số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Riêng đối với trường hợp của
bà Phượng, giá trị quyền sử dụng đất ở được xác định theo Biên bản xác định giá
đất thực tế ngày 04-9-2007 và Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp của bà Phượng đề
ngày 29-01-2008 ghi: “Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ký ngày 25 tháng 6
năm 2008”. Mặt khác, theo trình bày và tài liệu do bà Phượng, vợ chồng ông
Duyên, bà Loan xuất trình thì tại thời điểm ngày 03-9-2007 nhà, đất của bà Phượng
đang được thế chấp tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Quảng An, quận Tây Hồ, đến ngày 11-01-2008 mới được giải chấp; còn nhà, đất của
vợ, chồng ông Duyên, bà Loan đang được thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ phần
ngoài quốc doanh Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, đến ngày 16-01-2008 mới được
giải chấp.
Với các chứng cứ nêu trên có căn cứ để
kết luận: Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và Biên bản
định giá tài sản không phải được lập vào ngày 03-9-2007, Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở không phải được giao vào ngày 03-9-2007, việc
định giá không được thực hiện vào ngày 03-9-2007 như đại diện Vietcombank trình
bày và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
Tại thời điểm ngày 03-9-2007, thì Hợp
đồng thế chấp, bảo lãnh tài sản bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên
đất phải được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai 2003; tại điểm
a mục 1 Điều 12 Nghị định 163/NĐ-CP ngày 29-12-2006 và tại tiểu
mục 2.4 mục 2 Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13-6-2006;
chứ không phải công chứng và không phải đăng ký giao dịch bảo đảm như Tòa án cấp
phúc thẩm nhận định.
Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ
ngoài các tài liệu nêu trên còn có tài liệu, chứng cứ nào khác để chỉ dẫn các hợp
đồng thế chấp do bà Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan ký là được bảo lãnh
cho 04 hợp đồng tín dụng của Công ty Kaoli hay không mà lại cho rằng các biên bản
bàn giao hồ sơ là hợp đồng bảo lãnh là không đúng, không chính xác. Vì Biên bản
này không thể là hợp đồng bảo lãnh, khi xét cả về mặt hình thức và nội dung văn
bản.
- Nếu có căn cứ cho rằng các Hợp đồng
thế chấp ngày 25-6-2008 của bà Phượng và của vợ chồng ông Duyên, bà Loan bảo
lãnh cho các hợp đồng tín dụng nêu trên thì hợp đồng bảo lãnh của bà Phượng chỉ
bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng; hợp đồng bảo
lãnh của vợ chồng ông Duyên, bà Loan bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất
là 1.250.000.000 đồng. Trong khi đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định các Biên bản
giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh lập ngày 03-9-2007 là hợp đồng
bảo lãnh và tuyên: “Trong trường hợp Công ty Cổ phần Dược phẩm Kaoli không thực
hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý
tài sản bảo lãnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo
trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh” có nghĩa là bà Phượng, ông Duyên, bà
Loan phải chịu trách nhiệm bảo lãnh cho toàn bộ số nợ của Công ty Kaoli và
không phân định rõ trách nhiệm bảo lãnh của bà Phượng, ông Duyên và bà Loan
cũng là không đúng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa
án cấp phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người
được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả
lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là không đúng. Đối với
các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc,
lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho
bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày
tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các
bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường
hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất
cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay
phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng
sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho
vay.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng
dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),
QUYẾT
ĐỊNH:
1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội xét xử vụ án kinh doanh, thương mại tranh chấp hợp đồng tín
dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam với
bị đơn là Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là bà Nguyễn Thị Phượng, ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của
pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được
thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi
đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là không đúng. Đối với
các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc,
lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho
bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày
tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các
bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường
hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất
cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay
phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng
sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho
vay”.
Án lệ số
09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc
trả lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết
định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số
07/2013/KDTM-GĐT ngày 15-3-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa” tại tỉnh
Bắc Ninh giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần thép Việt Ý với bị đơn là Công ty cổ
phần kim khí Hưng Yên; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị Ngọc
Lan và ông Lê Văn Dũng.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 4, 5 và 6 Mục 2 phần “Xét thấy”
của quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ 1:
Hợp đồng mua bán hàng hóa bị vi phạm
do bên bán không giao hoặc không giao đủ hàng cho bên mua, dẫn đến việc bên bán
có nghĩa vụ hoàn trả số tiền ứng trước và tiền lãi do chậm thanh toán.
- Giải pháp pháp lý 1:
Trường hợp này, tiền lãi do chậm
thanh toán được tính theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường bằng mức
lãi suất nợ quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương tại thời
điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm), trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp
luật có quy định khác.
- Tình huống án lệ 2:
Hợp đồng mua bán hàng hóa có phát
sinh nghĩa vụ trả tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại.
- Giải pháp pháp lý 2:
Trường hợp này, người có nghĩa vụ trả
tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại không phải trả lãi trên số tiền phạt vi
phạm, tiền bồi thường thiệt hại đó.
