BỘ Y TẾ
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
162/BC-BYT
|
Hà Nội, ngày 13 tháng 03 năm 2009
|
BÁO CÁO
CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH QUÝ I NĂM 2009
Kính gửi: Bộ Nội vụ
Thực hiện yêu cầu của Bộ Nội vụ tại công văn số
415/BNV-CCHC ngày 20 tháng 02 năm 2009 về việc báo cáo kết quả công tác cải
cách hành chính, Bộ Y tế xin báo cáo tình hình thực hiện cải cách hành chính
Quý I năm 2009 như sau:
I. CÔNG TÁC CẢI CÁCH THỂ CHẾ:
1.
Tình hình thực hiện rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về y tế:
Bộ Y tế
đang tiến hành việc rà soát các văn bản quy phạm pháp luật về y tế được ban
hành trong năm 2008, đến nay đã rà soát được 70 trên tổng số 99 văn bản.
2.
Về xây dựng và hoàn thiện thể chế trong quản lý nhà nước về y tế:
Trong
Quý I năm 2009, để tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về y
tế, Bộ Y tế đã ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật sau:
-
Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BQP-BYT-BTC ngày 12/01/2009 của liên Bộ Quốc
phòng, Bộ Y tế và Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số
135/2007/TTLT-BQP-BYT-BTC của liên Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế và Bộ Tài chính hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 153/2006/NĐ- CP ngày 22/12/2006 của
Chính phủ quy định về khám bệnh, chữa bệnh và tiêu chuẩn vật chất về y tế đối với
người đang làm công tác cơ yếu, thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc đối với thân
nhân người đang làm công tác cơ yếu.
-
Thông tư số 01/2009/TT-BYT ngày 09/3/2009 Bãi bỏ Quyết định số 1536/2004/QĐ-BYT
ngày 29/4/2004của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành bản “Hướng dẫn chẩn đoán,
điều trị sốt Dengue và sốt xuất huyết Dengue”
3.
Về cải cách quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về y tế:
Việc
xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật nói chung và văn bản quy phạm
pháp luật về y tế nói riêng phải tuân thủ Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Để cụ thể hóa các quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
ngày 01/12/2004, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 4278/2004/QĐ - BYT về việc
ban hành Quy chế xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy
phạm pháp luật về y tế. Qua rà soát cho thấy một số quy định trong Quyết định
này đã không còn phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật năm 2008. Hiện Bộ Y tế đang chờ văn bản hướng dẫn thi hành Luật ban hành
văn bản quy phạm pháp luật để cải cách quy trình xây dựng và ban hành văn bản
quy phạm pháp luật về y tế.
4.
Đánh giá việc thực hiện cải cách thể chế hành chính:
a. Ưu
điểm:
- Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật về y tế, về cơ bản, đã bảo đảm được tính thống
nhất pháp lý, tính hoàn chỉnh và đồng bộ theo trình tự hiệu lực pháp lý, trên
cơ sở đạo luật gốc là Hiến pháp để quy định, điều chỉnh các quan hệ xã hội về y
tế.
- Hầu
hết các văn bản quy phạm pháp luật về y tế đều đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp,
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế
trong giai đoạn hiện nay, đảm bảo hiệu lực pháp lý và hiệu lực thực tiễn, trình
tự, thủ tục thẩm quyền ban hành được thực hiện theo đúng quy định của Luật ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật.
- Hệ thống pháp luật về y tế luôn luôn gắn với các chính
sách, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực y tế. Hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật về y tế luôn thể chế hoá các đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng trong từng thời kỳ.
- Các
văn bản quy phạm pháp luật về y tế được ban hành, sửa đổi, bổ sung thường xuyên
và liên tục cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác và đã từng bước
phù hợp với thực tế cuộc sống.
- Xu
hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính phù hợp với cải cách hành chính nhà
nước hiện nay đã được chú trọng, xu hướng quản lý bằng cách “cho phép” đã từng
bước được thay thế bằng cách “quy định các điều kiện cụ thể hành nghề”, sau đó
hậu kiểm.
b. Tồn
tại:
Bên cạnh
các ưu điểm nêu trên, công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật về y tế còn
một số tồn tại sau:
- Cùng
một vấn đề nhưng quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, dẫn đến việc
triển khai gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều khi một vấn đề nhưng phải tra cứu nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau để thực hiện. Ví dụ, lĩnh vực hành nghề y,
dược tư nhân, ngoài Pháp lệnh Hành nghề y, dược tư nhân, người hành nghề còn phải
thực hiện các luật, pháp lệnh khác như Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp... Đây là một
tồn tại khách quan, buộc mọi đối tượng phải tuân thủ.
