CHÍNH PHỦ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 86/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 06 tháng
8 năm 2021
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ CÁC GIẢI PHÁP CẤP BÁCH PHÒNG, CHỐNG DỊCH BỆNH COVID-19 ĐỂ
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 30/2021/QH15 NGÀY 28 THÁNG 7 NĂM 2021 CỦA QUỐC HỘI KHÓA
XV
CHÍNH PHỦ
Căn
cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22
tháng 11 năm 2019;
Căn
cứ Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội
khóa XV;
Căn
cứ Nghị quyết số 268/NQ-UBTVQH15 ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về việc cho phép Chính phủ ban hành Nghị quyết có một số nội dung khác
với quy định của luật để đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch COVID-19;
Căn
cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của Chính phủ ban hành
Quy chế làm việc của Chính phủ;
Theo
đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế và ý kiến thống nhất của các Thành viên Chính phủ,
QUYẾT NGHỊ:
Dịch bệnh COVID-19, với sự xuất hiện của biến chủng
Delta đang diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh, lây lan nhanh và gây tử vong cao
tại nhiều nước trên thế giới, nhất là tại khu vực Đông Nam Á. Tại Việt Nam, đợt
bùng phát dịch lần thứ tư có tốc độ lây rất nhanh, đã lan rộng ra nhiều địa
phương với quy mô lớn nhất từ trước đến nay và tiếp tục diễn biến khó lường. Đặc
biệt, dịch bệnh đã lan rộng, ngấm sâu vào cộng đồng ở nhiều khu vực thuộc địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam với số người bị nhiễm rất
cao, gây tổn hại rất lớn về tính mạng, sức khỏe và đời sống nhân dân, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội và sự phối hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp
thời ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản để tập trung chỉ đạo các cấp,
các ngành, các địa phương thực hiện quyết liệt, đồng bộ, linh hoạt các nhiệm vụ,
giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thích ứng với tình hình; huy động sự
vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của cộng đồng doanh
nghiệp, Nhân dân cả nước; với yêu cầu đặt tính mạng, sức khỏe của Nhân dân lên
trên hết, trước hết, qua đó đã từng bước kiểm soát được tình hình dịch bệnh, sớm
đưa cuộc sống trở lại trạng thái “bình thường mới”.
Chính phủ ghi nhận, đánh giá cao tinh thần trách
nhiệm, quyết tâm, đoàn kết, đồng lòng chia sẻ để cùng nhau phòng, chống dịch của
các cấp, các ngành, các địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước;
đặc biệt biểu dương các lực lượng tuyến đầu chống dịch, đội ngũ bác sỹ, điều dưỡng,
kỹ thuật viên, cán bộ, nhân viên y tế, cán bộ, chiến sỹ quân đội, công an, cán
bộ ở cơ sở và đội ngũ tình nguyện viên đã tận tâm, nỗ lực vượt bậc trong công
tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Nhân dân.
Tuy nhiên, trong công tác phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, không ít cơ quan, đơn vị, địa phương còn thực hiện chưa thật nghiêm,
thật dứt khoát, thực chất các biện pháp theo quy định, thậm chí còn chủ quan,
lơ là; thiếu đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm
được khắc phục, nhất là ở cơ sở tại một số địa phương.
Việc thực hiện phương châm “4 tại chỗ” ở nhiều
nơi còn chưa được quán triệt, chưa đúng, chưa đầy đủ trách nhiệm, còn bộc lộ
nhiều hạn chế dẫn tới lúng túng khi tình hình, diễn biến dịch bệnh thay đổi. Việc
tổ chức tiêm vắc xin còn chậm, chưa thật sự khoa học, hiệu quả. Việc quản lý,
kiểm soát người ra vào vùng có dịch chưa chặt chẽ, không ít nơi còn buông lỏng,
chủ quan. Việc tổ chức vận tải, lưu thông hàng hóa vẫn còn tình trạng vừa thiếu
an toàn, vừa ách tắc cục bộ. Một bộ phận tổ chức, doanh nghiệp, người dân chưa
ý thức được sự nguy hiểm, lây lan nhanh của biến chủng mới Delta và chưa chấp
hành đầy đủ, nghiêm túc các quy định phòng, chống dịch bệnh.
Thời gian tới, tình hình dịch bệnh COVID-19 còn
diễn biến phức tạp, khó dự báo, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của
Nhân dân và ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là trong
bối cảnh nguồn cung ứng vắc xin còn hạn chế, trước mắt chưa có thuốc điều trị đặc
hiệu. Phòng, chống dịch bệnh COVID-19 là nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm, hàng đầu
của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương và của toàn dân trong giai đoạn
hiện nay.
Thực hiện Kết luận số 11-KL/TW ngày 13
tháng 7 năm 2021 của Hội nghị Trung ương 3 khóa XIII, Văn bản số 79-CV/TW ngày
29 tháng 01 năm 2020 của Ban Bí thư, Thông báo số 172-TB/TW ngày 21
tháng 3 năm 2020 về kết luận của Bộ Chính trị về công tác phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, Kết luận của Bộ Chính trị tại Công văn số 50-CV/VPTW ngày
19 tháng 02 năm 2021 của Văn phòng Trung ương Đảng, Kết luận số 07-KL/TW ngày
11 tháng 6 năm 2021 của Bộ Chính trị về công tác phòng, chống dịch COVID-19, Điện
ngày 21 tháng 7 năm 2021 của Thường trực Ban Bí thư, Lời kêu gọi phòng, chống đại
dịch COVID-19 ngày 29 tháng 7 năm 2021 của Tổng Bí thư và Nghị quyết số
30/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội, Chính phủ yêu cầu các bộ,
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và thẩm
quyền được giao, tổ chức thực hiện nghiêm, hiệu quả các văn bản chỉ đạo của Đảng,
Quốc hội, Chủ tịch nước, Lời kêu gọi của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Nghị
quyết của Chính phủ: số 21/NQ-CP ngày 26 tháng 02 năm 2021, số 78/NQ-CP ngày 20
tháng 7 năm 2021 và số 79/NQ-CP ngày 22 tháng 7 năm 2021, các Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ: số 15/CT-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2020 (Chỉ thị 15), số
16/CT-TTg ngày 31 tháng 3 năm 2020 (Chỉ thị 16) và số 19/CT-TTg ngày 24 tháng 4
năm 2020 (Chỉ thị 19), Quyết định số 2686/QĐ-BCĐQG ngày 31 tháng 5 năm 2021
(Quyết định 2686) của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô
hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra (Ban Chỉ đạo Quốc gia)
và văn bản khác của các cơ quan có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương.