Quy định của pháp luật liên quan đến
án lệ:
- Điều 34, Điều 37, khoản
3 Điều 297, các điều 300, 301, 302, 306 và 307 Luật thương mại 2005;
- Các điều 307, 422,
474 và 476 Bộ luật dân sự năm 2005.
Từ khóa của án lệ:
“Hợp đồng mua bán hàng hóa”; “Vi phạm
hợp đồng”; “Hoàn trả tiền ứng trước”; “Tiền lãi do chậm thanh toán”; “Lãi suất
nợ quá hạn”; “Lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường”; “Phạt vi phạm ”;
“Bồi thường thiệt hại”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 07-7-2007,
đơn đề nghị thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 10-10-2007, các tài liệu có trong hồ
sơ vụ án và trình bày của đại diện nguyên đơn thì:
Ngày 03-10-2006, Công ty cổ phần thép
Việt Ý (sau đây gọi tắt là Công ty thép Việt Ý) ký Hợp đồng kinh tế số
03/2006-HĐKT với Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (sau đây gọi tắt là Công ty
kim khí Hưng Yên); do ông Nguyễn Văn Tỉnh - Phó Tổng Giám đốc làm đại diện theo
Giấy ủy quyền số 621 ngày 10-9-2005 của Tổng Giám đốc Công ty. Theo Hợp đồng
này, Công ty thép Việt Ý (bên A) mua hàng hóa là phôi thép đúc liên tục
CTS-5SP/PS hàng rời, theo tiêu chuẩn GOST 380-94 của Công ty kim khí Hưng Yên
(bên B) với số lượng 3.000 tấn +/- 5%, đơn giá 6.750.000 đồng/tấn; thời gian
giao hàng từ 25 đến 31-10-2006; tổng giá trị hợp đồng là 20.250.000.000 đồng
+/-5%.
Ngày 04-10-2006, Công ty thép Việt Ý
đã chuyển toàn bộ số tiền 20.250.000.000 đồng cho Công ty kim khí Hưng Yên theo
ủy nhiệm chi thông qua Ngân hàng ngoại thương Hải Dương. Công ty kim khí Hưng
Yên cũng đã giao cho Công ty thép Việt Ý tổng số lượng hàng là 2.992,820 tấn
phôi thép, còn thiếu 7,180 tấn tương ứng với số tiền 48.465.000 đồng.
Ngày 20-12-2006, hai bên ký tiếp Hợp
đồng số 05/2006-HĐKT. Đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký hợp đồng là ông
Lê Văn Mạnh - Phó Tổng Giám đốc (theo Giấy ủy quyền số 1296/UQ/HYM của Tổng
Giám đốc Công ty). Theo hợp đồng này, Công ty thép Việt Ý mua 5.000 tấn phôi
thép (tiêu chuẩn và chất lượng giống như Hợp đồng số 03), đơn giá 7.290.000 đồng/tấn
(kể cả thuế VAT và cước phí vận chuyển). Tổng giá trị hợp đồng là
36.450.000.000đồng +/- 5%; thời gian giao hàng từ ngày 18-01-2007 đến ngày
30-01-2007; Công ty thép Việt Ý sẽ ứng trước 500.000.000 đồng cho Công ty kim
khí Hưng Yên ngay sau khi ký hợp đồng; số tiền còn lại sẽ thanh toán theo hai đợt
sau khi Công ty thép Việt Ý nhận hàng. Hợp đồng còn quy định nghĩa vụ của Công
ty kim khí Hưng Yên phải chịu phạt 2% giá trị hợp đồng nếu không giao hàng đúng
chủng loại hoặc không giao hàng. Theo đại diện của Công ty thép Việt Ý thì ngày
21-12-2006, Công ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên
500.000.000 đồng tiền ứng trước, nhưng hợp đồng này Công ty kim khí Hưng Yên
không thực hiện mà không có lý do.
Cùng ngày 20-12-2006, Công ty thép Việt
Ý cũng đã ký kết Hợp đồng số 06/2006 với Công ty kim khí Hưng Yên (do ông Lê
Văn Mạnh - Phó Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua của Công ty kim khí Hưng Yên
3.000 tấn phôi thép, đơn giá 7.200.000 đồng/tấn. Tổng giá trị hợp đồng là
21.600.000.000 đồng; thời gian giao hàng từ ngày 05-01-2007 đến ngày
15-01-2007.
Ngày 22-12-2006, Công ty thép Việt Ý
đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên đủ 21.600.000.000đồng theo ủy nhiệm chi
tại Ngân hàng Techcombank Chi nhánh Hưng Yên, nhưng Công ty kim khí Hưng Yên mới
chuyển cho Công ty thép Việt Ý 2.989,890 tấn phôi thép, còn thiếu 7,640 tấn,
tương đương số tiền là 55.008.000 đồng.
