ỦY BAN NHÂN
DÂN
TỈNH QUẢNG NINH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
204/KH-UBND
|
Quảng Ninh, ngày 18 tháng 11 năm 2020
|
KẾ
HOẠCH
PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
Căn cứ Chỉ thị số 15-CT/TU ngày
17/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh về đẩy mạnh thực hiện Kết luận
số 56-KL/TW ngày 21/3/2013 của bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Văn
bản số 4476/BKHĐT-HTX ngày 14/7/2020 về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế tập thể năm 2021. Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Ninh xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn
2021-2025 với các nội dung cụ thể sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH
GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
I. THỰC TRẠNG PHÁT
TRIỂN KTTT, HTX GIAI ĐOẠN 2016-2020
1. Tình hình chung
Từ năm 2016 đến nay, khu vực kinh tế
tập thể, hợp tác xã tỉnh Quảng Ninh có bước phát triển cả về số lượng và chất
lượng, cơ bản khắc phục được tình trạng yếu kém kéo dài; đã xuất hiện thêm nhiều
loại hình, mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã hoạt động hiệu quả, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói, giảm nghèo
cho các thành viên, góp phần xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an sinh, an ninh,
trật tự, an toàn xã hội, từng bước khẳng định vị trí, vai trò nền tảng của khu
vực kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế của tỉnh. Nhận thức trong hệ
thống chính trị, các tầng lớp nhân dân về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác
xã được nâng lên. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách được quan tâm xây dựng, hoàn thiện.
Tổ chức bộ máy và công tác quản lý nhà nước từng bước được củng cố.
Bên cạnh các kết quả đạt được, khu vực
kinh tế tập thể, hợp tác xã vẫn còn hạn chế: Tốc độ tăng trưởng còn thấp so với
các khu vực kinh tế khác, tỷ lệ đóng góp vào GRDP chưa đáp ứng yêu cầu; phần
lớn tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã có quy mô nhỏ, phát triển không đồng đều
giữa các địa phương, giữa khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, số lượng hợp
tác xã tuy tăng, nhưng số lượng thành viên có xu hướng giảm; việc thực hiện
chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã năm 2012 còn nhiều vướng mắc; sự
liên kết, hợp tác giữa các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã với nhau và với
các loại hình kinh tế khác còn yếu.
1.1. Tổ hợp tác (THT)
Ước đến 31/12/2020, toàn tỉnh có 200
THT, tăng 4,9% so với năm 2016[1]
trong đó có 190
THT có chứng thực, trong đó có 110 THT hoạt động trong lĩnh vực nông -
lâm - ngư nghiệp, 04 THT hoạt động dịch vụ tổng hợp, 43 THT hoạt động trong
lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và lĩnh vực khác.
Bình quân 1 THT có 3 thành viên, ước
đến 31/12/2020 có 580 thành viên tham gia, tăng 47,5% so với năm 2016[2].
Về doanh thu và thu nhập: Đối với THT, doanh
thu bình quân 1 THT ước đạt 270 triệu đồng/năm, tăng 39,5% so với năm 2016, thu
nhập trung bình của 1 lao động THT đạt 3,3 triệu đồng/người/tháng.
Các THT có quy mô nhỏ, công tác tổ
chức quản lý và điều hành còn giản đơn, bó hẹp trong phạm vi nhất định, trình
độ cán bộ quản lý chưa cao, chủ yếu quản lý điều hành bằng kinh
nghiệm nhưng hợp tác trong các thành viên linh hoạt, gọn nhẹ. Hoạt động của các
THT đã có nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và đời sống, giúp
các hộ thành viên một phần về nhu cầu vốn và kỹ thuật. Tuy nhiên, còn một số
THT không có thỏa thuận hợp tác, không có chứng thực của chính quyền địa
phương, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ quản lý THT còn hạn chế.
Nhìn chung, THT hoạt động trên nhiều lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh nhưng do số lượng thành viên ít (bình quân 03
người/THT), thường tập trung thành viên trong hộ (hoặc nhóm hộ) nên việc giải
quyết các vấn đề nảy sinh
trong quá trình sản xuất, kinh doanh
cũng như việc phân chia lợi nhuận, kết quả sản xuất diễn ra chủ động
và thuận lợi hơn so với HTX.
1.2. Hợp tác xã
Ước đến 31/12/2020, toàn tỉnh có 594
HTX, tăng 51,5% so với năm 2016([3])
trong đó số HTX hoạt động lĩnh vực nông nghiệp là 381 HTX, chiếm 64,1%; công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 34 HTX, chiếm 5,7%; Xây dựng 13 HTX chiếm 2,1%;
Giao thông vận tải 44 HTX, chiếm 7,4%; Vệ sinh môi trường 08 HTX, chiếm 1,3%;
Thương mại, dịch vụ 90 HTX, chiếm 15,1%; lĩnh vực khác 24 HTX, chiếm 4%.
- Về chuyển đổi và đăng ký hoạt động HTX: Thực
hiện theo Nghị định số 16/NĐ-CP ngày 21/2/1997 về chuyển đổi và đăng ký hoạt
động kinh doanh HTX theo Luật HTX năm 2003, đến năm 2008, toàn tỉnh đã chuyển
đổi được 124/144 HTX DVNN theo Luật; Đến thời điểm Luật Hợp tác xã 2012 có hiệu
lực, toàn tỉnh có 162 HTX thành lập trước 01/7/2013 cần thực hiện chuyển đổi,
đăng ký lại (82 HTX có kế hoạch chuyển đổi, đăng ký lại theo Luật; 80 HTX hoạt
động yếu kém và ngừng hoạt động cần giải
thể). Năm 2017 tỉnh đã thực hiện chuyển đổi các HTX hoạt động theo Luật HTX
2012 là 79/80 HTX đạt 98,8% kế hoạch.
Giai đoạn 2016-2020 có 252 HTX thành
lập mới, 125 HTX giải thể. Tỉnh Quảng Ninh luôn duy trì trong nhóm các tỉnh có
số HTX thành lập mới cao nhất toàn quốc.
Số thành viên của HTX ước đến
31/12/2020 là 55.000 người, giảm 12,8% so với năm 2016.
Đóng góp của khu vực KTTT, HTX vào
GRDP ước tại thời điểm 31/12/2020 là 1,2% giảm 0,14% so với thời điểm
31/12/2016.
Tổng số vốn hoạt động là 918.000 triệu
đồng, giá trị tài sản của HTX là 1.500 tỷ đồng, tăng 45% so với năm 2016; doanh
thu bình quân một HTX là 600 triệu đồng; tăng 19,7% so với năm 2016, lãi bình
quân một HTX là 290 triệu đồng, giảm 3,3% so với năm 2016; thu nhập bình quân
lao động thường xuyên của HTX là 69 triệu đồng, tăng 149,2 % so với năm 2016.
Số lượng cán bộ quản lý HTX ước đến
31/12/2020 là 5.270 người, trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ sơ,
trung cấp là 3.980 người; số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đại
học trở lên là 1.290 người; số cán bộ có trình độ sau đại học là 0; số cán bộ
HTX được hỗ trợ bảo hiểm xã hội là 300; tỷ lệ cán bộ đã qua đào tạo nghề chiếm 1/4
so với tổng số lao động.
Trong bối cảnh kinh tế tập thể vẫn
phát triển với quy mô nhỏ, đa phần sản xuất theo kiểu truyền thống thì sự liên
kết lại càng cần thiết, nhất là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với
xây dựng thương hiệu hàng hóa. Quảng Ninh đã có một số HTX kiểu mới gắn với
chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa[4].
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế đối
với HTX hiện nay, cụ thể: Nhiều HTX vẫn ở trong tình trạng khó khăn, yếu kém
kéo dài, năng lực nội tại của các HTX còn yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, trình
độ công nghệ lạc hậu; năng lực, trình độ cán bộ quản lý trong khu vực HTX còn
hạn chế, không đáp ứng được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong điều kiện kinh
tế thị trường hiện nay; Một số HTX thực hiện đăng ký lại còn hình thức, phương
thức hoạt động không thay đổi, chưa đáp ứng được các quy định của Luật HTX năm
2012; Sự liên kết, hợp tác giữa các HTX chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp, vai trò
của liên hiệp hợp tác xã chưa được phát huy; Công tác kế toán, tài chính của
HTX chưa được thực hiện nghiêm túc, bài bản, do đó chế độ báo cáo của HTX chưa
thường xuyên, việc xây dựng báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh
còn hạn chế.