Để tiếp tục tập trung ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới
kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19, không để xảy ra khủng hoảng y tế, kinh tế -
xã hội, Chính phủ thống nhất ban hành Nghị quyết về các giải pháp cấp bách
phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày
28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội khóa XV với những nội dung chủ yếu sau đây:
Điều 1. Các giải pháp cấp bách
1. Về
áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19:
Căn cứ Quyết định số 2686 của Ban Chỉ đạo Quốc
gia, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (cấp tỉnh)
chủ động quyết định và chỉ đạo cấp dưới áp dụng nghiêm các giải pháp theo quy định,
tương ứng với các mức độ nguy cơ theo tinh thần Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 và Chỉ
thị 19 của Thủ tướng Chính phủ với phương châm có thể áp dụng sớm hơn, cao hơn
nhưng không được chậm hơn, thấp hơn; trong đó cần đặc biệt lưu ý trong lãnh đạo,
chỉ đạo:
a) Việc áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch,
đặc biệt là thực hiện giãn cách xã hội phải được triển khai thực chất, nghiêm
ngặt, mạnh mẽ, quyết liệt, chặt chẽ ngay từ đầu, xuyên suốt trong tất cả các cấp;
làm việc gì phải dứt khoát việc đó, không chần chừ, do dự, chập chờn, thiếu
cương quyết, thiếu bản lĩnh. Bám sát thực tiễn với tinh thần “hiệu quả trên hết”
phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, tính sáng tạo, vừa làm vừa rút kinh nghiệm
và từng bước mở rộng, hoàn thiện, điều chỉnh ngay bảo đảm sát với diễn biến
tình hình theo tinh thần không cầu toàn, không nóng vội và tuyệt đối không được
chủ quan, lơ là, mất cảnh giác khi dịch đi qua; cấp trên phải thường xuyên đôn
đốc, kiểm tra cấp dưới, rà soát các khâu, các điều kiện, biện pháp phòng, chống
dịch bệnh để sẵn sàng đáp ứng nhanh khi tình hình dịch bệnh thay đổi.
Các địa phương căn cứ vào các quy định chung của
Trung ương, chủ động ban hành theo thẩm quyền các quy định về phòng, chống dịch,
bảo đảm đồng bộ, nhất quán, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phòng, chống
dịch trên địa bàn. Đặc biệt chú trọng chỉ đạo công tác phối hợp chặt chẽ, thông
tin kịp thời giữa các ngành, các địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp kịp thời xử
lý những vấn đề phát sinh phù hợp với tình hình cụ thể tại địa bàn và chịu
trách nhiệm trước cấp trên trực tiếp.
b) Tất cả các địa phương chỉ đạo thực hiện
nghiêm phương châm “đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người”, phát hiện, xử lý
ngay người đến từ vùng có dịch hoặc đến từ địa bàn khác theo quy định của địa
phương mà không khai báo, người rời khỏi địa phương đang giãn cách xã hội mà
không được phép của cấp có thẩm quyền theo quy định.
Căn cứ tình hình và yêu cầu phòng, chống dịch bệnh,
chủ động áp dụng linh hoạt các biện pháp cần thiết như: Hạn chế một số phương
tiện, yêu cầu người dân không ra khỏi nơi cư trú trong khoảng thời gian nhất định,
tại một số khu vực, địa bàn nhất định trên nguyên tắc “ai ở đâu thì ở đó”; dứt
khoát không để người dân tự phát rời khỏi địa bàn đang có dịch làm lây lan sang
các địa bàn, địa phương khác; tổ chức các lực lượng để bảo đảm an ninh, trật tự,
an toàn xã hội trong vùng có dịch; thực hiện biện pháp đặc biệt về thông tin
liên lạc và sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc; kêu gọi, thuyết phục,
huy động, trưng dụng tài sản, phương tiện, trang thiết bị và các biện pháp khác
có thể áp dụng trong tình trạng khẩn cấp để ngăn chặn kịp thời dịch bệnh lây
lan trong phạm vi thẩm quyền quản lý. Trường hợp cần thiết, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi áp dụng.
Xử lý nghiêm các vi phạm, kể cả xử lý hình sự
theo quy định của pháp luật đối với mọi hành vi không tuân thủ, cản trở, chống
đối việc thực hiện các quy định, biện pháp phòng, chống dịch bệnh của cơ quan
có thẩm quyền.
Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an địa phương
tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền và làm nòng cốt trong tổ chức thực hiện
nghiêm các nhiệm vụ này.
c) Các địa phương thực hiện giãn cách xã hội
theo Chỉ thị 15, Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ phải quán triệt nghiêm “chủ
trương 1, tổ chức thực hiện 10”, bảo đảm chặt chẽ, thực chất. Tuyệt đối không để
xảy ra tình trạng giãn cách xã hội hình thức hoặc “chặt ngoài, lỏng trong”. Kể
từ ngày bắt đầu giãn cách: trong thời hạn 14 ngày phải xác định được cụ thể và
bảo vệ được thật chắc các “vùng xanh”; có biện pháp, lộ trình cụ thể để chuyển
“vùng vàng” thành “vùng xanh”, “vùng cam” thành “vùng vàng” và khoanh chặt, thu
hẹp “vùng đỏ”; trong thời hạn 28 ngày phải kiểm soát được tình hình trên địa
bàn, phải cô lập được các “vùng đỏ” ở phạm vi hẹp nhất.
Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu kiểm soát được dịch
bệnh trước ngày 15 tháng 9 năm 2021. Các tỉnh: Bình Dương, Long An, Đồng Nai phấn
đấu kiểm soát được dịch bệnh trước ngày 01 tháng 9 năm 2021. Các tỉnh, thành phố
khác phấn đấu kiểm soát được dịch bệnh trước ngày 25 tháng 8 năm 2021. Bộ Y tế
hướng dẫn thực hiện cụ thể.
d) Cùng với việc thực hiện nghiêm các biện pháp
giãn cách xã hội để phòng, chống dịch, Bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng
và thực hiện phương án đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm, các nhu yếu phẩm
thiết yếu, tuyệt đối không để ai thiếu đói, đồng thời phải bảo đảm các yêu cầu
an toàn phòng, chống dịch bệnh; kịp thời cấp cứu, chữa bệnh cho mọi người dân ở
mọi lúc, mọi nơi.