Ngày 01-02-2007, Công ty thép Việt Ý
ký kết Hợp đồng số 01/2007 với Công ty kim khí Hưng Yên (do ông Lê Văn Mạnh -
Phó Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua 5.000 tấn phôi thép của Công ty kim khí
Hưng Yên, đơn giá 7.800.000đồng/tấn. Tổng giá trị hợp đồng là 39.000.000.000 đồng
+/- 5%. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty
kim khí Hưng Yên 37.710.000.000 đồng và Công ty kim khí Hưng Yên đã chuyển cho
Công ty thép Việt Ý 3.906,390 tấn phôi thép, thành tiền là 30.469.842.000 đồng.
Số phôi thép Công ty kim khí Hưng Yên chưa trả cho Công ty thép Việt Ý là
928,25538 tấn, tương đương số tiền là 7.240.158.000 đồng.
Công ty thép Việt Ý đã nhiều lần gửi
công văn đề nghị Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện hợp đồng nhưng Công ty kim
khí Hưng Yên vẫn không thực hiện, buộc Công ty thép Việt Ý phải mua phôi thép của
nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh doanh của Công ty.
Do Công ty kim khí Hưng Yên vi phạm
các hợp đồng hai bên đã ký kết nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu
Công ty kim khí Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán và bồi thường mọi thiệt hại
do vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong các Hợp đồng số 03/2006, 05/2006, 06/2006,
01/2007 tại thời điểm khởi kiện là 12.874.298.683 đồng, trong đó tiền hàng
tương ứng với 1.777.020 kg phôi thép = 11.181.662.503 đồng, tiền phạt vi phạm
1.316.490.480 đồng, tiền lãi quá hạn 376.145.700 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 03-9-2009,
đại diện cho nguyên đơn yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên phải thanh toán cho
Công ty thép Việt Ý tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 03-9-2009 là
28.145.956.647 đồng và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải xuất hóa đơn giá trị
gia tăng cho Công ty thép Việt Ý tương đương với số lượng hàng đã giao ở Hợp đồng
số 06/2006 là 21.544.992.000 đồng và Hợp đồng số 01/2007 là 30.469.842.000 đồng.
Tại các biên bản lấy lời khai, biên bản
hòa giải, biên bản phiên tòa, đại diện Bị đơn trình bày:
Thời điểm Công ty kim khí Hưng Yên ký
kết các hợp đồng trên với Công ty thép Việt Ý là thời kỳ bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn
là Tổng Giám đốc, ông Lê Văn Dũng (chồng bà Lan) là cố vấn kinh doanh. Ngày
22-3-2007, bà Lê Thị Ngọc Lan đã nhượng lại toàn bộ số cổ phần của mình ở Công
ty kim khí Hưng Yên cho bà Nguyễn Thị Toàn và bà Toàn nhận chức vụ Quyền Tổng
Giám đốc từ ngày 02-4-2007. Trong bản thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ
hôn nhân giữa vợ chồng ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan cũng như bản cam kết
về nợ của Công ty, ông Lê Vãn Dũng nhận sẽ có trách nhiệm trả tất cả các khoản
nợ của Công ty kim khí Hưng Yên được thiết lập từ trước ngày 01-4-2007. Nay
Công ty thép Việt Ý kiện đòi bồi thường thiệt hại các Hợp đồng số 03/2006,
05/2006, 06/2006, 01/2007, Công ty kim khí Hưng Yên không đồng ý vì trách nhiệm
trả nợ thuộc về ông Dũng, bà Lan và những người lãnh đạo, quản lý cũ của Công
ty kim khí Hưng Yên. Công ty kim khí Hưng Yên đang cố gắng làm việc chính thức
với ông Dũng để ông Dũng trả trực tiếp cho Công ty thép Việt Ý hoặc ông Dũng trả
cho Công ty kim khí Hưng Yên để Công ty kim khí Hưng Yên trả cho Công ty thép
Việt Ý.
Công ty kim khí Hưng Yên đề nghị Tòa
án xem xét, đánh giá lại giá trị pháp lý của các Hợp đồng số 03/2006, 05/2006,
06/2006, 01/2007 do ông Tỉnh, ông Mạnh nhân danh Công ty kim khí Hưng Yên ký với
Công ty thép Việt Ý ngay trong vụ án này và xem xét trách nhiệm của ông Dũng,
ông Mạnh, ông Tỉnh, bà Lan đối với các khoản nợ mà Công ty thép Việt Ý yêu cầu.