- Các văn bản quy phạm pháp luật về y tế được ban
hành ngày càng nhiều nhưng hệ thống thông tin trong quản lý chưa được đầu tư
thích đáng, chưa có CD ROM, Website riêng về pháp luật y tế nên dẫn đến các đối
tượng thi hành pháp luật về y tế khó có điều kiện cập nhật và việc thực hiện
trên thực tế kém hiệu quả.
- Việc
đánh giá tác động của văn bản sau khi được ban hành gần như không được thực hiện
(trừ các Luật, Pháp lệnh và một số Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ) do không có kinh phí mà hầu hết dựa vào các phản ảnh của các
đơn vị, địa phương hoặc thu nhận được thông qua công tác thanh tra, kiểm tra,
trừ một số văn bản được xây dựng bằng nguồn kinh phí viện trợ và trước khi xây
dựng đã có kết cấu kinh phí đánh giá tác động của văn bản hoặc việc đánh giá
tác động của văn bản nằm trong khuôn khổ một đề tài nghiên cứu, dẫn đến việc sửa
đổi, bổ sung văn bản đôi lúc còn chậm.
II. CÔNG TÁC CẢI CÁCH TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH:
1. Về tổ chức bộ máy
a.
Về xác định chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị
-
Bộ Y tế đã tổ chức, hướng dẫn các đơn vị thuộc Bộ triển khai các quyết định của
Bộ trưởng Bộ Y tế về quy định chức năng, nhiệm vụ của các Vụ, Cục, Văn phòng Bộ,
Thanh tra Bộ;
- Xây dựng Tờ trình Thủ tướng Chính phủ
và Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục các đơn vị sự
nghiệp trực thuộc Bộ Y tế. Trong đó
có đổi tên và sắp xếp lại một số đơn vị trực thuộc Bộ. Bộ Y tế cũng đã tổ chức
các buổi làm việc của Lãnh đạo Bộ với các đơn vị dự kiến sắp xếp; tổ chức lấy ý
kiến các chuyên gia và Hội đồng Khoa học công nghệ của Bộ về việc sắp xếp các
đơn vị.
b. Về thành lập các tổ chức mới:
- Bộ Y tế đã ban hành các quyết định thành lập 03 Trung tâm
Kiểm nghiệm An toàn Vệ sinh thực phẩm, gồm: Trung tâm Kiểm nghiệm An toàn vệ
sinh thực phẩm Khu vực miền Trung trực thuộc Viện Pasteur Nha Trang; Trung tâm
Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Khu vực Phía Nam trực thuộc Viện Vệ sinh
Y tế công cộng TP. Hồ Chí Minh; Trung tâm An toàn vệ sinh thực phẩm Khu vực Tây
Nguyên trực thuộc Viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên;
- Đã hoàn thiện Đề án và Tờ trình Thủ tướng Chính phủ thành
lập Viện Kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Quốc gia;
- Xây
dựng và hoàn thiện Đề án thành lập Trung tâm Thông tin thuốc và theo dõi phản ứng
có hại của thuốc Quốc gia trực thuộc Trường đại học Dược Hà Nội.
- Tổ
chức thẩm định các đề án xếp hạng các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ.
c. Về
đổi mới và phát triển các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Y tế
- Đã
ban hành Quyết định kiện toàn Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Bộ Y tế;
- Đã
ban hành Quyết định thành lập Ban Chỉ đạo Cổ phần hoá Công ty Dược Trung ương
III – Tổng công ty Dược Việt Nam;
d. Đổi
mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp y tế
- Tổ
chức thẩm định và hướng dẫn các đơn vị xây dựng đề án kiện toàn để thực hiện
theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và Phương án tự chủ tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của các
đơn vị trực thuộc Bộ;
- Xây
dựng Đề án đổi mới cơ chế hoạt động, tài chính và chính sách tiền lương đối với
các đơn vị sự nghiệp y tế công.
2. Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức
a. Về
công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức:
- Đã tổ
chức hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra các đơn vị sự nghiệp trong việc thực hiện
các văn bản hướng dẫn của Bộ Y tế về công tác tuyển dụng, sử dụng cán bộ công
chức như; quy chế thi nâng ngạch, quy chế xét tuyển viên chức, nội dung thi tuyển,
quy chế đánh giá viên chức.
- Đã
triển khai việc chấm thi nâng ngạch lên ngạch bác sĩ chính, dược sĩ chính cho
cán bộ viên chức ngành y tế năm 2008.