2. Về
công tác y tế:
Bộ Y tế bám sát diễn biến dịch trong nước và
trên thế giới, cập nhật các giải pháp tiến bộ trong phòng, chống dịch và điều
trị để kịp thời ban hành hoặc đề xuất ban hành các văn bản điều chỉnh, quy định,
hướng dẫn. Văn bản hướng dẫn phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ giám
sát, kiểm tra và dễ đánh giá; phải nêu rõ những điểm bắt buộc thực hiện (cứng)
và những điểm có tính nguyên tắc để trên cơ sở đó các địa phương nêu cao tinh
thần chủ động, trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm và vận dụng sáng tạo.
a) Về xét nghiệm:
Bộ Y tế cập nhật, bổ sung, hướng dẫn và kịp thời
tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét nghiệm bảo đảm khoa học, thiết thực, hiệu quả,
tránh lạm dụng, lãng phí. Hướng dẫn, khuyến nghị, khuyến cáo về các thiết bị và
sinh phẩm xét nghiệm để các địa phương chủ động mua sắm. Bộ Y tế tổ chức mua sắm
tập trung các vật tư, thiết bị cần thiết trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả;
tăng cường giám sát, chấn chỉnh ngay những nơi tổ chức không khoa học, thiếu trọng
tâm, trọng điểm, vừa không ngăn được dịch lây lan, vừa lãng phí.
Các địa phương chỉ đạo xét nghiệm “thần tốc” các
đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao trên địa bàn nhằm phát hiện F0 nhanh nhất phục
vụ công tác truy vết và phân loại điều trị ngay; phải kiểm soát, tuyệt đối
không bỏ sót, không để F0 tiếp tục tiếp xúc, di chuyển làm lây lan dịch bệnh ra
cộng đồng.
Các địa bàn thực hiện phong tỏa cần tập trung
xét nghiệm để phát hiện F0 nhanh nhất, không để lây lan ra cộng đồng. Đối với
các địa bàn có mức độ lây lan rộng, sâu như Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh
lân cận cần thực hiện đồng bộ trong xét nghiệm, chăm sóc, điều trị, bảo đảm giảm
tối đa tỷ lệ bệnh nặng, tỷ lệ tử vong và tuyệt đối không để lây lan sang các địa
bàn khác.
b) Về sàng lọc, phân loại người nhiễm và điều trị
bệnh nhân COVID-19:
Bộ Y tế hướng dẫn về chuyên môn; các địa phương,
bộ ngành chỉ đạo cơ quan y tế, cơ sở y tế thuộc thẩm quyền tổ chức sàng lọc,
phân loại người nhiễm theo tình trạng, diễn biến bệnh lý để có biện pháp theo
dõi, chăm sóc, điều trị phù hợp, hiệu quả, bảo đảm giảm tỷ lệ người nhiễm có
triệu chứng, tỷ lệ chuyển bệnh nặng hơn ở tất cả các tầng, các lớp điều trị. Đặc
biệt chú trọng việc quản lý, chăm sóc người bị nhiễm chưa có triệu chứng; việc
chủ động chuẩn bị ô xy y tế (nhất là hệ thống ô xy tập trung) ở các tầng điều
trị. Điều phối phù hợp, tập trung mọi nguồn lực, trang thiết bị để cứu chữa giảm
bệnh nhân nặng, nguy kịch, hạn chế tối đa tử vong. Duy trì hoạt động của hệ thống
khám bệnh, chữa bệnh an toàn. Bảo đảm hệ thống thường trực cấp cứu, xe cứu
thương, ô xy y tế, máy thở và các trang thiết bị y tế thiết yếu phục vụ phòng,
chống dịch bệnh, cấp cứu, điều trị người bệnh.
c) Về vắc xin, thuốc điều trị COVID-19:
- Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Ngoại giao đẩy mạnh hoạt động “ngoại giao vắc
xin” bằng mọi biện pháp; thúc đẩy viện trợ, mua, nhập khẩu vắc xin để đáp ứng
yêu cầu tiêm nhanh nhất, nhiều nhất có thể, sớm đạt miễn dịch cộng đồng;
- Căn cứ chỉ đạo, chủ trương của Thủ tướng
Chính phủ và Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo Quốc gia, Bộ Y tế kịp
thời phân bổ vắc xin cho các tỉnh, thành phố, trong đó ưu tiên cấp cho địa
phương có nhiều người nhiễm, nhiều ca tử vong, tình hình dịch bệnh phức tạp,
lây lan nhanh, các đô thị lớn, đông dân cư, tập trung nhiều khu công nghiệp,
phù hợp với yêu cầu phòng, chống dịch bệnh đối với từng địa phương và công khai
việc phân bổ. Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Y tế báo cáo đề xuất Thủ tướng
Chính phủ điều chỉnh hoặc Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Y tế điều chỉnh việc
phân bổ. Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
việc ưu tiên các đối tượng tiêm vắc xin phù hợp, hiệu quả với tình hình dịch bệnh;
- Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ,
ngành, địa phương chỉ đạo tổ chức tiêm vắc xin, bảo đảm tiến độ nhanh nhất, an
toàn, hiệu quả, phù hợp với tình hình dịch bệnh ở từng nơi; huy động mọi lực lượng
y tế công lập, tư nhân và các lực lượng hỗ trợ khác triển khai chiến dịch tiêm
vắc xin trên toàn quốc, nhất là tại các địa phương có nhiều ca nhiễm. Tăng cường
tìm kiếm và khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân chủ động tìm kiếm nguồn
và mua vắc xin, thuốc điều trị COVID-19. Bộ Y tế có trách nhiệm kiểm định, cấp
phép, bảo quản và chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức chiến dịch tiêm vắc xin miễn
phí cho người dân;
- Các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Khoa học và
Công nghệ, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam và các bộ, cơ quan liên
quan phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, ứng dụng,
chuyển giao công nghệ, tổ chức thử lâm sàng cùng với các cơ sở nghiên cứu, chuyển
giao, sản xuất vắc xin, cấp phép sử dụng có điều kiện, sản xuất vắc xin, thuốc
điều trị COVID-19 và trang thiết bị, vật tư y tế trong nước để đáp ứng yêu cầu
phòng, chống dịch bệnh nhanh nhất, sớm nhất và với giá thấp nhất có thể; tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, bảo đảm công bằng
trong chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin và thuốc điều trị; tham khảo kinh
nghiệm các nước và tham vấn chuyên môn với Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khi
cần thiết;
- Trên cơ sở đề xuất của Bộ Y tế, các bộ,
cơ quan, đơn vị, Bộ Tài chính chủ trì tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền quyết định
về một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ phù hợp, hiệu quả cho việc nghiên cứu,
ứng dụng, chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin, thuốc điều trị COVID-19 và
trang thiết bị, vật tư y tế cần thiết trong nước.