1.3. Liên hiệp HTX
Toàn tỉnh hiện có 03 Liên hiệp HTX (02
Liên hiệp thành lập năm 2019, 01 Liên hiệp HTX thành lập tháng 1/2020). Trong
đó có 02 LHHTX nông nghiệp, tổng hợp và 01 LHHTX phi nông nghiệp, tổng vốn đăng
ký là 66,1 tỷ đồng. Năm 2016, toàn tỉnh chưa có Liên hiệp HTX
nào. Dù mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng LHHTX đã chứng minh tính
hiệu quả, vai trò dẫn dắt KTTT, HTX phát triển theo hướng liên kết bền vững.
Mỗi Liên hiệp Hợp tác xã thu hút hàng chục lao động làm việc thường xuyên.
2. Thực trạng phát
triển KTTT theo ngành, lĩnh vực
Ước đến 31/12/2020, trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh có 594 HTX, trong đó Hợp tác xã nông - lâm - ngư - diêm nghiệp là 381 HTX,
tăng 156 HTX so với năm 2016; Hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp là
34 HTX, tăng 4 HTX; Hợp tác xã thương mại 90, tăng 58 HTX; Hợp tác xã vận tải
44 HTX, tăng 24 HTX; Hợp tác xã xây dựng là 51 HTX, tăng 20 HTX so với năm
2016.
Có thể thấy cơ cấu trong khu vực HTX
đã có chuyển dịch dần từ nông ngư nghiệp sang dịch vụ thương mại, cụ thể: số
HTX thương mại tăng từ 52 HTX vào năm 2016 (chiếm 13,6%) lên 90 HTX vào năm
2020 (chiếm 15,1%), HTX xây dựng tăng từ 10 HTX lên 13 HTX, HTX công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp tăng từ 30 HTX lên 34 HTX. Các HTX hoạt động trong các
lĩnh vực cụ thể như sau:
(1) Lĩnh vực nông, lâm nghiệp, ngư,
diêm nghiệp
Có 381 HTX, 110 THT, 02 Liên hiệp HTX, tăng 156
về số HTX, giảm 10 THT và tăng 02 liên hiệp HTX so với thời điểm 31/12/2016.
Trong đó:
- Tổ hợp tác: có 110 tổ hợp tác có
đăng ký chứng thực với khoảng 740 thành viên tham gia, bình quân một tổ hợp tác
có gần 7 thành viên. Trong tổng số tổ hợp tác, có 27 THT hoạt động dịch vụ nông
nghiệp, 02 tổ hợp tác hoạt động dịch vụ lâm nghiệp, 26 THT hoạt động dịch vụ
chăn nuôi, 11 THT hoạt động dịch vụ nuôi trồng thủy sản, 20 THT hoạt động dịch
vụ khai thác và chế biến thủy sản, 14 THT hoạt động dịch vụ chế biến và tiêu
thụ nông sản, 10 THT hoạt động dịch vụ tổng hợp. So với thời điểm 31/12/2016
tăng 57 THT và 420 thành viên.
- Hợp tác xã: Có 381 HTX, với tổng số
thành viên tham gia các HTX năm 2020 là 26.576 người, so với năm 2016 (105.520
thành viên) giảm 78.944 thành viên. Tổng số cán bộ quản lý HTX là 1.470 người.
Các HTX đều có Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát. Trong ban quản
lý, cán bộ có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học là 186 người, chiếm 12,6%;
trung cấp là 235 người, chiếm 16,3%; sơ cấp là 527 người, chiếm 35,8%.
+ Về lao động trong các HTX nông nghiệp về cơ
bản là các thành viên tham gia liên kết hoặc các thành viên HĐQT HTX nên số
lượng không lớn so với tổng số thành viên. Năm 2020 số lao động thường xuyên trong
các HTX nông nghiệp là 21.320 lao động.
+ Về số vốn hoạt động của các HTX nông nghiệp
năm 2020, bình quân vốn hoạt động của 1 HTX đạt 1.271,18 triệu đồng. So với năm
2016 (bình quân đạt 1.253,06 triệu đồng/HTX) thì tổng số vốn các HTX nông
nghiệp trên địa bàn tăng thêm 18,11 triệu đồng. Nhóm HTX có vốn điều lệ cao chủ
yếu là những HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp và một số chăn nuôi, thủy sản.
+ Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung của các HTX nông nghiệp so với các loại hình kinh tế khác vẫn ở mức thấp.
Doanh thu bình quân của HTX nông nghiệp trong năm 2020 ước đạt 850 triệu đồng/HTX/năm.
So với năm 2016 (đạt 653 triệu đồng/HTX/năm) thì doanh thu bình quân các HTX
tăng 197 triệu đồng/HTX/năm (tăng hơn 1,3 lần).
Nhìn chung hiệu quả hoạt động của các
HTX, THT dịch vụ nông nghiệp chưa thực sự hiệu quả, các HTX thành lập mới có
tính chất hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực. Các HTX tập trung vào hoạt động
dịch vụ thủy nông, cung ứng giống cây trồng, vật nuôi, thuốc BVTV phòng trừ sâu
bệnh, chuyển giao KHKT, hoạt động chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy
sản,... Một số HTX nông nghiệp phát triển theo hướng kinh doanh đa ngành đa
lĩnh vực, vừa làm dịch vụ phục vụ hoạt động kinh tế thành viên, vừa phát triển
các dịch vụ tín dụng, thương mại và dịch vụ đời sống. HTX làm ăn có lãi chủ yếu
tập trung vào các HTX nuôi trồng thủy sản và số ít các HTX làm dịch vụ nông
nghiệp. Còn lại các HTX dịch vụ nông nghiệp hầu như không có, nhiều nơi doanh
thu của HTX không đảm bảo được thu nhập cho cán bộ làm công tác quản lý dẫn đến
tình trạng hoạt động của HTX bị xem nhẹ, cán bộ làm kiêm nhiệm và có xu hướng
chuyển sang hoạt động lĩnh vực khác.
(2) Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp
Có 34 HTX, 55 THT, tăng 4 HTX và tăng
25 THT so với thời điểm năm 31/12/2016. Đa số các HTX công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp được thành lập từ trước khi có Luật HTX. Các HTX, THT hoạt động khá
đa dạng về ngành
nghề, tuy nhiên đa số hoạt động với quy mô nhỏ, thành viên ít, góp vốn không
đầy đủ, sản phẩm sản xuất ra chưa tiếp cận được với các đơn hàng lớn.
(3) Lĩnh vực giao thông vận tải
Có 44 HTX tăng 15 HTX so với thời điểm
31/12/2016, Nguồn vốn của HTX được hình thành từ tài sản của các cá nhân hợp
tác với nhau tạo thành thế mạnh để hoạt động nhưng thực chất tài sản là thuộc
sở hữu của cá nhân. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, Chủ nhiệm HTX chủ động giải quyết,
xử lý thông tin trong quá trình sản xuất kinh doanh, các chủ phương tiện phải
trích một số % theo doanh thu nộp vào HTX để chi phí, nộp thuế và chi các khoản
giao dịch khác. Về phân
phối, khi các chủ phương tiện trích tỷ lệ % theo doanh thu vào quỹ HTX, HTX sau
khi trừ các chi phí và trích lập các quỹ theo điều lệ HTX quy định, số còn lại
phân phối tiếp và tái đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Lương và các khoản chi
phí khác do chủ phương tiện tự chi trả theo hình thức khoán cho các thành viên
tham gia lao động. 10 HTX vận tải trước đây hiện đã giải thể hoặc đã chuyển đổi
từ hình thức sở hữu HTX sang công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Các HTX vận tải đã chuyển đổi và các HTX thành lập mới theo Luật HTX hoạt động
năng động và có hiệu quả, vay vốn phát triển sản xuất thuận lợi vì sau khi
thành lập và chuyển đổi không phải giải quyết các vấn đề còn tồn tại, bộ máy
hoạt động gọn nhẹ, nhanh nhạy hơn trong cơ chế thị trường, thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ với nhà nước, là chỗ dựa đáng tin cậy của các chủ hàng.
(4) Lĩnh vực xây dựng
Có 51 HTX, 3 THT, tăng 20 HTX và giảm
5 THT so với thời điểm 31/12/2016 đang hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với
quy mô nhỏ, tập trung chủ yếu là vùng nông thôn, ven đô thị, cung ứng nguyên
liệu cho lĩnh vực xây dựng, phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng. Các HTX thành
lập theo hướng tự phát, tỷ lệ cán bộ qua đào tạo so với xã viên rất thấp.