Tại phiên tòa sơ thẩm lần 1, Công ty kim khí Hưng Yên về cơ bản thống nhất với
số liệu thực hiện hợp đồng mà Công ty thép Việt Ý đưa ra, còn về số liệu tài
chính thì chưa công nhận vì chưa đối chiếu công nợ; về số tiền lãi của các hợp
đồng cần phải tính lại, riêng đối với hợp đồng số 05 phía bị đơn không đồng ý
vì hai bên đã thỏa thuận hủy hợp đồng và chuyển 500.000.000 đồng mà Công ty
thép Việt Ý đã ứng trước sang để thực hiện hợp đồng số 01/2007, nên đối với Hợp
đồng số 05 Công ty kim khí Hưng Yên không có vi phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan - bà Lê Thị Ngọc Lan trình bày: Đầu năm 2004, vợ chồng bà mua lại cổ phần
của ông Nguyễn Lương Tuấn và ông Nguyễn Văn Thành ở Công ty kim khí Hưng Yên,
lúc đó Công ty kim khí Hưng Yên đang trong thời kỳ xây dựng. Cũng chính từ đó,
bà Lan trở thành Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị, còn ông Dũng chồng
bà Lan làm cố vấn kinh doanh của Công ty kim khí Hưng Yên. Do mâu thuẫn trong
quan hệ vợ chồng, ngày 05-9-2005, bà Lan và ông Dũng có làm Bản thỏa thuận chia
tài sản trong thời kỳ hôn nhân tại Văn phòng luật sư Hồng Hà (thuộc Đoàn Luật
sư thành phố Hà Nội). Theo bản thỏa thuận này, bà Lan được sở hữu ngôi nhà số
250 phố Bà Triệu, còn ông Dũng được sở hữu toàn bộ 48 tỷ đồng là cổ phần của vợ
chồng tại Công ty kim khí Hưng Yên nhưng ông Dũng phải có trách nhiệm trả các khoản
nợ của Công ty kim khí Hưng Yên trong thời kỳ xây dựng nhà máy cán thép Hưng
Tài (thuộc Công ty kim khí Hưng Yên). Do không còn cổ phần và cổ phần đã được
giao cho ông Dũng nên việc điều hành công ty bà Lan đã uỷ quyền cho ông Tỉnh và
sau đó là ông Mạnh. Tuy không còn cổ phần nhưng bà Lan vẫn là Tổng Giám đốc,
song thực tế việc điều hành Công ty kim khí Hưng Yên là do ông Dũng (chồng bà
Lan), ông Tỉnh và ông Mạnh điều hành. Đến tháng 07-2007, bà Lan mới bàn giao dư
nợ vay và chức vụ Tổng Giám đốc cho bà Toàn. Bà Lan cũng xác nhận việc ông Mạnh
và ông Tỉnh (cả hai ông này lúc đó đều là Phó Giám đốc Công ty kim khí Hưng
Yên) đã ký kết các hợp đồng kinh tế với Công ty thép Việt Ý là có sự ủy quyền
thường xuyên của bà Lan. Nhưng khi bàn giao cho bà Toàn (quyền và nghĩa vụ) là
do ông Dũng với bà Toàn, bà Lan khẳng định trách nhiệm trả nợ đối với Công ty
thép Việt Ý không thuộc nghĩa vụ của bà Lan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan - ông Lê Văn Dũng trình bày: Mặc dù vợ chồng ông có sự phân chia tài sản
trong thời kỳ hôn nhân và ông Dũng được sở hữu cổ phần trong Công ty kim khí
Hưng Yên nhưng ông Dũng cũng chỉ giữ vai trò cố vấn kinh doanh mà không được
quyền tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế cũng như việc thanh quyết toán nên
ông không có trách nhiệm. Ông Dũng không nhất trí việc Công ty kim khí Hưng Yên
cho rằng ông phải là người có nghĩa vụ trả nợ mà nghĩa vụ đó phải thuộc về Công
ty kim khí Hưng Yên và bà Toàn. Ông Dũng xác nhận ngày 01-4-2007, ông có ký bản
cam kết với bà Nguyễn Thị Toàn. Bản cam kết đó thể hiện tổng giá trị công nợ để
hai bên thanh quyết toán với nhau và chỉ có ý nghĩa nội bộ cá nhân ông Dũng với
bà Toàn để làm cơ sở cho việc thanh quyết toán, bàn giao, nhưng thực sự chưa có
việc mua bán cổ phần trong công ty giữa ông và bà Toàn. Hai bên chưa ký kết một
hợp đồng mua bán cổ phần nào, còn việc chuyển nhượng cổ phần công ty giữa bà
Lan với bà Toàn thế nào ông không biết. Việc Công ty thép Việt Ý khởi kiện yêu
cầu Công ty kim khí Hưng Yên thanh toán nghĩa vụ theo hợp đồng, ông Dũng cho rằng
về mặt pháp lý thì Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu trách nhiệm với tư cách
pháp nhân. Còn ông không có trách nhiệm với bất cứ khách hàng, đối tác nào, nếu
có thì chỉ là trách nhiệm của ông với Công ty kim khí Hưng Yên. Ông Dũng xin vắng
mặt tại tất cả các phiên toà.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 01/2007/KDTM-ST ngày 14-11-2007, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết
định: “Buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty cổ phần thép
Việt Ý tổng số tiền của 04 hợp đồng số 03 ngày 03-10-2006; số 05 ngày
20-12-2006; số 06 ngày 20-12-2006 và số 01 ngày 01-02-2007 là: 24.674.428.500 đồng”.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 27-11-2007, Công ty cổ phần kim
khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 120/2008/KDTM-PT ngày 18-6-2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao tại Hà Nội đã quyết định: “Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
01/2007/KDTM-ST ngày 14-11-2007 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Chuyển hồ sơ
vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại vụ án theo quy định của
pháp luật” với lý do: Toà án cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai của bà Lan, ông
Dũng, bà Toàn, ông Tỉnh, ông Mạnh và xác định người tham gia tố tụng từ đó làm
rõ trách nhiệm ai là người phải trả nợ cho Công ty thép Việt Ý; ngoài ra các
tài liệu như bản cam kết nhận nợ, các giấy nhận tiền của ông Dũng, giấy uỷ quyền
quản lý điều hành công ty... đều là bản phô tô không có công chứng, chứng thực
hợp pháp hoặc có sự đối chiếu với bản chính của Toà án cấp sơ thẩm.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 09/2008/KDTM-ST ngày 23-10-2008, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết
định: “Buộc Công ty cổ phần Kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm trả cho Công
ty cổ phần thép Việt Ý số tiền của 04 hợp đồng số 03 ngày 03-10-2006; số 05
ngày 20-12-2006; số 06 ngày 20-12-2006 và số 01 ngày 01-02-2007 là:
31.902.035.179,56 đồng”.