d) Xây
dựng kịch bản và bảo đảm công tác y tế phòng, chống dịch bệnh COVID-19:
- Căn cứ mức độ nguy cơ, diễn biến dịch bệnh,
Bộ Y tế xây dựng các kịch bản phòng, chống dịch ở mức thấp, mức trung bình, mức
cao và các phương án ứng phó tương ứng bảo đảm công tác y tế trên toàn quốc.
Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan, căn cứ vào khả năng cân đối
của ngân sách nhà nước để bố trí kinh phí mua sắm, dự trữ, tổ chức lực lượng
phù hợp, hiệu quả phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh, báo cáo Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong quý III năm 2021. Căn cứ yêu cầu
thực tế phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng
các kịch bản ở mức thấp, mức trung bình, mức cao và các phương án ứng phó tương
ứng bảo đảm công tác y tế trên địa bàn theo thẩm quyền; trường hợp vượt thẩm
quyền, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ kịch bản,
phương án của địa phương mình để phê duyệt, chủ động thực hiện việc thành lập,
xây dựng cơ sở thu dung, điều trị COVID-19; mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế;
dự trữ, bố trí nguồn lực và tổ chức lực lượng để phục vụ kịp thời, hiệu quả
công tác phòng, chống dịch bệnh trên địa bàn;
- Bộ Y tế, các bộ, ngành, địa phương huy động
hệ thống y tế công lập, tư nhân và các nguồn lực xã hội để kịp thời phối hợp
trong triển khai công tác dự phòng, điều trị, tiêm vắc xin, đầu tư cơ sở vật chất
và các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả và theo
đúng quy định.
3. Về bảo đảm an ninh, trật tự:
a) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, tổ
chức các lực lượng, cơ quan, đơn vị tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an
ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật khác; có phương án chủ động ứng phó với các diễn biến phức tạp về
an ninh, trật tự trên địa bàn.
b) Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an phối hợp
với các cơ quan chức năng và các địa phương tăng cường bám sát địa bàn, kiểm
soát chặt chẽ việc thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội và các giải pháp
phòng, chống dịch bệnh, chú trọng phát huy vai trò của công an cấp cơ sở, xử lý
nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật; phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội để tăng cường công tác quản lý, bảo đảm an toàn các cơ sở
cai nghiện, cơ sở bảo trợ xã hội.
c) Bộ Quốc phòng chỉ đạo các lực lượng quân đội,
nhất là lực lượng quân y, binh chủng hóa học, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ
phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác phòng, chống dịch bệnh;
tham gia sản xuất, cung ứng trang thiết bị, vật tư và tham gia cứu trợ Nhân dân
trong khu vực cách ly, phong tỏa; chú trọng quản lý chặt chẽ biên giới, đường
mòn, lối mở, xuất cảnh, nhập cảnh; giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.
4. Về sản xuất, cung ứng, lưu thông, vận
chuyển hàng hóa:
Các bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn tập trung chỉ đạo:
a) Duy trì hoạt động sản xuất, tránh làm đứt gãy
các chuỗi cung ứng lao động, hàng hóa, dịch vụ, vật tư, nguyên liệu phục vụ sản
xuất nhưng phải bảo đảm, tạo điều kiện cao nhất các yêu cầu về phòng, chống dịch
bệnh COVID-19 và chỉ những cơ sở bảo đảm an toàn phòng, chống dịch bệnh theo
quy định mới được phép hoạt động, trên tinh thần an toàn để sản xuất, sản xuất
phải an toàn.
b) Tạo điều kiện cao nhất để vận chuyển, lưu
thông hàng hóa, vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất bảo đảm an toàn, liên
thông, thống nhất, thông suốt giữa các tỉnh, thành phố, địa bàn; có biện pháp
kiểm soát chặt chẽ tại điểm đầu và điểm cuối trong chuỗi cung ứng, lưu thông, vận
chuyển hàng hóa. Chủ động có các giải pháp hỗ trợ bảo đảm sản xuất, cung ứng,
lưu thông đối với nhóm hàng hóa là trang thiết bị, vật tư y tế, thuốc, hóa chất,
ô xy y tế, phương tiện, dịch vụ phục vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
c) Bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời lương thực,
thực phẩm, nhu yếu phẩm, ổn định đời sống của người dân, đặc biệt là bảo đảm
cung ứng trực tiếp đến người dân ở những khu vực phong tỏa, giãn cách xã hội.
d) Huy
động các lực lượng công an, quân đội, dân vận, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp, các hội
nghề nghiệp, hội đồng hương... và Nhân dân cả nước tham gia sản xuất, cung ứng,
lưu thông, vận chuyển hàng hóa, nhất là lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm phục
vụ người dân.
5. Về các chính sách hỗ
trợ, bảo đảm an sinh xã hội:
a) Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền tập trung chỉ đạo:
- Triển khai hiệu
quả Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ và Quyết định
số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch
COVID-19; thường xuyên rà soát, cập nhật, không bỏ sót đối tượng cần cứu trợ,
không để ai bị thiếu đói, bám sát tình hình và yêu cầu thực tế để tiếp tục mở rộng
hoặc điều chỉnh phù hợp các đối tượng được trợ cấp khi gặp khó khăn và giảm tối
đa các thủ tục hành chính khi thực hiện nhiệm vụ này;
- Chăm lo đời sống
Nhân dân, đặc biệt là người có công, gia đình chính sách, hộ nghèo, phụ nữ, trẻ
em, người cao tuổi, người khuyết tật, người yếu thế, người có hoàn cảnh khó
khăn, người mất việc làm do dịch bệnh COVID-19 và lực lượng tuyến đầu chống dịch,
bảo đảm kịp thời, thực chất, hiệu quả.