(5) Lĩnh vực tín dụng
Có 2 HTX, Bộ máy của HTX chủ yếu là tập hợp
các cán bộ tín dụng của ngành ngân hàng, được đào tạo cơ bản, đã nghỉ
hưu nhưng vẫn còn sức khỏe tham gia lãnh đạo, quản lý, điều hành. Kết quả
hoạt động của HTX được đánh giá là tốt, doanh số và lợi nhuận năm sau cao hơn
năm trước.
(6) Lĩnh vực thương mại, chợ và các
dịch vụ khác
Có 104 HTX, hầu hết các HTX thương mại
đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn các HTX trong các lĩnh vực khác. Phần lớn các
HTX vẫn có quy mô nhỏ, chất lượng hàng hóa dịch vụ chưa cao, vốn sản xuất kinh
doanh ít, nộp ngân sách còn thấp. Số HTX hoạt động hiệu quả tập trung chủ yếu
tại một số địa phương Như Hạ Long, Đông Triều, Cẩm Phả, Uông Bí tại
đây đã có nhưng HTX lớn
khẳng định được vị trí của mình tại thị trường trong nước[5]. Các địa phương
khác mặc dù có số HTX lớn nhưng đa phần hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
(trên 70%) với hoạt động là dịch vụ thủy nông, cung ứng giống cây trồng, vật
nuôi, thuốc BVTV phòng trừ sâu bệnh, chuyển giao KHKT,..hiệu quả kinh doanh thấp
hầu như không có lãi, thậm chí doanh thu của HTX không đảm bảo được thu nhập
cho cán bộ làm công tác quản lý.
II. CÁC CĂN CỨ PHÁP
LÝ VÀ CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI, HỖ TRỢ CỦA NHÀ NƯỚC VỚI KHU VỰC KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP
TÁC XÃ
1. Các căn cứ
pháp lý
Xác định vai trò và tầm quan trọng của
KTTT, HTX, trên cơ sở các quy định của Trung ương, nhất là từ khi Luật HTX năm
2012 được ban hành với 06 chính sách hỗ trợ: đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mới; tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX; tạo điều kiện tham gia các
chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội; chính sách hỗ
trợ thành lập mới;... Các chính sách này cụ thể hóa trong Chương trình hỗ trợ
phát triển HTX giai
đoạn 2015-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 2261/QĐ-TTg
ngày 15/12/2014.
Trên cơ sở Luật HTX năm 2003, Luật HTX
năm 2012 và các văn bản hướng dẫn của Trung ương về phát triển kinh tế tập thể,
Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết, Chỉ thị và văn bản, thông báo kết luận để chỉ
đạo thực hiện, Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành các Nghị quyết, văn bản liên
quan đến quy hoạch, cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn, kinh tế tập thể. Ban Cán sự Đảng Ủy ban nhân
dân tỉnh, Ủy ban nhân
dân tỉnh đã ban hành các quyết định, văn bản cụ thể hóa, triển khai thực hiện
các Nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh. Các chính sách hỗ trợ đã tạo
động lực thúc đẩy KTTT, HTX phát triển và bước đầu đã mang lại kết quả tích cực
đối với phát triển kinh tế - xã hội nhất là Chương trình xây dựng Nông thôn
mới, Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) trên địa bàn toàn tỉnh.
Các văn bản của tỉnh đã ban hành gồm: Ban Thường vụ Tỉnh ủy bàn hành 1 chỉ thị
về tiếp tục đổi mới, kinh tế tập thể[6];
06 Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh[7];
16 Quyết định, Kế hoạch của Ủy ban nhân dân tỉnh để chỉ đạo, triển khai thực hiện về
phát triển kinh tế tập thể[8].
Ngoài ra, từ năm 2006 đến nay, hàng năm tỉnh đều ban hành kế hoạch về
phát triển kinh tế tập thể, hợp
tác xã và có quyết định
phê duyệt kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX trên địa bàn tỉnh.
2. Tình hình
triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX
Giai đoạn 2016 - 2020 các chính sách
như tài chính, tín dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quản lý,... được
Liên minh HTX tỉnh phối hợp triển khai thực hiện. Nhiều vấn đề vướng mắc, tồn
tại được xem xét giải quyết, tạo được lòng tin của cán bộ thành viên và người
lao động trong HTX đối với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và của
tỉnh, cụ thể:
2.1 Chính sách hỗ trợ
chung đối với các HTX
(1) Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân
lực
UBND tỉnh giao Liên minh HTX, Chi cục
phát triển nông thôn thuộc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mở các lớp
bồi dưỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho khoảng 600 cán bộ quản lý HTX
trên địa bàn tỉnh một năm.
* Từ năm 2016 đến năm 2020, Liên minh
HTX tỉnh đã phối hợp với các cơ quan liên quan và các địa phương tổ chức được
116 lớp với sự tham gia của gần 6.000 lượt học viên. Và Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn phối hợp với Trường Đại học Ngoại thương, Bộ Nông nghiệp &
PTNT tổ chức được 25 lớp với gần 810 học viên tham gia. Nội dung các lớp bồi
dưỡng, tập huấn tập trung vào quản trị HTX, xúc tiến thương mại, quảng bá sản
phẩm, thực hiện ứng dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ chế biến, bảo quản nông
sản trong sản xuất nông nghiệp, thực hiện đăng ký lôgô, nhãn mác, tạo lập
thương hiệu cho sản phẩm... Đối tượng tham gia bồi dưỡng, tập huấn là cán bộ
lãnh đạo quản lý, kế toán, cán bộ làm công việc chuyên môn nghiệp vụ của các
HTX.
Kết quả sau bồi dưỡng kiến thức: trình
độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý và nghiệp vụ của hợp tác xã từng bước được nâng
cao; cán bộ hợp tác xã được tiếp thu các kiến thức quản lý mới để ứng dụng vào
quản lý và kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hợp tác
xã. Qua đó thấy được sự quan tâm của Nhà nước và của tỉnh đối với kinh tế tập
thể.
Tuy nhiên các lớp đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX
còn ngắn, cho đến nay chưa thực hiện việc hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý HTX
(chương trình dài hạn) và tỉnh cũng chưa thành lập được Quỹ hỗ trợ phát triển
HTX.
* Chính sách thu hút cán bộ trẻ tốt
nghiệp đại học về làm việc tại các HTX nông nghiệp: Ngày 05/9/2019, Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định số 3738/QĐ-UBND về việc phê duyệt danh
sách hợp tác xã nông nghiệp thực hiện thí điểm mô hình đưa 07 cán bộ trẻ tốt
nghiệp đại học về làm việc có thời hạn ở 06 hợp tác xã nông nghiệp, giai đoạn
2019 - 2020. Tổng kinh phí ngân sách hỗ trợ trong 24 tháng: 567,36 triệu đồng,
ngoài ra các HTX hỗ trợ trả thêm lương cho cán bộ trẻ: 251,76 triệu đồng.
(2) Chính sách xúc tiến thương mại, mở
rộng thị trường
Ngày 07/12/2016 Hội đồng nhân dân tỉnh
ban hành Nghị quyết số 45/2016/NQ-HĐND kèm theo Quyết định số 899/QĐ-UBND ngày
29/3/2017 của UBND tỉnh về việc Quy định điều kiện áp dụng Chính sách khuyến
khích sản xuất hàng hóa tập trung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh giai đoạn
2017-2020, theo đó: (1). Các DN/Hợp tác xã khi tham gia các Hội chợ triển lãm được áp
dụng Khoản 1, Điều 6 Thông tư 171/2014/TT-BTC ngày 14/11/2014 của Bộ Tài chính
hướng dẫn cơ chế Tài chính hỗ trợ thực hiện Chương trình XTTM Quốc gia; (2).
Hỗ trợ không quá 10 triệu/người sản xuất/ lần đối với Hội chợ triển lãm trên địa bàn tỉnh; (3).
Hỗ trợ không quá 20 triệu/người sản xuất/lần đối với Hội chợ triển lãm tổ chức
tại địa bàn các tỉnh/thành; (4). Không quá 40 triệu/người sản xuất/lần/năm đối
với Hội chợ triển lãm tổ chức tại nước ngoài. Qua đó từ 2003 đến nay công tác
hỗ trợ đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, cụ thể:
- Hỗ trợ tham gia các chương trình xúc
tiến thương mại: Tỉnh quan tâm phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn nhất là
phát triển Chương trình OCOP, mặt khác Chương trình nông thôn mới của Chính Phủ
đã thúc đẩy mô hình kinh tế hợp tác xã phát triển tại các địa phương. Qua số
liệu các năm có thể nhận thấy số lượng hợp tác xã được hỗ trợ nhiều hơn và
thành lập tăng lên hàng năm. Trong thời gian qua, đã hỗ trợ cho 240 HTX, tổng
kinh phí hỗ trợ là 1,32 tỷ đồng.