- Bộ Y
tế đã ra quyết định tuyển dụng 151 sinh viên trúng tuyển nội trú năm 2009 về
làm việc tại các Bệnh viện trực thuộc Bộ.
b. Về chế độ chính sách đối với cán bộ
- Hướng
dẫn và tổ chức thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với các cán bộ, công chức,
viên chức trong các đơn vị sự nghiệp y tế như: nâng lương thường xuyên, nâng
lương sớm, phụ cấp ưu đãi nghề và các chế độ, chính sáchđối với các cán bộ,
công chức, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp y tế.
- Đang
xây dựng dự thảo về chế độ phụ cấp cho nhân viên y tế thôn bản và chế độ thu
hút cán bộ, viên chức y tế về công tác tại vùng khó khăn, chế độ phụ cấp thường
trực, phụ cấp phẫu thuật và phụ cấp thường trực chống dịch.
- Tổ
chức triển khai Quyết định số 29/2008/QĐ-BYT về ban hành Quy tắc ứng xử của cán
bộ y tế và cuộc vận động học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Xây
dựng Phương án giải quyết chế độ nghỉ hưu và kéo dài thời gian công tác đối với
công chức, viên chức năm 2009.
- Ban
hành Quyết định thành lập Ban soạn thảo xây dựng Đề án trách nhiệm và nghĩa vụ
xã hội của cán bộ y tế.
3. Một số nhận xét về thực hiện cải cách hành chính Quý
I/2009
- Việc
triển khai thực hiện Nghị định số 188/2007/NĐ-CP còn chậm.
- Một
số đơn vị trực thuộc Bộ còn chậm trong việc xây dựng Đề án/Phương án để thực hiện
tự chủ tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 115 và Nghị định số 43 của Chính
phủ.
IV. CÔNG TÁC CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
1. Tình hình thực hiện cơ chế công khai tài chính
Hàng
năm, Bộ Y tế đã thực hiện công khai tài chính theo đúng nội dung, hình thức và
biểu mẫu quy định tại Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16/11/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế công khai tài chính và Thông tư số
21/2005/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quy chế công khai tài chính
đối với các đơn vị dự toán ngân sách và các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ
trợ. Trong Quý I/2009, Bộ Y tế tiến hành:
-
Công khai dự toán ngân sách năm 2009 được Chính phủ và Bộ Tài chính giao; công
khai phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước và giao cho các đơn vị sử dụng ngân
sách chi tiết theo loại, khoản (giao tự chủ, chưa giao tự chủ); công khai số
thu phí, lệ phí, thu khác giao cho các đơn vị dự toán thực hiện.
-
Về công khai quyết toán, năm 2008, Kiểm toán Nhà nước đã tiến hành kiểm toán
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước năm 2007 của Bộ Y tế; Bộ Tài chính cũng đã
tiến hành thẩm định quyết toán năm 2007 của Bộ Y tế. Hiện nay, Bộ Y tế đang chờ
thông báo quyết toán của Bộ Tài chính (khớp giữa số liệu của Kiểm toán Nhà nước
và Bộ Tài chính) để công khai tổng quyết toán năm 2007 và công khai quyết toán
của từng đơn vị dự toán.
Dự
kiến sẽ hoàn thành trong cuối quý I hoặc đầu quý II năm 2009.
2. Tình hình thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP
ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử
dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà
nước
Trong
Quý I năm 2009, 05 cơ quan hành chính nhà nước trực thuộc Bộ (Văn phòng Bộ Y tế,
Cục quản lý Dược, Cục An toàn vệ sinh thực phẩm, Cục Y tế dự phòng và Môi trường,
Cục HIV/AIDS) vẫn tiếp tục thực hiện Quyết định giao thực hiện chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính (giai đoạn
3 năm 2007-2009).
Cuối
năm 2008, Chính phủ có Quyết định thành lập Cục quản lý khám chữa bệnh trực thuộc
Bộ Y tế; nhưng bắt đầu từ năm 2009 Bộ mới giao dự toán riêng đối với Cục. Hiện
nay, Bộ đang xây dựng phương án thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính để thẩm định và xin ý kiến thống
nhất của Bộ Tài chính để giao cho đơn vị thực hiện (dự kiến xong trong Quý II
năm 2009).