b) Bộ Y tế chủ trì, phối
hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan khẩn trương rà soát, đề xuất
chính sách hỗ trợ phù hợp và bảo đảm trang thiết bị phòng hộ đối với lực lượng
tham gia tuyến đầu chống dịch, đội ngũ bác sỹ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, nhân
viên y tế; cán bộ, chiến sỹ quân đội, công an, cán bộ cơ sở và đội ngũ tình
nguyện viên.
c) Các địa phương đẩy
mạnh việc thành lập, tổ chức các trung tâm, tổ, nhóm hỗ trợ, cứu trợ với hình
thức tổ chức, phương thức hoạt động phù hợp, kịp thời đáp ứng nhu cầu của người
dân và yêu cầu phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trên địa bàn; lập và duy
trì đường dây nóng 24/24 giờ để kịp thời tiếp nhận thông tin cần hỗ trợ của người
dân về chăm sóc y tế và sinh hoạt thiết yếu; có hệ thống giám sát y tế tại cộng
đồng để kịp thời hỗ trợ người dân; bảo đảm trang thiết bị phòng hộ cho đội ngũ
tình nguyện viên của các trung tâm hỗ trợ, cứu trợ ...
6. Về thông tin, truyền
thông và ứng dụng công nghệ thông tin:
a) Bộ Y tế, Sở Y tế,
cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh COVID-19 các cấp là
đầu mối cung cấp kịp thời thông tin chính thức về dịch bệnh và các giải pháp
phòng, chống dịch bệnh cho người dân, doanh nghiệp; tổ chức đội ngũ chuyên gia,
tình nguyện viên kịp thời hướng dẫn, hỗ trợ người dân phòng, chống dịch bệnh và
chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là đối tượng F0, F1.
b) Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh:
- Chỉ đạo tổ chức
thực hiện thống nhất một đầu mối về truyền thông, tăng cường hệ thống thông tin
cơ sở, thường xuyên cung cấp các bản tin tuyên truyền, phổ biến, vận động, hướng
dẫn, kêu gọi người dân trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19; cải
chính, phản bác, đấu tranh với các thông tin xấu độc, bịa đặt, thông tin giả mạo,
xuyên tạc về công tác phòng, chống dịch bệnh của các cấp, các ngành, các địa
phương;
- Triển khai có
hiệu quả các nền tảng công nghệ dùng chung đã được các Bộ: Thông tin và Truyền
thông, Y tế, Công an, Quốc phòng và các cơ quan có thẩm quyền công bố; chủ động
triển khai các ứng dụng công nghệ khác phù hợp với các nền tảng công nghệ dùng
chung, đáp ứng kịp thời yêu cầu phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trên địa
bàn;
- Tổ chức, phân
công đầu mối để phối hợp, kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu kịp thời, hiệu quả
với các Bộ: Thông tin và Truyền thông, Y tế, Công an, Quốc phòng, Văn phòng
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền khác.
c) Bộ Thông tin và Truyền thông và các bộ, ngành, địa
phương trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm:
- Chỉ đạo các
doanh nghiệp an toàn, an ninh mạng ứng trực 24/24 giờ, bảo đảm thông suốt, an
toàn, an ninh mạng, đặc biệt là các hệ thống thông tin, nền tảng công nghệ phục
vụ công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19;
- Chỉ đạo các lực
lượng chức năng, các doanh nghiệp viễn thông phối hợp với các lực lượng khác ứng
trực 24/24 giờ, sẵn sàng các phương án kỹ thuật, biện pháp, công cụ cần thiết để
ngăn chặn, xử lý nghiêm thông tin xấu độc trên không gian mạng;
- Phối hợp chặt
chẽ với Bộ Y tế, Ban Tuyên giáo Trung ương và các bộ, ngành, địa phương thực hiện
thống nhất đầu mối, chủ động cung cấp, xử lý thông tin kịp thời, chính xác; chỉ
đạo các cơ quan báo chí tăng cường các hình thức truyền thông, tuyên truyền,
truyền cảm hứng, nêu gương người tốt, việc tốt, cách làm hay, mô hình hiệu quả,
đồng thời đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động, sai sự thật về
phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
7. Về kinh phí:
a) Bộ Tài chính, các bộ, ngành, địa phương:
- Ưu tiên sắp xếp,
bố trí ngân sách nhà nước và các nguồn lực hợp pháp khác để bảo đảm kinh phí
cho công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 và cơ sở điều trị người bệnh
COVID-19; giao Bộ Y tế tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ
chi thường xuyên cho các cơ sở y tế công lập thu không đủ chi do tác động của dịch.
Thực hiện cắt giảm tối thiểu 50% chi phí hội nghị, công tác trong và ngoài nước
còn lại của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương (trừ kinh phí hoạt động quan
trọng, cấp bách và phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh của Bộ Y tế, Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an, kinh phí hoạt động ngoại giao của Bộ Ngoại giao) và tiết kiệm
thêm 10% kinh phí chi thường xuyên khác còn lại của năm 2021 không tính tiền
lương và các khoản thu nhập khác; thu hồi các khoản chi thường xuyên chưa thực
sự cần thiết, chậm triển khai để bổ sung dự phòng ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương, tập trung kinh phí cho công tác phòng, chống dịch bệnh
COVID-19;
- Đối với việc điều
chỉnh, cắt giảm kinh phí của các nhiệm vụ chi chưa thật sự cần thiết để tập
trung kinh phí phòng, chống dịch bệnh và việc chuyển nguồn kinh phí phòng, chống
dịch bệnh chưa sử dụng hết sang năm sau: Các bộ, cơ quan trung ương, địa phương
chủ động thực hiện theo thẩm quyền; trường hợp vượt thẩm quyền thì đề xuất Bộ
Tài chính để tổng hợp, trình cấp có thẩm quyền theo quy định.
b) Căn cứ yêu cầu công
tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19, sau khi đã rà soát, huy động, sử dụng ngân
sách địa phương và các nguồn lực hợp pháp khác mà vẫn còn khó khăn, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đề nghị ngân sách trung ương hỗ trợ thực hiện. Bộ Tài chính chủ
trì rà soát thẩm định, đề xuất cấp thẩm quyền quyết định mức hỗ trợ, tạm cấp từ
ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương.
c) Bộ Y tế chủ trì, rà
soát nhu cầu kinh phí mua, nhập khẩu và phương án sử dụng vắc xin, gửi Bộ Tài
chính tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sử dụng nguồn ngân
sách nhà nước và Quỹ vắc xin phòng, chống COVID-19.