- Hỗ trợ tìm kiếm thị trường, kết nối
tiêu thụ sản phẩm: (1) Sở Công Thương đã kết nối đưa sản phẩm
vào tiêu thụ tại các trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tiện ích nhà
hàng, khách sạn và 29 Trung tâm, cửa hàng, điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP
trên địa bàn tỉnh; (2) Đã kết nối được 14 sản phẩm vào tiêu thụ tại Chi
nhánh công ty CP EB Hải Phòng tại Hạ Long và hệ thống Siêu thị Vinmart (như:
rượu Ba kích, nước mắm Cái Rồng, trứng gà Tân An, miến dong Bình Liêu, ruốc
hàu, ruốc cơ trai...). Từ đó, đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tại địa
phương trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và mở rộng thị trường trong nước; (3)
Đa dạng hóa các hình thức kết nối tiêu thụ, phát triển thị trường và quảng bá
giới thiệu sản phẩm OCOP Quảng Ninh, sản phẩm đặc trưng của tỉnh thông qua việc
hướng dẫn, hỗ trợ các DN/HTX/CSSX ứng dụng thương mại điện tử vào hoạt động
phát triển kinh doanh như: Bán hàng qua Sàn TMĐT, quảng bá giới thiệu và Xúc
tiến tiêu thụ qua cổng kết nối tiêu thụ của Bộ Công Thương, internet...
- Hỗ trợ công tác quảng bá giới thiệu
sản phẩm trên hệ thống Trang tin Sàn giao dịch TMĐT của Tỉnh: Sở Công Thương đã
phối hợp với Bưu điện tỉnh Quảng Ninh triển khai hỗ trợ sản phẩm OCOP của tỉnh
tham gia bán hàng trên sàn giao dịch thương mại điện tử với tên miền
www.badasa.com (gọi tắt là Sàn), đến nay đã thu hút hơn 1.400 sản phẩm có uy tín
trên toàn quốc tham gia với doanh thu 1 năm đạt khoảng 3 tỷ đồng, hiện nay đã
có hơn 20 sản phẩm OCOP, sản phẩm tiêu biểu của tỉnh Quảng Ninh tham gia giao
dịch qua sàn.
Nhìn chung, công tác hỗ trợ mở rộng
thị trường trong những năm
gần đây được tỉnh đặc biệt quan tâm, qua đó nhiều HTX đã tìm thêm được các thị
trường tiêu thụ sản phẩm, nhiều sản phẩm đã được xuất khẩu ra nước ngoài và có
mặt tại các trung tâm thương mại lớn trong nước.
(3) Chính sách ứng dụng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ mới
Tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định
số 1023/QĐ-UBND ngày 07/5/2012 về
thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ; Quyết định số 1562/QĐ-UBND ngày
25/6/2012 về quy định quản lý nguồn vốn đầu tư khoa học công nghệ, Quyết định
số 2901/QĐ-UBND ngày 5/12/2014 về chính sách khuyến khích phát triển hàng hóa
nông nghiệp tập trung, giai đoạn 2014-2016.
Trong thời gian vừa qua tỉnh Quảng
Ninh tập trung hỗ trợ HTX về đào tạo tập huấn về khoa học công nghệ, hỗ trợ xây dựng
thương hiệu sản phẩm, triển khai các ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
kinh doanh, phát triển thị trường khoa học công nghệ và sở hữu trí tuệ.
Qua đó đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
Hàng năm, 4-5 lớp tập huấn về khoa học
công nghệ, 15 lớp về quy định sở hữu trí tuệ, ngoài ra tổ chức các cuộc hội
thảo chuyển giao ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ: Công nghệ sấy nông sản
nâng cao giá trị sản phẩm; ứng dụng cám sinh học, cám thảo dược trong chăn
nuôi;...
- Hỗ trợ triển khai nhiệm vụ khoa học
và công nghệ: Hợp tác xã Thủy tinh Tân sơn tiếp nhận công nghệ sản xuất thủy
tinh 2 lớp vào năm 2004, Hợp tác xã toàn dân vay 6,5 tỷ đồng để thực hiện dự án
trồng và phát triển cây Ba kích trên địa bàn huyện Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh;
triển khai “Mô hình HTX dịch vụ vệ sinh môi trường.
- Hỗ trợ phát triển thị trường khoa
học và công nghệ: Đã hỗ trợ Hợp tác xã tham gia Hội chợ công nghệ thiết bị và
tham gia các hội thảo giới thiệu công nghệ. Đồng thời đầu mối giới thiệu các
nhà khoa học, đơn vị nghiên cứu cho các Hợp tác xã. Qua đó các Hợp tác xã đã
tiếp cận và ký hợp đồng hợp tác trong sản xuất nông nghiệp; sản xuất dược liệu
(Hợp tác xã Hoa Phong, Đông Triều đã ký hợp tác chuyển giao công nghệ bảo quản
sản phẩm với Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ bảo quản sau thu hoạch; Hợp
tác xã dược liệu xanh tinh hoa ký hợp tác với Viện Dược liệu, Bộ Y tế).
- Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu thông
thường: Từ năm 2003-2019, hỗ trợ xây dựng hồ sơ đăng ký nhãn hiệu cho 25 chủ sở
hữu nhãn hiệu là các tổ chức HTX, cá nhân là nông dân như: HTX Tuấn Hùng, HTX
Yên Kiều, HTX nuôi trồng thủy sản Đức Thịnh - Đầm Hà; HTX nông dược xanh tinh
hoa, HTX Toàn Phú, HTX Vạn Chài - Hạ Long; HTX chế biến lâm sản ngoài gỗ Ba
Chẽ; HTX Đông Mai, HTX Hoa Phong - Đông triều.
- Hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu có gắn với
địa danh: 08 Hợp tác xã đăng ký sở hữu công nghiệp cho 12 nhãn hiệu sản phẩm có
gắn với địa danh trong đó 10 nhãn hiệu đã được cấp văn bằng bảo hộ với tổng
kinh phí của địa phương là 500 triệu đồng. Các sản phẩm đều tham gia vào chương
trình OCOP của tỉnh.
Nhìn chung, quy mô và tổ chức của các
hợp tác xã trên địa bàn tỉnh còn nhỏ, thiếu năng lực quản trị, nguồn nhân lực,
việc tiếp cận và hấp thụ các chính sách hỗ trợ nói chung và hỗ trợ ứng dụng
khoa học công nghệ còn hạn chế. Tuy nhiên qua công tác hỗ trợ nhiều HTX trên
địa bàn tỉnh đã tiếp cận được các công nghệ tiên tiến áp dụng vào quá trình sản
xuất kinh doanh, đồng thời đã có những sản phẩm có thương hiệu đã xuất khẩu
cũng như có mặt trong các trung tâm thương mại lớn trong nước.
(4) Chính sách tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển
HTX
UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số
3121/QĐ-UBND ngày 24/4/2012 về việc quy định trình tự, thủ tục cho vay từ nguồn
vốn tín dụng hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Chi nhánh Ngân hàng Chính
sách xã hội là cơ quan chủ trì cho vay vốn ưu đãi phục vụ sản xuất kinh doanh.
Liên minh HTX tỉnh Quảng Ninh là đơn vị được giao tư vấn, hướng dẫn các HTX,
Liên hiệp HTX xây dựng dự án vay vốn, xem xét, lựa chọn HTX, Liên hiệp HTX
thành viên có đủ điều kiện vay vốn giới thiệu cho Ngân hàng Chính sách xã hội
để cho vay,
đồng
thời có chức năng thẩm định,
kiểm tra việc sử dụng vốn cũng như đôn đốc thu hồi vốn đến hạn.
Đến 31/12/2020, dư nợ HTX có
tăng trưởng so với 31/12/2012 (năm ban hành Luật HTX 2012), song còn rất hạn
chế so với các thành phần kinh tế khác: Chỉ có 67 HTX có dư nợ vay vốn các
TCTD, tăng 76,3% so với thời điểm ban hành Luật HTX 2012, số lượng hợp tác xã
vay vốn tín dụng còn rất thấp chỉ khoảng 10-15% số HTX trên địa bàn có vay vốn
các TCTD. Mặc dù dư nợ tín dụng của HTX là rất nhỏ so với các thành phần kinh
tế khác (chiếm 0,06%), tuy nhiên đây là nguồn lực chính để các HTX có thể đầu
tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó cũng thấy sự tăng trưởng và
lớn mạnh của các HTX qua từng giai đoạn, các HTX đã đầu tư vào những dự án có tính
chất đột phá trong các lĩnh vực như xây dựng, vận tải, thương mại dịch vụ và
đặc biệt là nông nghiệp, nông thôn, phát huy đã phát huy vai trò trong chương
trình xây dựng nông thôn mới, chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP)
của tỉnh Quảng Ninh.