Ngày 05-11-2008, Công ty cổ phần kim
khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 32/2009/KDTM-PT ngày 19-02-2009, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao tại Hà Nội đã quyết định: “1. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
09/2008/KDTM-ST ngày 23-10-2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc
"Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa Công ty cổ phần kim khí Hưng
Yên với Công ty cổ phần thép Việt Ý. 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
để giải quyết lại vụ án”, với lý do: Ông Tổng giám đốc Đinh Văn Vì chỉ khởi kiện
đòi Công ty kim khí Hưng Yên là 12.874.298.683 đồng nhưng người đại diện theo uỷ
quyền đã thay đổi liên tục bổ sung yêu cầu khởi kiện là vượt quá phạm vi khởi
kiện, vi phạm điểm 1 khoản 2 Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự
và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao. Tất cả các đơn thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện này là
không phù hợp với pháp luật, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận tất cả yêu cầu của
người đại diện là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng dân sự nên Toà án cấp phúc thẩm
không xét phần kháng cáo về nội dung của Công ty kim khí Hưng Yên.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết
định: “1. Buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán
trả Công ty cổ phần thép Việt Ý số tiền của 04 hợp đồng kinh tế: Hợp đồng số
03/2006 ngày 03-10-2006; Hợp đồng số 05/2006 ngày 20-12-2006; Hợp đồng số
06/2006 ngày 20-12-2006 và Hợp đồng số 01/2007 ngày 01-02-2007 với tổng số tiền
là 28.145.956.647 đồng và phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng trả cho Thép Việt
Ý của 2 hợp đồng gồm Hợp đồng số 06/2006 tương ứng với số tiền hàng là
21.544.992.000 đồng và Hợp đồng số 01/2007 tương ứng với số tiền hàng là
30.469.842.000 đồng". Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án
phí, về việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.
Ngày 23-9-2009, Công ty cổ phần kim
khí Hưng Yên có đơn kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày 05-4-2010, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại
Hà Nội đã quyết định: “Huỷ Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Chuyển hồ sơ
vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại theo quy định của
pháp luật”.
Ngày 25-7-2010, Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh có Công văn số 110/2010/CV-TA đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số
17/2012/KDTM-KN ngày 25-6-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng
hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày 05-4-2010 của
Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nhận định:
1. Từ tháng 10/2006 đến tháng
02/2007, Công ty thép Việt Ý và Công ty kim khí Hưng Yên đã ký với nhau 4 hợp đồng
kinh tế (số 03/2006-HĐKT ngày 03-10-2006, số 05/2006-HĐKT, số 06/2006-HĐKT ngày
20-12-2006 và số 01/2007-HĐKT ngày 01-02-2007).
Thời điểm các bên ký kết hợp đồng, về
phía Công ty kim khí Hưng Yên, bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo
pháp luật (căn cứ theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần 5 ngày
12-8-2005 và lần 6 ngày 06-7-2007 của Công ty kim khí Hưng Yên và Quyết định về
việc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh số 140/QĐ-HĐCĐ ngày 02-7-2007 của
Công ty kim khí Hưng Yên). Tại Giấy ủy quyền số 621/UQ-KKHY ngày 10-9-2005, bà
Lan đã “1. Uỷ quyền quản lý và điều hành Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên cho
ông Nguyễn Văn Tỉnh. 2. Ông Nguyễn Văn Tỉnh chịu trách nhiệm: a/Đại diện Công
ty trong các mối quan hệ với Ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các cơ quan hữu
quan khác để bảo đảm cho sự hoạt động bình thường của công ty; b/ Thay mặt Công
ty thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong phạm vi ngành
nghề kinh doanh của Công ty..”.. Ngày 20-11-2006, bà Lan có Giấy uỷ quyền số
1296/UQ/HYM ủy quyền quản lý và điều hành Công ty cho ông Lê Văn Mạnh (nội dung
ủy quyền tương tự như nội dung ủy quyền cho ông Tỉnh).