Bộ Y tế xác định số lượng
vắc xin, trang thiết bị, vật tư y tế, thuốc, hóa chất, phương tiện phục vụ
phòng, chống dịch bệnh COVID-19 mua sắm tại Trung ương đã phân bổ, đã thực cấp
cho các địa phương và chi phí liên quan, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, theo
dõi, xác định số kinh phí ngân sách địa phương phải chi theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 26 tháng 02 năm 2021
và khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày 22 tháng 7 năm
2021. Bộ Tài chính công khai, minh bạch việc sử dụng Quỹ vắc xin phòng, chống
COVID-19 trên phương tiện thông tin đại chúng.
d) Trên cơ sở dự toán
ngân sách được giao và các nguồn kinh phí hợp pháp khác, các bộ, ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị được chủ động quyết định sử dụng, mua sắm theo các kịch
bản và phương án ứng phó đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; được phép mua sắm
với số lượng cao hơn nhu cầu thực tế để dự phòng trường hợp dịch bệnh có diễn
biến phức tạp, phát sinh, hạn chế tối đa lãng phí nguồn lực.
đ) Căn cứ chức năng,
nhiệm vụ được giao, Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan đề xuất
việc xuất cấp hàng dự trữ quốc gia để kịp thời phục vụ phòng, chống dịch bệnh
COVID-19, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét,
quyết định.
e) Đối với những vấn đề
luật quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Úy ban Thường vụ Quốc hội liên
quan đến kinh phí phòng, chống dịch bệnh COVID-19 thì Bộ, ngành, cơ quan trung
ương, địa phương đề xuất Bộ Tài chính tổng hợp, trình Chính phủ báo cáo Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định trước khi thực hiện theo quy định tại điểm 3.2 Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội.
8. Về tổ chức, nhân lực:
a) Bộ Y tế khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ kiện
toàn Ban Chỉ đạo Quốc gia, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tiểu ban thuộc
Ban Chỉ đạo bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Các bộ, ngành, cơ quan có
liên quan cử người tham gia và bảo đảm để người được cử tập trung tham gia công
việc của Ban Chỉ đạo Quốc gia.
b) Các địa phương khẩn
trương kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng,
chống dịch các cấp trên địa bàn cho phù hợp với tình hình và yêu cầu phòng, chống
dịch bệnh; có bộ phận thường trực chỉ đạo, điều phối 24/24 giờ, tổ chức theo từng
nhóm chuyên môn để giải quyết kịp thời các vướng mắc, yêu cầu về vật tư, thiết
bị, nhân lực, truyền thông, giao thông vận tải, cứu trợ, hỗ trợ...
c) Căn cứ tình hình và
yêu cầu thực tế, các bộ, ngành, địa phương xem xét, quyết định việc thành lập
trung tâm chỉ huy để chỉ đạo tập trung, thống nhất các cơ quan liên quan thực
hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống dịch bệnh COVID-19 theo chức năng,
nhiệm vụ được giao.
d) Chủ tịch Ủy ban
nhân dân các cấp chỉ đạo và huy động các cơ sở y tế, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tích cực tham gia các hoạt động phòng, chống
dịch bệnh COVID-19 nhưng phải bảo đảm các điều kiện an toàn phòng, chống dịch bệnh
phù hợp với tình hình, diễn biến dịch bệnh.
9. Về tăng cường hợp tác quốc tế:
Bộ Ngoại giao tăng cường
hợp tác quốc tế, tiếp tục triển khai và đẩy mạnh hoạt động “ngoại giao vắc
xin”; vận động, thúc đẩy các đối tác cung cấp vắc xin đúng hoặc sớm hơn thời
gian cam kết; tăng cường hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong sản xuất
vắc xin và thuốc điều trị COVID-19; hỗ trợ trang thiết bị, vật tư và sinh phẩm
y tế; chủ trì đề xuất chính sách xuất cảnh, nhập cảnh phù hợp với tình hình mới;
nghiên cứu, tham mưu việc công nhận và cho phép “hộ chiếu vắc xin nước ngoài”
được sử dụng tại Việt Nam; làm tốt công tác bảo hộ công dân; tăng cường thông
tin đối ngoại về những nỗ lực và kết quả phòng, chống dịch bệnh COVID-19 của Việt
Nam, về sự chủ động, tích cực hợp tác quốc tế của Việt Nam trong phòng, chống dịch.
Điều 2. Các cơ chế, chính sách đặc thù
1. Việc cấp giấy đăng ký lưu hành và thông quan thuốc, vắc
xin phòng COVID-19 được áp dụng các cơ chế sau đây:
a) Khi nộp hồ sơ đăng
ký lưu hành thuốc, vắc xin, trường hợp không có giấy chứng nhận sản phẩm dược
phẩm đối với thuốc, vắc xin nhập khẩu thì được thay thế bằng giấy tờ pháp lý do
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp chứng minh thuốc, vắc xin đã được cấp
phép lưu hành.
b) Đối với thuốc điều
trị, vắc xin phòng COVID-19 được sản xuất tại Việt Nam:
- Thuốc điều trị, vắc
xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước đang thực hiện thử lâm sàng nhưng đã có
kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả điều trị của
thuốc hoặc hiệu quả bảo vệ của vắc xin dựa trên dữ liệu về tính sinh miễn dịch
của vắc xin được sử dụng để xem xét cấp giấy đăng ký lưu hành có điều kiện trên
cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học cấp quốc
gia đối với thuốc, vắc xin thực hiện thử lâm sàng tại Việt Nam và ý kiến tư vấn
của Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đối
với từng thuốc, vắc xin cụ thể, có tham khảo hướng dẫn hoặc khuyến cáo của Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO).
- Thuốc, vắc xin
được cấp trong các trường hợp trên phải được tiếp tục theo dõi về tính an toàn,
hiệu quả, kiểm soát về đối tượng, số lượng, phạm vi sử dụng sau khi cấp giấy
đăng ký lưu hành.
c) Bộ Y tế xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể đối
với việc cho miễn phiếu kiểm nghiệm (COA) cho từng lô thuốc, vắc xin khi thông
quan trong trường hợp cần nhập khẩu khẩn cấp phục vụ yêu cầu phòng, chống dịch
bệnh COVID-19.