(5) Chính sách tạo điều kiện tham gia
các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội (các chương
trình mục tiêu quốc gia; thực hiện an sinh xã hội; hỗ trợ kinh tế hộ và phát
triển kinh tế - xã hội tại địa phương)
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới, chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chương
trình “Mỗi xã, phường một sản phẩm”, tỉnh Quảng Ninh luôn tạo mọi điều kiện để
các HTX tham gia chương trình, đặc biệt tỉnh xây dựng các chính sách đặc thù để
hỗ trợ phát triển hợp tác xã: thành lập mới, đất đai, tín dụng, thiết bị sản
xuất, xúc tiến thương mại, đào tạo, bồi dưỡng...
Từ năm 2014-2018, các đơn vị HTX đã
được hỗ trợ về kỹ thuật phục vụ chuyển đổi cơ cấu giống, mùa vụ, đưa các giống
lúa, rau màu có năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất; có 02 HTX được phê
duyệt hỗ trợ mua con giống phục vụ dự án PTSX với kinh phí ngân sách phê duyệt
hỗ trợ là 161,5 triệu đồng, 01 HTX được hỗ trợ cấp giấy chứng nhận vệ sinh an
toàn thực phẩm là 10 triệu đồng; có 10 HTX được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu hàng
hóa, tem truy xuất nguồn gốc, in bao bì cho một số sản phẩm với kinh phí
1.429,3 triệu đồng; có 10 HTX được hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, thiết
bị, công nghệ mới cho 10 HTX với tổng kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ
5.032,7 triệu đồng[9].
Các HTX đã góp phần tích cực vào việc
thực hiện quy hoạch vùng trọng điểm lúa năng suất cao, vùng trồng cây ăn quả,
cây công nghiệp, vùng rau màu và rau an toàn. Đẩy mạnh việc kiên cố hóa kênh
mương phục vụ sản xuất và đóng góp đáng kể vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn: đường, điện, trường học, trạm xá....
(6) Chính sách thành lập mới HTX, LH
HTX
Năm 2014, Ủy ban nhân
dân tỉnh Quảng Ninh ban hành chính sách khuyến khích phát triển sản xuất hàng
hóa nông nghiệp tập trung trên địa bàn tỉnh tại Quyết định số 2901/QĐ-UBND ngày
05/12/2014, trong đó có chính sách hỗ trợ thành lập mới hợp tác xã. Với các nội
dung hỗ trợ mỗi HTX thành lập mới được hỗ trợ tối đa 25 triệu đồng/1 HTX. Qua
đó từ năm 2015 đến năm 2020, các địa phương đã hỗ trợ cho 64 HTX thành lập mới,
với kinh phí hỗ trợ là 1.600 triệu đồng.
Từ việc hỗ trợ trên cho thấy chính
sách đã góp phần giải quyết khó khăn ban đầu khi giúp HTX thành lập về tìm hiểu
thông tin, tư vấn tuyên truyền chính sách, pháp luật, mua sắm trang thiết bị
văn phòng ban đầu phục vụ cho hoạt động của HTX.
2.2. Chính sách hỗ
trợ, ưu đãi đối với HTX nông nghiệp
(1) Chính sách hỗ trợ đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng.
Theo Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày
15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển HTX
giai đoạn 2015-2020, ngân sách trung ương hỗ trợ tối đa 80% tổng mức đầu tư của
dự án, hợp tác xã đóng góp tối thiểu 20% tổng mức đầu tư của dự án và giao Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì hướng dẫn cụ thể điều kiện, tiêu
chí thụ hưởng. Đến ngày 10/6/2016, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới
ban hành Thông tư số 15/2016/TT-BNNPTNT hướng dẫn điều kiện và tiêu chí thụ
hưởng hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đối với hợp tác xã nông nghiệp.
Tuy nhiên, lại chưa có hướng dẫn chi tiết về quy trình, thủ tục hồ sơ đề nghị
hỗ trợ và việc sử dụng nguồn vốn hỗ trợ. Ngày 01/3/2017, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn có văn bản số 1759/BNN-KTHT hướng dẫn việc sử dụng nguồn vốn Chương
trình nông thôn mới để hỗ trợ hợp tác xã.
Mặc dù vậy với nhận thức tầm quan
trọng của kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Quảng
Ninh đã tập trung triển khai đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, tập
trung chỉ đạo các ngành
rà soát cơ chế, chính sách hiện có liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông
dân, nông thôn; sửa đổi, bổ sung, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp
như: chính sách thu hút, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng... Qua đó kết cấu hạ
tầng để xây dựng nông thôn được đẩy mạnh, đã thực sự phát huy tác dụng, bộ mặt
nông thôn được đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên, các HTX được hưởng lợi
từ chính sách đã ổn định sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng hoạt động,
số xã viên tăng cùng với thu nhập tăng lên góp phần không nhỏ trong công tác xóa
đói giảm nghèo, đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên còn nhiều HTX vẫn chưa có
trụ sở. Các sở, ngành cần đề xuất UBND tỉnh chỉ đạo UBND các huyện, thị xã,
thành phố trong tỉnh sớm quy hoạch đất, giành quỹ đất để cấp cho HTX xây dựng
trụ sở, văn phòng, đồng
thời đề nghị các HTX gửi đơn, hồ sơ đến UBND huyện, thị xã, thành phố để tập
hợp, báo cáo UBND tỉnh, giao các sở ngành có chức năng giải quyết theo quy
định.
(2) Chính sách tiếp cận nguồn vốn phát
triển HTX.
Ngày 24/4/2012, UBND Tỉnh đã ban hành
Quyết định số 3121/QĐ-UBND về việc quy định trình tự, thủ tục cho vay từ nguồn
vốn tín dụng hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, do đó Tỉnh đã bố trí 20
tỷ đồng từ ngân sách tỉnh giao Ngân hàng CSXH tỉnh cho các THT, HTX vay vốn ưu
đãi phát triển sản xuất kinh doanh; Sở Nông nghiệp và PTNT và Liên minh HTX
Tỉnh chỉ là đơn vị tư vấn, hướng dẫn các THT, HTX xây dựng dự án, xem xét, lựa
chọn các THT, HTX thành viên có đủ các điều kiện vay vốn, giới thiệu cho Ngân
hàng CSXH nơi cho vay. Phối hợp Liên minh HTX Tỉnh, Ngân hàng CSXH trong thẩm định, kiểm
tra việc sử
dụng vốn vay và đôn đốc thu hồi các món vay. Từ năm 2016 đến nay, thực hiện hỗ
trợ cho 74 lượt HTX tiếp cận nguồn vốn trên với số vốn khoảng 37,15 tỷ đồng.
(3) Chính sách hỗ trợ chế biến sản
phẩm
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới, chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chương
trình “Mỗi xã phường một sản phẩm”, tỉnh Quảng Ninh luôn tạo mọi điều kiện để
các HTX tham gia chương trình, đặc biệt tỉnh xây dựng các chính sách đặc thù để
hỗ trợ phát triển hợp tác xã: thành lập mới, đất đai, tín dụng, thiết bị sản
xuất, xúc tiến thương mại, đào tạo, bồi dưỡng... Từ năm 2016 đến nay, các đơn
vị HTX đã được hỗ trợ về kỹ thuật phục vụ chuyển đổi cơ cấu giống, mùa vụ, đưa
các giống lúa, rau màu có năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất; có 02 HTX
được phê duyệt hỗ trợ mua con giống phục vụ dự án PTSX với kinh phí ngân sách
phê duyệt hỗ trợ là 161,5 triệu đồng, 01 HTX được hỗ trợ cấp giấy chứng nhận vệ
sinh an toàn thực phẩm là 10 triệu đồng; có 10 HTX được hỗ trợ xây dựng nhãn
hiệu hàng hóa, tem truy xuất nguồn gốc, in bao bì cho một số sản phẩm với kinh
phí 1.429,3 triệu đồng; có 15 HTX được hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ,
thiết bị, công nghệ mới với tổng kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ 8.778,3
triệu đồng[10].