Việc bà Lan có các giấy uỷ quyền nói
trên cho ông Nguyễn Văn Tỉnh, ông Lê Văn Mạnh (là các Phó Tổng giám đốc Công
ty) được quyền ký kết các hợp đồng kinh tế là hoàn toàn hợp pháp. Ông Tỉnh, ông
Mạnh là người ký kết hợp đồng nhân danh pháp nhân, không phải nhân danh cá nhân
nên không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vì vậy, không thể xác định
ông Tỉnh và ông Mạnh là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này
như yêu cầu của phía bị đơn cũng như nhận định của Toà án cấp phúc thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bản
thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Lê Thị Ngọc Lan và
ông Lê Văn Dũng và Bản cam kết về nợ của Công ty giữa ông Lê Văn Dũng và bà
Nguyễn Thị Toàn để cho rằng ông Dũng, bà Lan, bà Toàn đều là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cũng là không đúng. Bởi lẽ, việc chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan; việc
bà Nguyễn Thị Toàn và ông Lê Văn Dũng có thỏa thuận với nhau về trách nhiệm thanh
toán các khoản nợ là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên. Việc cam kết về
nợ giữa ông Dũng và bà Toàn chưa được bên có quyền là Công ty thép Việt Ý đồng
ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều 315 Bộ luật dân sự năm 2005
thì: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ
nếu được bên có quyền đồng ý”. Quá trình giải quyết vụ án, ông Dũng, bà Lan đã
có lời khai rõ ràng về việc thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng về việc
ký kết hợp đồng với Công ty thép Việt Ý, về trách nhiệm của Công ty kim khí
Hưng Yên trong việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng; ông Dũng cũng đã có yêu cầu
không tham gia phiên toà. Vì vậy, việc triệu tập ông Dũng, bà Lan để lấy lời
khai và đối chất như nhận định của Toà án cấp phúc thẩm là không cần thiết. Từ
đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
18/2009/KDTM-ST ngày 03-9-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; chuyển hồ sơ
vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại là không đúng pháp luật.
2. Về nội dung: Quá trình thực hiện hợp
đồng, Công ty thép Việt Ý đã chuyển tiền bằng ủy nhiệm chi cho Công ty kim khí
Hưng Yên; Công ty kim khí Hưng Yên cũng đã giao hàng cho Công ty thép Việt Ý
(thể hiện qua các Biên bản giao hàng đều có dấu của Công ty kim khí Hưng Yên).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật dân sự 2005 thì:
“Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân”. Do đó, trong trường
hợp này, Công ty kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ
cho Công ty thép Việt Ý.
Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện
không đúng cam kết như trong hợp đồng (giao không đủ hàng cho Công ty thép Việt
Ý), nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu Toà án buộc Công ty kim khí
Hưng Yên phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận (tương đương với số hàng chưa
giao), tiền lãi do chậm thanh toán, tiền phạt hợp đồng, tiền bồi thường thiệt hại
(do không giao hàng nên Công ty thép Việt Ý đã phải mua của đơn vị khác và phải
trả tiền cao hơn so với giá đã thoả thuận với Công ty kim khí Hưng Yên) là có
căn cứ đúng theo quy định tại Điều 34, khoản 3 Điều 297, các Điều
300, 301, 302, 306, 307 Luật thương mại năm 2005.
Tuy nhiên, khi quyết định về những khoản
tiền mà Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt Ý, Tòa án cấp
sơ thẩm đã tính toán chưa chính xác, cụ thể như sau:
Đối với số tiền ứng trước mà không nhận
được hàng của 4 Hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số
tiền và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả lại cho Công ty thép Việt Ý là
đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án
cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005
nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm
thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn
để áp dụng mức lãi suất quá hạn (là 10, 5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp
này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại
địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng
thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương
Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp
luật.
Về phạt vi phạm hợp đồng: hai bên thỏa
thuận: Bên B phải chịu phạt 2% giá trị đơn hàng đã được xác nhận khi bên B vi
phạm một trong các trường hợp sau: giao hàng không đúng chủng loại, không giao
hàng. Như vậy, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng cho Công ty thép Việt
Ý thì phải bị phạt vi phạm là 2% trên giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm
theo quy định tại Điều 300 và Điều 301 Luật thương mại năm 2005.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty thép Việt
Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là
không đúng.