Ngoài quy định tại các
điểm a, b, c khoản này, các nội dung khác liên quan đến việc đăng ký
lưu hành và thông quan thuốc, vắc xin phòng COVID-19 phải thực hiện theo quy định
của pháp luật.
d) Việc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc điều trị,
vắc xin phòng COVID-19 đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch bệnh theo Điều 85 Nghị định số 54/2017/NĐ-CP ngày 08 tháng 5 năm 2017 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Dược được miễn
văn bản phê duyệt danh mục thuốc của Bộ Y tế.
2. Các Bộ: Y tế, Quốc
phòng, Công an và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ tình hình thực tiễn quyết định
thành lập, giao nhiệm vụ cơ sở thu dung, điều trị người nhiễm COVID-19. Quyết định
thành lập, giao nhiệm vụ cơ sở thu dung, điều trị người nhiễm COVID-19 đồng thời
là giấy phép hoạt động.
3. Bộ Y tế được quy định
thủ tục hành chính trong thông tư theo trình tự, thủ tục rút gọn đối với việc
áp dụng thí điểm kỹ thuật, thuốc trong chẩn đoán, điều trị COVID-19 và cấp phép
nhập khẩu, cấp giấy đăng ký lưu hành đối với trang thiết bị y tế, hóa chất phục
vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
4. Về cơ chế, hình thức
mua sắm:
a) Các Bộ, ngành quyết
định hình thức lựa chọn nhà thầu mua sắm thuốc, hóa chất, vật tư, trang thiết bị,
phương tiện phục vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19 theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày 22 tháng 7 năm
2021 của Chính phủ.
b) Các địa phương quyết
định hình thức lựa chọn nhà thầu mua sắm thuốc, hóa chất, vật tư, trang thiết bị,
phương tiện phục vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19 theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày 22 tháng 7 năm 2021
của Chính phủ.
Trường hợp lựa chọn
nhà thầu trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 26 của
Luật Đấu thầu thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được tổ chức lập, thẩm
định và quyết định phê duyệt phương án lựa chọn nhà thầu.
c) Khi xây dựng giá
gói thầu mua sắm hóa chất, trang thiết bị, vật tư, phương tiện, dịch vụ phục vụ
phòng, chống dịch bệnh COVID-19 cần căn cứ vào ít nhất một (01) trong các tài
liệu sau:
- Báo giá hàng
hóa, dịch vụ cần mua của ít nhất ba (03) nhà cung cấp khác nhau;
- Dự toán mua sắm
đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (gồm: chủng loại tài sản, hàng hóa, dịch
vụ, số lượng, đơn giá hoặc toàn bộ dự toán được bố trí để mua sắm một loại tài
sản, hàng hóa, dịch vụ trong năm);
- Kết quả thẩm định giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện thẩm định giá tài sản, doanh nghiệp thẩm định giá đối với các loại tài sản,
hàng hóa, dịch vụ phải thẩm định giá theo quy định của Luật Giá;
- Giá thị trường
tại thời điểm mua sắm tham khảo từ thông tin chính thống do các nhà cung cấp
theo quy định của pháp luật Việt Nam công bố được khai thác qua mạng Internet;
- Giá trúng thầu mua
sắm loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ tương tự trong khoảng thời gian sáu (06)
tháng trước đó.
Riêng đối với giá gói
thầu mua sắm trang thiết bị y tế thì căn cứ vào ít nhất một trong các tài liệu
nêu trên hoặc giá trúng thầu trong vòng sáu (06) tháng trước được đăng tải trên
cổng thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch lựa chọn
nhà thầu hoặc cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế hoặc Hệ thống mạng đấu thầu quốc
gia (muasamcong.mpi.gov.vn).
d) Trường hợp không
xác định được giá các loại hóa chất, vật tư, trang thiết bị, phương tiện, dịch
vụ phòng, chống COVID-19 do diễn biến phức tạp của dịch bệnh, các bộ ngành, địa
phương căn cứ giá do doanh nghiệp công bố theo yêu cầu của Bộ Y tế trên cổng
thông tin điện tử của Bộ Y tế và được cập nhật hàng tuần để xác định giá gói thầu.
Trường hợp không có
doanh nghiệp công bố giá, để giảm tải khối lượng công việc cho Bộ Y tế tập
trung phòng, chống dịch, Chính phủ thống nhất giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp
với các Bộ: Y tế, Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Khoa học và Công nghệ, Thông
tin và Truyền thông, Công an, Tư pháp thành lập Tổ công tác thực hiện việc đàm
phán thống nhất về giá với doanh nghiệp để Bộ Y tế công bố trên cổng thông tin
điện tử của Bộ Y tế; trên cơ sở đó các bộ, ngành, địa phương, đơn vị xác định
giá gói thầu.
đ) Trong quá trình xây
dựng giá gói thầu, các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị được lựa chọn một
trong các quy định tại điểm c hoặc quy định tại điểm d khoản này, trình người
có thẩm quyền hoặc người được ủy quyền xem xét, quyết định giá gói thầu theo
quy định.
e) Căn cứ tình hình dịch
bệnh COVID-19 và kịch bản ứng phó, Bộ Y tế kịp thời công bố, cập nhật danh mục
vật tư, trang thiết bị, hóa chất, thuốc thiết yếu phục vụ phòng, chống dịch bệnh
để các địa phương, đơn vị thực hiện mua sắm theo phương châm “4 tại chỗ”.
g) Bộ Y tế khẩn trương
tổ chức mua sắm một số trang thiết bị, vật tư y tế thiết yếu để trang bị cho một
số cơ sở y tế trực thuộc, trung tâm hồi sức tích cực do Bộ Y tế thành lập và dự
phòng để sẵn sàng chi viện, hỗ trợ cho các địa phương trong trường hợp vượt quá
khả năng đáp ứng tại chỗ của địa phương.
h) Bộ Kế hoạch và Đầu
tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn, xử lý kịp thời, hiệu
quả những vướng mắc trong việc thực hiện quy định của pháp luật đấu thầu để mua
sắm phục vụ phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
i) Tài sản phục vụ cho
công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong thời gian có dịch theo Quyết định
công bố dịch của Thủ tướng Chính phủ được áp dụng quy định như sau:
- Không áp dụng
tiêu chuẩn, định mức sử dụng đối với trường hợp nhận viện trợ, tài trợ, hỗ trợ
của tổ chức, cá nhân;
- Có thể mua sắm
tài sản với số lượng cao hơn tiêu chuẩn, định mức nhưng phải bảo đảm phù hợp với
phương án, kịch bản ứng phó dịch bệnh và hạn chế tối đa lãng phí, không để xảy
ra tiêu cực;
- Sau khi công bố
hết dịch thì xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản
công.