3. Công tác quản lý
nhà nước đối với KTTT, HTX
- Công tác thành lập và kiện toàn Ban
Chỉ đạo Đổi mới, phát triển KTTT, HTX: Tỉnh Quảng Ninh ban hành Quyết định
thành lập Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển kinh tế tập thể cấp tỉnh1. Trưởng ban chỉ đạo
cấp tỉnh là đồng chí Phó Chủ tịch thường trực UBND Tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu
tư là cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo cấp tỉnh.
- Việc bố trí sắp xếp cán bộ theo dõi
KTTT, HTX ở các cấp: Căn cứ Thông tư liên tịch 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày
11/12/2015 của liên bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Nội vụ, UBND tỉnh Quảng Ninh đã
ban hành Quyết định số 439/2017/QĐ-UBND ngày 13/02/2017 về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ,
quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Kế hoạch và Đầu tư, cùng với đó UBND các huyện,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh cũng ban hành các quyết định về quy định về chức năng
nhiệm vụ phòng tài chính kế hoạch11. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại Sở
Kế hoạch và Đầu
tư và mỗi phòng Tài chính kế hoạch của 14 địa phương mới bố trí được 01 cán bộ
làm công tác phát triển kinh tế tập thể, nhưng vẫn đang kiêm nhiệm thêm nhiều
nhiệm vụ khác. Đội ngũ cán bộ mỏng, phần lớn chưa qua đào tạo bồi dưỡng về phát
triển kinh tế tập thể, dẫn đến công tác quản lý còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được hết các yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay.
Về công tác tổ chức quản lý, cho đến nay hệ
thống tổ chức về quản lý chỉ đạo HTX trên phạm vi từ tỉnh đến địa phương hiện
còn chồng chéo và chưa cụ thể, rõ ràng, các huyện, thị xã, thành phố có cán bộ
theo dõi về kinh tế tập thể là kiêm nhiệm, do vậy rất khó có thể hoàn thành tốt
nhiệm vụ của việc tham mưu, quản lý đối với lĩnh vực này.
- Công tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật đối với KTTT, HTX: Nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động
quản lý Nhà nước về kinh tế tập thể, hàng năm các cơ quan chuyên môn phối hợp
cùng Liên minh HTX tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố (phòng, ban chuyên
môn) thực hiện kiểm tra, hướng dẫn chuyên ngành về việc chấp hành các chế độ
chính sách của nhà nước trong quản lý, điều hành các hoạt động của HTX. Tính từ
năm 2011 đến năm 2020 đã tiến hành kiểm tra, hướng dẫn việc chấp hành các chế
độ chính sách của Nhà nước trong quản lý, điều hành các hoạt động của HTX đối
với trên 165 HTX trên địa bàn. Qua công tác kiểm tra, giám sát đã kịp thời đôn
đốc, hướng dẫn, nhắc nhở khắc phục những hạn chế, tồn tại của các HTX.
- Công tác thực hiện chế độ báo cáo về
hợp tác xã theo quy định: Thực hiện Điều 24, Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT ngày
26 tháng 5 năm 2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, định kỳ vào tuần thứ nhất của
quý, Sở Kế hoạch và Đầu
tư cơ bản đã báo cáo tổng hợp kết quả đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
của quý trước trên địa bàn tỉnh theo mẫu quy định tại Phụ lục II-12 gửi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, tuy nhiên do việc báo cáo của các địa phương với Sở kế hoạch
và Đầu tư chưa đảm bảo, do đó việc báo cáo đôi khi còn chậm. Các địa phương
trong tỉnh cơ bản thực hiện tốt công tác báo cáo định kỳ theo quy định, tuy
nhiên vẫn còn một số địa phương chưa thực sự quan tâm sâu sát nên việc báo cáo
phải đôn đốc và gửi về muộn hơn so với quy định.
Mặc dù đã có quy định rõ ràng, tuy
nhiên việc báo cáo của các HTX chưa được thực hiện đầy đủ hàng năm với các cơ
quan quản lý nhà nước. Ngay cả khi có văn bản yêu cầu báo cáo cũng rất ít HTX gửi báo
cáo về, các báo cáo gửi về của các HTX mới chỉ mang tính chất thực hiện theo
yêu cầu, chưa đi vào đúng nội dung hoặc báo cáo còn thiếu nhiều nội dung. Các HTX nông
nghiệp là hạn chế hơn cả, có nhiều HTX ngừng sản xuất kinh doanh hoặc đã tiến
hành giải thể song không có báo cáo cho đơn vị quản lý được biết dẫn tới số
liệu tổng hợp không chính xác.
4. Vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể và Liên minh HTX Việt Nam đối với
phát triển KTTT, HTX
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp
phụ nữ trong thời gian qua đã phối hợp khá tốt với các sở, ngành, chính quyền
địa phương trong công tác tuyên truyền, vận động phát triển kinh tế tập thể,
vận động Nhân dân tự nguyện tham gia phát triển kinh tế tập thể, tham gia xây
dựng nông thôn mới.
Liên minh HTX với các chức năng đại
diện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các HTX, các thành viên đã tích cực tham
mưu cho Tỉnh ủy, HĐND, UBND Tỉnh trong xây dựng các chủ trương, chính sách,
pháp luật về HTX, tuyên truyền, vận động phát triển HTX, hỗ trợ phát triển HTX
và đại diện cho khu vực HTX trong các quan hệ đối nội và đối ngoại. Liên minh
HTX Tỉnh đã chứng minh có vị trí và vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của
khu vực HTX của tỉnh, từng bước hoàn thiện tổ chức, hoạt động theo hướng gắn kết
chặt chẽ với các HTX và các thành viên, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận
động phát triển HTX, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các HTX và tập trung
vào công tác hỗ trợ trong các lĩnh vực đào tạo, vốn, thông tin kinh tế, tổ chức
tiêu thụ sản phẩm, tư vấn pháp lý, kế toán, kiểm toán, khoa học, công nghệ.
Tuy vậy, hoạt động của Liên minh cũng
còn nhiều bất cập, HTX, công tác hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ chưa đáp ứng được đòi
hỏi bức xúc hiện nay của các HTX, nhất là hỗ trợ về vốn, thông tin thị trường,
tổ chức tiêu thụ sản phẩm, các hoạt động tư vấn về pháp lý, kế toán kiểm toán,
khoa học công nghệ.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
VỀ KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ
1. Thành tựu,
vị trí, vai trò của KTTT trong phát triển kinh tế - xã hội
- Về phát triển kinh tế: Mặc dù tỷ trọng kinh tế
HTX còn thấp (đóng góp của kinh tế tập thể vào GRDP địa phương là 1,2%) và
không còn giữ vai trò trực tiếp tổ chức và điều hành sản xuất tập trung và
chuyển sang chức năng làm dịch vụ là chính, nhưng kinh tế tập thể tiếp tục có
những đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh Quảng Ninh, tạo được công ăn việc làm, cải thiện, nâng cao đời sống cho
nhiều lao động, nhất là lao động tại khu vực nông thôn; góp phần xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn tỉnh. Tỷ trọng vốn đầu tư trong năm 2019 và những tháng đầu
năm 2020 chỉ đạt 0,012% trong tổng nguồn vốn, tuy nhiên các HTX đang có xu
hướng phát triển theo mô hình gắn với chuỗi giá trị và đưa hàm lượng khoa học vào sản
phẩm. Đây được xem là bước đi thích hợp để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh
khi hội nhập quốc tế sâu và toàn diện. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế tập thể
vẫn phát triển với quy mô nhỏ, đa phần sản xuất theo kiểu truyền thống thì sự
liên kết lại càng cần thiết, nhất là liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn
với xây dựng thương hiệu hàng hóa. Tỉnh Quảng Ninh đã có một số HTX kiểu mới
gắn với chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa. Trong những năm qua12;
- Về chính trị, văn hóa, xã hội: Khu vực KTTT có
sự chuyển biến tích cực, các loại hình KTTT phát triển đa dạng trên các lĩnh
vực, ngành, nghề; đáp ứng nhu cầu, lợi ích đa dạng của thành viên và người lao
động; mô hình HTX mới, điển hình tiên tiến hàng năm tăng; vai trò, vị
trí của KTTT được nâng lên góp phần cùng với chính quyền địa phương thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, đảm bảo an ninh -
trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nông thôn mới và ổn định chính trị ở cơ sở;
Các HTX chuyển đổi và thành lập mới
nhìn chung đã tuân thủ các nguyên tắc, quy định của Luật HTX; vốn, quỹ của HTX
không ngừng tăng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất kinh doanh, dịch vụ của
thành viên. HTX đã phát huy quyền tự chủ, tự quyết định và chịu trách nhiệm
toàn bộ kết quả sản
xuất, kinh doanh; thành viên xác định được trách nhiệm trong xây dựng và phát
triển HTX. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, công tác quản lý được đổi mới. Đa số HTX
hoạt động sản xuất, kinh doanh ổn định, có lãi; chú trọng phát triển và huy
động nguồn vốn góp của thành viên, hoạt động liên kết hợp tác giữa HTX, tổ hợp
tác (THT) được mở rộng;
Quá trình đổi mới, phát triển KTTT đã
có những đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của
Tỉnh, nhất là tăng xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc ở khu vực nông thôn.