Về số tiền bồi thường thiệt hại: Theo
trình bày của đại diện Công ty thép Việt Ý là do Công ty
kim khí Hưng Yên vi phạm hợp đồng không giao đủ hàng, nên Công ty thép Việt Ý
phải mua phôi thép của nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh
doanh của Công ty với giá cao hơn. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào các Hợp đồng
mua bán phôi thép mà Công ty thép Việt Ý ký với nhà sản xuất khác để buộc Công
ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt Ý khoản tiền chênh lệch do
phải mua hàng với giá cao hơn, nhưng chưa xem xét làm rõ, việc mua hàng của nhà
sản xuất khác này có đúng là để bù vào số hàng còn thiếu do Công ty kim khí
Hưng Yên không giao đủ để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh theo kế hoạch đã
đặt ra hay không, về vấn đề này Tòa án cần phải yêu cầu Công ty thép Việt Ý
cung cấp tài liệu, chứng cứ (như đơn đặt hàng của bên thứ ba, kế hoạch sản xuất
kinh doanh...) để chứng minh thiệt hại thực tế xảy ra, từ đó mới có căn cứ buộc
Công ty kim khí Hưng Yên thanh toán số tiền bồi thường thiệt hại cho phù hợp.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi thường thiệt
hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật thương mại năm
2005.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng
dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011),
QUYẾT
ĐỊNH:
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 63/KDTM-PT ngày 05-4-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày
03-9-2009 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân
dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Đối với số tiền ứng trước mà
không nhận được hàng của 4 hợp đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định
chính xác số tiền và buộc Công ty Hưng Yên phải trả lại cho Công ty Việt Ý là
đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án
cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005 nhưng không lấy mức
lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ
thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá
hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi
suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam...) để tính
lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”.
“Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu
cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính
lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là không đúng”.
“Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền
lãi của khoản tiền bồi thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật thương mại năm 2005”.
Án lệ số
10/2016/AL về quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết
định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số
08/2014/HC-GĐT ngày 19-8-2014 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất” tại tỉnh Vĩnh Long giữa
người khởi kiện là bà Võ Thị Lựu với người bị kiện là Ủy ban nhân
dân tỉnh Vĩnh Long.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 1 phần “Xét thấy” của quyết định
giám đốc thẩm nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Quyết định về việc phê duyệt phương
án hỗ trợ và tái định cư của Ủy ban nhân dân tỉnh có nội dung dẫn chiếu đến văn
bản khác mà văn bản đó có nội dung tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người khởi kiện.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, nội dung của văn bản
được dẫn chiếu thuộc quyết định hành chính và quyết định hành chính đó là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Quy định của pháp luật liên
quan đến án lệ:
- Khoản 1 Điều 3
và khoản 1 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 Luật tố tụng hành chính năm 2015);
- Các điều 41, 42 Luật
đất đai năm 2003;
- Nghị định số 197/NĐ-CP ngày
03-12-2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất;
- Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày
13-8-2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Từ khóa của án lệ:
“Quyết định hành chính”; “Đối tượng
khởi kiện vụ án hành chính”; “Thu hồi đất”; “Bồi thường, tái định cư cho
người có đất bị thu hồi”.
NỘI
DUNG VỤ ÁN
Ngày 07-4-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh
Long ban hành Quyết định số 567/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án tổng thể về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống
vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, có nội
dung:
“Phê duyệt phương án tổng thể về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư dự án xây dựng Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh
Vĩnh Long:
Tổng diện tích đất dự kiến thu hồi:
122.909m²
Tổng giá trị bồi thường dự kiến:
7.342.730.000đ”.
Ngày 17-9-2008, Ủy ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1768/QĐ-UBND , nội dung: Thu hồi 117.863,1m² đất tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm do hộ gia đình, cá nhân và
tổ chức quản lý sử dụng để thực hiện dự án xây dựng trại giống vật nuôi nông
nghiệp tỉnh và giao cho Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm quyết định thu hồi đất.
Ngày 02-10-2008, Ủy ban nhân dân huyện
Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2592/QĐ-UBND , nội dung: Thu hồi 2.353,1m² đất
của bà Võ Thị Lựu, chiết thửa số 222, loại đất trồng lúa thuộc tờ bản đồ số 03,
tọa lạc tại ấp Rạch Cốc, xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm để xây dựng trại giống
vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 01-12-2008, Ban bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tiến hành lập tờ khai và kiểm kê về nhà, đất,
cây trồng và vật kiến trúc của các hộ bị ảnh hưởng giải tỏa thuộc dự án xây dựng
Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh.
Ngày 15-5-2009, Sở Tài chính tỉnh
Vĩnh Long có Tờ trình số 177/TTr.STC gửi Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc
xin phê duyệt phương án đền bù giải tỏa mặt bằng công trình Trại giống vật nuôi
nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long, theo đó hộ bà Lựu được bồi thường hỗ trợ về đất số
tiền là 155.155.000đ (theo quyết định thì giá đất bồi thường cho bà Lựu với giá
là 50.000đ/m²); bồi thường hỗ trợ về tài sản trên đất, ổn định cuộc sống và đào
tạo nghề số tiền là 19.286.200đ; tổng số tiền là 174.441.200đ.