5. Việc thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh cho bệnh nhân COVID-19 tại các cơ sở thu dung, điều trị
COVID-19 do ngân sách nhà nước bảo đảm theo chi phí thực tế; chi phí điều trị
các bệnh khác trong quá trình điều trị COVID-19 thực hiện theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh.
6. Về tổ chức, thanh
toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế:
Bộ trưởng Bộ Y tế được
ban hành văn bản hướng dẫn việc tổ chức khám bệnh, chữa bệnh và thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh của
người tham gia bảo hiểm y tế trong điều kiện phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
7. Bộ Y tế ban hành
quy trình, định mức kinh tế-kỹ thuật các loại xét nghiệm COVID-19; trên cơ sở
đó Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đặt hàng, giao nhiệm vụ cho các cơ
quan, tổ chức, đơn vị thực hiện theo đúng quy định.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Ban Chỉ đạo Quốc
gia, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
theo chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm tổ chức triển
khai thực hiện nghiêm, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp quy định tại Nghị quyết
này.
Các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo, đôn đốc việc thực
hiện Nghị quyết này, tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu; bảo đảm phòng
ngừa, ngăn chặn, nghiêm cấm tình trạng tham nhũng, tiêu cực, hạn chế tối đa
lãng phí trong phòng, chống dịch; kịp thời động viên, khen thưởng những người
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, chủ động đổi mới, sáng tạo, linh hoạt
trong thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh đạt hiệu quả cao và các cá
nhân, tập thể có thành tích trong phòng, chống dịch bệnh; tuyên truyền, hướng dẫn,
vận động người dân thực hiện các quy định, xử lý nghiêm các trường hợp không
tuân thủ.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
trong phạm vi quản lý và theo chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức thực hiện
Nghị quyết này tại địa phương; quyết định các biện pháp, giải pháp cấp bách
phòng, chống dịch bệnh phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; trường hợp
cần thiết xin ý kiến cấp ủy, đề xuất Thường trực Hội đồng nhân dân quyết định
các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân và báo cáo Hội đồng nhân dân
tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp phát sinh
vướng mắc hoặc vượt thẩm quyền, các bộ, ngành, địa phương kịp thời báo cáo
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia, các cơ quan có thẩm quyền.
2. Trường hợp cần thiết
phải ban hành các quy định về phòng, chống dịch bệnh khác với quy định của luật
hiện hành và ngoài phạm vi quy định tại mục 3.1, mục 3.2 Nghị
quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp, các
bộ, cơ quan trung ương, các địa phương đề xuất gửi Bộ Y tế để tổng hợp, trình
Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định theo trình tự,
thủ tục rút gọn trước khi thực hiện theo quy định tại điểm 3.3
Nghị quyết số 30/2021/QH15 của Quốc hội.
3. Đối với những vấn đề
thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về bảo đảm an sinh xã
hội, hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động, căn cứ tình hình và yêu cầu
thực tế, các bộ, ngành, địa phương đề xuất gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội để tổng hợp, trình Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết
định trước khi thực hiện theo quy định tại điểm 3.4 Nghị quyết
số 30/2021/QH15 của Quốc hội.
4. Các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn được giao chịu trách nhiệm rà soát, đánh giá việc thực hiện Nghị
quyết này và các quy định có liên quan đến công tác phòng, chống dịch bệnh.
Dịch bệnh COVID-19 diễn
biến nhanh, phức tạp, khó lường, công tác phòng, chống dịch là chưa có tiền lệ.
Trong quá trình thực hiện, các bộ, ngành, địa phương cần bám sát thực tiễn, kịp
thời xử lý vướng mắc phát sinh theo thẩm quyền, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc
ban hành mới các quy định, gửi Bộ Y tế để tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ.
5. Chính phủ trân trọng
đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
xã hội, các đoàn thể, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước tiếp tục chung
tay, góp sức, tích cực phối hợp với các cấp, các ngành, các địa phương nỗ lực
vượt qua khó khăn, thách thức, tập trung thực hiện quyết liệt, hiệu quả các nhiệm
vụ, giải pháp đề ra để sớm kiểm soát tình hình, đẩy lùi dịch bệnh COVID-19, bảo
vệ tính mạng, sức khỏe của Nhân dân, tạo thuận lợi cho phục hồi và phát triển
kinh tế - xã hội.
Điều 4. Điều khoản thi hành
1. Nghị quyết này có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 28 tháng 7 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 12 năm
2022.
2. Việc cho miễn phiếu
kiểm nghiệm (COA) quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết này được áp dụng
từ ngày 01 tháng 02 năm 2021.
3. Việc thanh toán chi
phí khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở thu dung, điều trị COVID-19 quy định tại
khoản 5 Điều 2 Nghị quyết này được áp dụng từ ngày có quyết định thành lập cơ sở
thu dung, điều trị COVID-19.
4.
Quy định tại điểm c khoản 4 Điều 2 Nghị quyết này thay thế khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày
22 tháng 7 năm 2021 của Chính phủ.
Điều 5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này./.
Nơi nhận:
- Bộ Chính trị;
- Ban Bí thư Trung ương
Đảng;
- Thủ tướng Chính phủ,
các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Văn phòng Trung ương
Đảng;
- Ban Tuyên giáo Trung
ương;
- Ban Dân vận Trung
ương;
- Văn phòng Tổng Bí
thư;
- Văn phòng Chủ tịch Nước;
- Văn phòng Quốc hội;
- Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ;
- Tỉnh ủy, Thành ủy,
HĐND, UBND cấp tỉnh;
- Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của
các đoàn thể;
- Thành viên BCĐQG
phòng, chống dịch COVID-19;
- VPCP: BTCN,
các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ cổng TTĐT, các Vụ, Cục: TH, KTTH,
QHQT, NC, QHĐP, TKBT, NN, CN, PL, KSTT;
- Lưu: VT, KGVX (3).
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ
TƯỚNG
Phạm
Minh Chính
|