2. Tồn tại,
hạn chế
- Về THT: Các văn bản hướng dẫn, hỗ trợ cho THT
còn chưa đồng bộ, chính sách chưa đi vào thực tiễn; Công tác quản lý nhà nước
có địa phương trong tỉnh chưa được chú trọng; nhiều mô hình tổ hợp tác hoạt
động hiệu quả nhưng chậm rút kinh nghiệm, nhân rộng; sự hỗ trợ của các địa
phương để phát triển THT chưa thực sự được quan tâm; THT hoạt động thiếu tính
bền vững;
- Về HTX: Mặc dù đã thực hiện chuyển đổi nhưng
nhiều HTX vẫn quen lối hoạt động cũ, vẫn “bình mới rượu cũ”, bởi lối sống, lối
sinh hoạt của người dân khó thay đổi;
Tăng trưởng của khu vực HTX chưa ổn
định, còn thấp. Hiệu quả hoạt động kinh tế của các HTX chưa cao. Quy mô sản
xuất của các HTX nhỏ, chưa khẳng định được về số lượng, chất lượng sản phẩm
dịch vụ trên thị trường. Những khó khăn nội tại của HTX còn chậm được khắc
phục, đặc biệt khó khăn về vốn, cơ sở vật chất, công nghệ sản xuất, trình độ
quản lý, nguồn nhân lực. Trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý các
HTX còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn sản xuất. Đa số cán bộ chủ
chốt HTX chỉ được đào tạo qua các khóa tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn ngày.
Tình trạng nhiều thành viên trong Ban Quản trị HTX vừa được đào tạo lại chuyển
sang làm công tác đảng, chính quyền để có chế độ ổn định hơn diễn ra khá phổ
biến;
Nhiều HTX mới thành lập chỉ là danh
nghĩa, còn thực tế hoạt động là kinh tế tư nhân nên ít có tác dụng thúc đẩy
kinh tế tập thể phát triển. Nhiều HTX thiếu năng động sáng tạo, chưa đảm bảo tính chất và
nguyên tắc theo quy định của Luật HTX, chưa thực hiện chế độ kế toán và
thông tin báo cáo theo quy định hiện hành;
Các địa phương cũng đã quan tâm, nhưng
sự quan tâm còn hời hợt, chưa mặn mà, đặc biệt các cán bộ quản lý HTX của UBND
các huyện, thị xã, thành phố còn thiếu tính phối hợp trong việc cung cấp số
liệu, báo cáo nên việc tổng hợp các số liệu thông tin của Sở Nông nghiệp và
PTNT gặp nhiều khó khăn;
Nhiều hợp tác xã còn dè dặt chưa mạnh
dạn đầu tư phát triển, chưa tìm được đầu ra tiêu thụ sản phẩm, chủ yếu là tự tiêu
tự sản xuất; Hoạt động của các HTX còn thiếu gắn bó với nhau, chưa có sự liên
kết hệ thống cả về kinh tế, xã hội và tổ chức. Trên địa bàn tỉnh chưa hình
thành được Liên hiệp HTX để hỗ trợ thúc đẩy các HTX thành viên hoạt động hiệu
quả. Các hoạt động liên doanh, liên kết giữa các HTX với doanh nghiệp, tổ chức
khác theo hướng xây dựng những mối quan hệ kinh doanh ổn định, bền vững còn hạn
chế.
3. Nguyên
nhân
3.1. Về pháp luật,
cơ chế, chính sách
- Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích
phát triển HTX đến từng HTX còn ít. Nhiều HTX chưa có trụ sở làm việc, chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ở một số địa
phương cán bộ HTX nông nghiệp thường biến động qua các kỳ Đại hội, mức thu nhập
của cán bộ ban quản trị còn quá thấp nên chưa khuyến khích, động viên được sự
nhiệt tình gắn bó với HTX;
- Cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ
HTX nông nghiệp ban hành chậm, khó áp dụng vào thực tiễn. Nguồn kinh phí ngân
sách nhà nước cấp hàng năm để thực hiện các chính sách đối với HTX hạn chế.
3.2. Về tổ chức thực
hiện pháp luật, cơ chế, chính sách
- Nhận thức của một số cấp ủy Đảng,
chính quyền và người dân về vị trí, vai trò của kinh tế hợp tác chưa đầy đủ.
Công tác tuyên truyền về Luật HTX được quan tâm thực hiện nhưng chưa thường
xuyên.
- Công tác lãnh đạo chỉ đạo của cấp
ủy, chính quyền cơ sở đối với HTX ở một số nơi chưa được quan tâm, thiếu sâu
sát. Cán bộ quản lý nhà nước ở cơ sở làm việc kiêm nhiệm nên chưa thể hiện hết
trách nhiệm trong công tác tham mưu và tổ chức thực hiện.
- Việc tuyên truyền học tập cũng còn
nhiều hạn chế, nhận thức về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, phát
triển hợp tác xã ở không ít cấp ủy đảng, địa phương chưa có chuyển biến đáng
kể. Thậm chí, trong báo cáo tổng kết nhiệm kỳ và phương hướng, mục tiêu của
không ít tổ chức đảng, vấn đề phát triển kinh tế tập thể, phát triển hợp tác xã
được đề cập rất sơ sài, có nơi không đề cập. Hầu hết các hợp tác xã gặp khó
khăn trong việc chuyển tải các nội dung của Luật đến từng xã viên, thiếu kinh
phí để in ấn văn bản luật gửi đến từng người. Do vậy khi hợp tác xã chuyển đổi
xong vẫn còn khá nhiều xã viên chưa nắm bắt đầy đủ các nội dung của luật và các
nguyên tắc của hợp tác xã mới theo luật, chưa phân định được sự khác nhau giữa
mô hình hợp tác xã cũ với hợp tác xã mới dẫn đến việc tham gia hợp tác xã mới
hoặc hợp tác xã chuyển đổi của một số bộ phận xã viên còn mang tính hình thức,
theo phong trào.
- Hoạt động của Liên minh về HTX còn
hạn chế, công tác hỗ trợ, tư vấn, dịch vụ chưa đáp ứng được đòi hỏi bức xúc
hiện nay của các HTX, nhất là hỗ trợ về vốn, thông tin thị trường, tổ chức tiêu
thụ sản phẩm, các hoạt động tư vấn về pháp lý, kế toán kiểm toán, khoa học công
nghệ. Liên minh HTX chưa thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của mình đối với các HTX và
thành viên.
3.3. Về bản thân
HTX
- Trình độ cán bộ quản lý của HTX còn
yếu, phần lớn cán bộ
tuổi cao, làm việc theo kinh nghiệm. Do đó các HTX đều lúng túng trong khâu tiếp cận
các kiến thức khoa học kỹ thuật, kiến thức về kinh doanh, thị trường...
- Một số HTX thành lập theo
phong trào nên gặp lúng túng trong hoạt động và xây dựng phương án sản xuất
kinh doanh, hoạt động mang tính hình thức.
- Lĩnh vực nông nghiệp tạo ra khả năng
sinh lời thấp, rủi ro cao nên các HTX rất ngại trong việc tổ chức sản xuất và
tiêu thụ nông sản cho nông dân.
- Hoạt động của các HTX còn thiếu gắn
bó với nhau, chưa có sự kết nối hệ thống cả về kinh tế, xã hội và tổ chức. Các
hoạt động liên doanh, liên kết giữa các HTX với nhau còn ít, nội dung hạn chế.