Ngày 04-6-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh Vĩnh Long ban hành Quyết định số 1216/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông nghiệp
tỉnh tại xã Tân An Luông, huyện Vũng Liêm, nội dung:
“Điều 1. Phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư công trình: Trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh, tại xã
Tân An Luông, huyện Vũng Liêm;
1. Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư: 9.467.085.000đ, bao gồm:
- Giá trị bồi thường, hỗ trợ về đất:
8.071.914.000đ
- Giá trị nhà và vật kiến trúc:
161.560.000đ
- Giá trị cây trồng: 273.152.000đ
- Các khoản hỗ trợ: 654.600.000đ
- Các phí khác (chi phí các hội đồng
2%, chi phí đo đạc): 305.859.000đ
2. Kinh phí: Trong tổng dự toán công
trình do chủ đầu tư chi trả;
Điều 2. Căn cứ vào Điều 1 của Quyết định
này, Giám đốc Sở Tài chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng Liêm, Hội đồng
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm có trách nhiệm:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Vũng
Liêm chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện Vũng Liêm tổ chức
chi trả bồi thường đúng theo quy định hiện hành của Nhà nước và giải phóng mặt
bằng cho đơn vị thi công,
- Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm
trước ủy ban nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong
tờ trình số 177/TTr.STC ngày 15/5/2009”.
Không đồng ý với quyết định nêu trên,
bà Lựu có đơn khiếu nại yêu cầu nâng giá bồi thường.
Ngày 28-10-2009, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện Vũng Liêm ban hành Quyết định số 2023/QĐ-UBND không chấp nhận khiếu nại
của bà Lựu.
Ngày 08-8-2011, bà Lựu có đơn khởi kiện
tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long yêu cầu hủy Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày
04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với phần áp giá, bồi thường;
yêu cầu giải quyết lại nâng giá bồi thường đất bằng với giá thị trường chuyển
nhượng ở nơi có đất thu hồi.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số
12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã bác yêu cầu khởi
kiện của bà Võ Thị Lựu.
Ngày 29-12-2012, bà Lựu có đơn kháng
cáo.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số
96/2013/HCPT ngày 25-4-2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố
Hồ Chí Minh đã hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HCST ngày 18-12-2012 của
Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ngày 28-6-2013, Ủy ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Long có Công văn số 1816/UBND-NC và ngày 02-8-2013, Ủy ban Thẩm phán Tòa
án nhân dân tỉnh Vĩnh Long có Công văn số 547/TAT-HC đề nghị giám đốc thẩm Bản
án hành chính phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 05/2014/KN-HC ngày
05-3-2014, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính
phúc thẩm số 96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hành chính phúc thẩm
nêu trên và giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện
viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao nhận định:
Theo Điều 2 của Quyết định số
1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông
nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số
177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài
chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó
tác động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi
kiện vụ án hành chính.
Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long đã thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Lựu về phần bồi thường hỗ trợ
cho gia đình bà trong Quyết định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 là đúng với quy
định tại khoản 1 Điều 3 và khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành
chính. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét làm rõ mục đích của việc
thu hồi đất để xây dựng trại giống vật nuôi nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long là cơ sở
kinh tế của Nhà nước hay của tư nhân để làm cơ sở giải quyết bồi thường, hỗ trợ
khi thu hồi đất của gia đình bà Lựu theo đúng quy định của pháp luật.
Bà Lựu kháng cáo yêu cầu được bồi thường
về đất theo giá thị trường. Trong trường hợp này, Tòa án cấp phúc thẩm phải xem
xét đơn kháng cáo của bà Lựu về vấn đề bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất cho
gia đình bà Lựu có đúng quy định của pháp luật không, nhưng lại cho rằng Quyết
định số 1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long là quyết
định mang tính tổng thể, không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính nên
đã xử hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày 18-12-2012 của Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Long và đình chỉ giải quyết vụ án là sai lầm nghiêm trọng
trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính.
Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 3 Điều 219, khoản 3 Điều 225, khoản 1, 2 Điều 227 Luật tố tụng
hành chính,
QUYẾT
ĐỊNH:
1. Chấp nhận Kháng nghị số
05/2014/KN-HC ngày 05-3-2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số
96/2013/HC-PT ngày 25-4-2013 cùa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2012/HC-ST ngày
18-12-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long; giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân
dân tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
NỘI
DUNG ÁN LỆ
“Theo Điều 2 của Quyết định số
1216/QĐ-UBND ngày 04-6-2009 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trại giống vật nuôi nông
nghiệp tỉnh có quy định “Giám đốc Sở Tài chính chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân tỉnh về kết quả các số liệu, khối lượng và đơn giá, trong tờ trình số
177/TTr.STC ngày 15-5-2009”. Theo Tờ trình 177/TTr ngày 15-5-2009 của Sở Tài
chính có quy định phần bồi thường cụ thể cho hộ bà Lựu, nên phần phê duyệt đó tác
động trực tiếp, cụ thể đến quyền và lợi ích của hộ bà Lựu, là đối tượng khởi kiện
vụ án hành chính”.