Đánh
giá tóm tắt về kết quả thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP đối với các đơn vị
hành chính trực thuộc Bộ cho thấy các đơn vị đã phát huy quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao và tăng thêm thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, do định
mức ngân sách được cấp còn thấp và đặc thù công việc phải đi công tác nhiều (kiểm
tra phòng chống dịch bệnh, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, quản lý giá thuốc,...)
nên rất khó khăn trong việc bảo đảm đủ kinh phí được giao để chi cho các hoạt động
của đơn vị và chi tiền lương tăng thêm cho người lao động. Đặc biệt, Văn phòng
Bộ Y tế năm 2008 thiếu kinh phí hoạt động và phải xin ứng trước kinh phí của
năm 2009 để chi tiêu hoạt động hành chính.
3. Tình hình thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày
25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
(nêu rõ đơn vị thực hiện/tổng số đơn vị):
a.
Trong Quý I năm 2009, 76 đơn vị sự nghiệp y tế trực thuộc Bộ Y tế vẫn tiếp tục
thực hiện Quyết định giao thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính
theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP , trong đó có 05 đơn vị được giao thuộc loại
hình tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, 62 đơn vị được giao thuộc
loại hình tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên, và 09 đơn vị được
giao thuộc loại hình ngân sách nhà nước đảm bảo toàn bộ (Có phụ lục danh sách
các đơn vị kèm theo).
Riêng
về Quyết định giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế theo Thông tư liên tịch số 02/TTLT-BYT-BNV ngày
23/01/2008 của liên Bộ Y tế – Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện Nghị định số
43/2006/NĐ-CP , trong năm 2008, Bộ Y tế đã thẩm định và đã có Quyết định giao
cho 36 đơn vị thực hiện; các đơn vị còn lại sẽ tiếp tục thẩm định và giao nốt
trong Quý I và II năm 2009.
Ngoài
ra, tháng 4 năm 2008 Bộ Y tế mới tiếp nhận Bệnh viện đa khoa huyện Núi Thành -
Quảng Nam vào Bệnh viện đa khoa trung ương Quảng Nam, nên hiện nay Bộ Y tế đang
đôn đốc đơn vị lập phương án, gửi về Bộ Y tế thẩm định và xin ý kiến thống nhất
của Bộ Tài chính để ra Quyết định giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính cho Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam, thời gian thực hiện từ năm
2009 (dự kiến xong trong cuối Quý I hoặc đầu Quý II năm 2009).
Thực
hiện kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước, Bộ Y tế đang rà soát một số đơn vị có
nguồn thu tăng lên nhiều để chuyển sang giao thuộc loại hình tự đảm bảo toàn bộ
chi phí hoạt động thường xuyên; và một số Viện có chức năng nghiên cứu khoa học
là chủ yếu để chuyển sang giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định
115/2005/NĐ-CP .
b.
Đánh giá tóm tắt về kết quả thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP cho thấy các
đơn vị đã phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính để phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động,
cụ thể trên một số nội dung chính như sau:
- Về tự
chủ huy động nguồn vốn phát triển hoạt động sự nghiệp: Nhiều đơn vị đã chủ động
trong việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách như: vay tín dụng ưu đãi, quỹ
kích cầu, huy động đóng góp của cán bộ công nhân viên, liên doanh, liên kết với
các tổ chức, doanh nghiệp, tích luỹ để đầu tư thông qua việc sử dụng quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp để đầu tư nâng cấp nhà cửa, tăng buồng bệnh, lắp đặt
máy móc thiết bị tạo điều kiện mở rộng cơ sở và phát triển các hoạt động dịch vụ,
phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao.
- Về mở
rộng hoạt động và khai thác các nguồn thu sự nghiệp: Nhiều đơn vị đã mở rộng và
đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ, thu hút tăng số người tham gia vào các hoạt
động dịch vụ khám chữa bệnh, đào tạo... . Đồng thời với việc khai thác nguồn
thu, nhiều đơn vị đã xây dựng các giải pháp tích cực để tiết kiệm chi phí, như:
xây dựng các tiêu chuẩn, định mức chi phí, định mức tiêu hao nguyên nhiên vật
liệu để thực hiện trong nội bộ đơn vị, xây dựng các quy trình cung cấp dịch vụ
hợp lý khoa học hơn (quy trình khám chữa bệnh...).
- Về
điều hành hoạt động và thực hiện dự toán kinh phí được giao: Cơ chế giao quyền
tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp có tác động lớn đến việc phát huy tính sáng tạo
và chủ động của các đơn vị, Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động sắp xếp, bố
trí lao động một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả và chất lượng công việc, hạn chế
các hiện tượng tiêu cực. Bước đầu tạo sự cạnh tranh giữa các cơ sở y tế trong
việc cung cấp dịch vụ công. Do được giao quyền tự chủ trong sử dụng ngân sách
nhà nước và các nguồn thu nên các đơn vị đã chủ động sử dụng các nguồn tài
chính có hiệu quả hơn cho các hoạt động chuyên môn của đơn vị..
- Về
tình hình triển khai xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ: Do được ban
hành quy chế chi tiêu nội bộ nên nhiều đơn vị đã ban hành được một số chế độ
chi tiêu nội bộ, khắc phục các bất hợp lý, phù hợp với khả năng ngân sách và
tình hình thực tế của đơn vị như chế độ công tác phí, chế độ thanh toán cước
phí điện thoại, chế độ chi hội nghị, tập huấn, chế độ cử cán bộ đi học... do đó
đã khuyến khích cán bộ đi tăng cường cơ sở, đi học tập nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng các dịch vụ...
- Về
ban hành các tiêu chí cơ bản để làm căn cứ đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ
được giao: Các đơn vị đã từng bước xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành
nhiêm vụ của các khoa phòng làm cơ sở để tính toán và phân chia thu nhập một
cách hợp lý hơn nhằm khuyến khích người lao động cống hiến cho sự phát triển của
đơn vị .
- Về
thu nhập tăng thêm của cán bộ, viên chức trong các đơn vị: Từ kết quả hoạt động
sự nghiệp, đổi mới phương thức hoạt động, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí,
các đơn vị đã tạo ra được nguồn kinh phí để tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức
của đơn vị. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các đơn vị trực thuộc Bộ cho thấy: có
khoảng 30% các đơn vị có mức thu nhập tăng thêm dưới 1 lần tiền lương cấp bậc,
chức vụ; khoảng 60% các đơn vị có mức thu nhập tăng thêm từ 1 đến 2 lần tiền
lương cấp bậc, chức vụ và khoảng 10% các đơn vị có mức thu nhập tăng thêm từ 2
đến 3 lần tiền lương cấp bậc, chức vụ.
4. Tình hình thực hiện Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày
05/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức
khoa học và công nghệ công lập
Trong
năm 2008, Bộ Y tế đã thông kê, rà soát chức năng, nhiệm vụ của 14 Viện phòng bệnh
(đã giao thực hiện Nghị định 43 như đã nêu ở mục 3) và một số đơn vị có chức
năng nghiên cứu khoa học là chủ yếu để chuyển sang thực hiện theo mô hình giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP .
Kết quả
đã thẩm định và phê duyệt phương án giao thực hiện Nghị định 115/2005/NĐ-CP đối
với 03 đơn vị (Viện Chiến lược và chính sách Y tế, Trung tâm nghiên cứu sản xuất
vắc-xin sinh phẩm y tế và Viện Trang thiết vị và Công trình Y tế). Các đơn vị
còn lại sẽ tiếp tục rà soát để xem xét và quyết định trong Quý II năm 2009.
5. Nhận xét, đánh giá chung về thực hiện cải cách tài chính
công Quý I/2009, nêu rõ ưu điểm, tồn tại
- Tiếp
tục triển khai thực hiện các nhiệm vụ của công tác cải cách tài chính công theo
các quy định của Chính phủ và hướng dẫn của liên Bộ.
- Ưu
điểm: Nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ Y tế; sự
tích cực triển khai thực hiện của các Vụ, Cục chức năng và các đơn vị trực thuộc
Bộ.
- Tồn
tại: Một số bước triển khai còn chậm, đặc biệt là tại một số đơn vị: Lãnh đạo
và cán bộ viên chức nhận thức còn chưa đầy đủ về nội dung, mục đích và yêu cầu
của công tác cải cách tài chính công, vẫn còn mang nặng tâm lý ỷ lại, trông chờ
vào sự bao cấp của nhà nước, e ngại khi thay đổi cơ chế quản lý... nên chưa
tích cực triển khai thực hiện.
6. Kiến nghị, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Nội vụ về công tác cải cách hành chính.
- Tăng
cường công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức hơn nữa về công tác cải cách
hành chính.
- Tăng
cường công tác chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện.
-Ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc cải cách tài chính công một cách đồng
bộ, đầy đủ và kịp thời để thuận lợi cho việc triển khai thực hiện.
- Xử
lý và tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực
hiện.
Trên
đây là báo cáo Quý I năm 2009 về công tác cải cách hành chính ở Bộ Y tế tính đến
ngày 15/3/2009, Bộ Y tế xin gửi Bộ Nội vụ để tổng hợp và báo cáo Thủ tướng
Chính phủ./.
|
BỘ TRƯỞNG
Nguyễn Quốc Triệu
|