- Tình trạng thiếu vốn lưu động để
hoạt động dịch vụ của các HTX do các khoản nợ phải thu của xã viên nhiều năm
qua chưa được xử lý. Công nợ tồn đọng quá nhiều chưa xử lý được,
các xã viên không có cổ phần góp vốn trên thực tế, HTX không có tài sản để thế
chấp vay vốn tín dụng nên rất khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
3.4. Về thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về KTTT, HTX
- Quản lý nhà nước của các cấp đối với
kinh tế tập thể chưa đáp ứng so với yêu cầu, chưa quan tâm đến tháo gỡ các
khó khăn và tạo điều kiện cho
các tổ hợp tác, HTX hoạt động. Công tác xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế
tập thể tuy đã triển khai nhưng chưa gắn kết với kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh nói chung, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các huyện thị
xã thành phố nói riêng, do vậy chưa được bố trí nguồn lực thực hiện. Công tác
kiểm tra, đôn đốc thực hiện Luật HTX, chỉ đạo thực hiện các chính sách đối với
HTX, cũng như trách nhiệm tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, tuyên truyền nhân
rộng các mô hình làm ăn có hiệu chưa được địa phương chú trọng thực hiện.
- Cán bộ quản lý nhà nước từ tỉnh tới
huyện lĩnh vực kinh tế tập thể còn thiếu, bộ máy chưa được kiện toàn, trừ Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn là có các phòng theo dõi HTX, còn lại tất cả các sở khác đều không có
phòng hoặc cán bộ theo dõi về HTX nên không thể đáp ứng vai trò nhiệm vụ quản
lý theo dõi HTX trong giai đoạn hiện nay.
- Bộ máy quản lý HTX chưa được kiện
toàn, đội ngũ cán bộ quản lý nông nghiệp đối với HTX từ tỉnh đến huyện còn
thiếu và yếu, tâm lý cán bộ xã viên không muốn làm cán bộ HTX mà muốn làm cán
bộ bên Ủy ban nhân dân
xã hoặc cán bộ đoàn thể... Trình độ năng lực quản lý kinh tế của Ban quản trị
HTX còn yếu.
- Cán bộ quản lý HTX chưa được đào tạo
hết và đào tạo lại.. Nhiều HTX cán bộ vừa được đi tập huấn, đào tạo về lại
chuyển sang làm cán bộ quản lý Nhà nước ở cấp xã, phường, hoặc đoàn thể. Cán bộ
lãnh đạo HTX nông nghiệp hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu kém về chuyên môn
nghiệp vụ; cán bộ khoa học kỹ thuật ở HTX quá thiếu, đa số HTX chỉ có cán bộ
trồng trọt còn cán bộ thú y, cán bộ quản lý kinh tế hầu như không có.
4. Bài học
kinh nghiệm
Một là: Tăng cường vai trò
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự tham gia
của cả hệ thống chính trị. Thực tế cho thấy ở những nơi nào có sự quan tâm chỉ
đạo sâu sát, thì nơi đó phong trào kinh tế hợp tác, HTX được củng cố và phát
triển mạnh.
Hai là: Ủy ban nhân dân
tỉnh đặc biệt quan tâm đến xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hàng
năm và rà soát, bổ sung, xây dựng các chính sách phát triển kinh tế tập thể
thuộc trách nhiệm của mình. Việc triển khai học tập Luật HTX và các Nghị định
hướng dẫn Luật đã được thực hiện từ tỉnh đến cơ sở, đến các HTX chuyển đổi và chưa
chuyển đổi. Sau khi học tập nhận thức của cán bộ, xã viên về HTX kiểu mới đã
được nâng lên một bước.
Ba là: Triển khai kịp thời
các cơ chế, chính sách như về kinh tế tập thể, vận dụng tốt các chính sách ưu
đãi, hỗ trợ của nhà nước như: hỗ trợ về đất đai, hạ tầng, tín dụng ưu đãi, đào
tạo tập huấn, tạo điều kiện cho các HTX tham gia vào các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội, các hoạt động xúc tiến thương mại, hội thảo, hội chợ
triển lãm, tuyên
truyền quảng bá sản phẩm, hỗ trợ cho các HTX ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài cơ chế chính sách của Trung
ương, địa phương cần quan tâm, vào cuộc bằng cụ thể hóa các chính sách phù hợp
với điều kiện thực tế của địa phương. Năng lực quản lý nhà nước đối với kinh tế
tập thể cần được kiện toàn và bố trí thêm cán bộ chuyên trách có chức năng quản
lý nhà nước đối với kinh tế tập thể ở các các cấp tỉnh, huyện, xã.
Bốn là: Cán bộ quản lý nhà
nước cần được bồi dưỡng, đào tạo, cập nhật thường xuyên các kiến thức, kinh
nghiệm quản lý HTX trong và ngoài nước, đảm bảo có trình độ năng lực, có khả
năng tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tác định
hướng, phát triển KTTT, HTX kiểu mới gắn với tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng
nông thôn mới. Công tác kiểm tra, giám sát thi hành luật phải được thực hiện
định kỳ, chấn chỉnh kịp thời những trường hợp sai phạm cũng như hoạt động yếu
kém, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của quản lý nhà nước nói riêng và hoạt
động của khu vực HTX nói chung.
Năm là: Liên minh HTX phát
huy vai trò của cơ quan đầu mối, có kế hoạch phát triển thành viên, triển khai
thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên
môn; tranh thủ sự quan tâm của các cấp, các ngành hỗ trợ vốn, xúc tiến thương
mại, đào tạo nghề cho xã viên HTX;... tạo nguồn lực vững chắc cho kinh tế hợp
tác phát triển. Qua đó nâng cao công tác hỗ trợ, tư vấn hội viên, vận động phát
triển HTX, hỗ trợ thành viên, tham gia xây dựng và phối hợp hướng dẫn thực hiện
chính sách, pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế HTX.
Sáu là: Đối với các HTX cần
đảm bảo hài hòa lợi ích của các thành viên, phát huy tiềm năng, nội lực, nhất
là vai trò người đứng đầu HTX. Quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ của HTX với các phương thức đào tạo khác nhau
để nâng cao năng lực cán bộ HTX, từng bước nâng cao chất lượng của bộ máy điều
hành của HTX, đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới.
Phần thứ hai
KẾ
HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
I. TÌNH HÌNH TRONG
NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Tình hình
quốc tế
Nền kinh tế thế giới hiện
nay đang trải qua những chuyển biến tích cực đan xen với những rủi ro tiềm ẩn.
Toàn cầu hóa tiếp tục gia tăng nhưng vẫn đứng trước nguy cơ bảo hộ và tỷ lệ lạm
phát, hệ thống tài chính – tiền tệ ổn định nhưng ẩn chứa nguy cơ bất ổn. Kinh
tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động nhưng sự tham
gia, vừa hợp tác vừa cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn (đặc biệt khu vực
EU, Trung Quốc, Mỹ) làm cho tình hình khu vực diễn biến phức tạp, rất khó đoán
định. Kinh tế thế giới và khu vực trong thời gian tới sẽ được định hình bởi các
vấn đề như tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm tốc; những điều chỉnh quan trọng
của quá trình toàn cầu hóa; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, già hóa dân
số, đô thị hóa, dịch bệnh và biến đổi khí hậu đang diễn ra nhanh chóng và khắc
nghiệt hơn. Thương mại toàn cầu tiếp tục suy giảm, chuỗi cung ứng bị gián đoạn,
tình trạng thất nghiệp tăng cao. Theo các tổ chức quốc tế và thể chế tài chính,
tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ rơi vào suy thoái do tình hình dịch bệnh Covid
ngày càng phức tạp; Cùng với đó, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp
diễn, căng thẳng chính trị gia tăng giữa Mỹ - Iran, bất đồng nội bộ trong tổ
chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và trên bán đảo Triều Tiên đã tác động tiêu cực
đến kinh tế Việt Nam.
2. Tình hình
đất nước
Kinh tế - xã hội nước ta 10 tháng đầu
năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi
rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, khó lường
làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại; tỷ lệ thất nghiệp,
thiếu việc làm tăng cao. Bên cạnh đó, hạn hán, xâm nhập mặn diễn ra sớm ảnh hưởng
đến năng suất và sản lượng cây trồng, dịch tả lợn châu Phi chưa được khống chế
hoàn toàn... Trước tình hình dịch bệnh kéo dài và còn diễn biến phức tạp, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp với phương châm vừa
phòng chống dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe người dân, vừa phòng chống suy giảm kinh tế và
giữ vững ổn định xã
hội, nỗ lực phấn đấu cao nhất thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh
tế
- xã hội.
Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối
đổi mới đất nước, đạt tốc độ tăng trưởng cao so với thế giới, tiếp tục hội nhập sâu rộng
thông qua hàng loạt hiệp định thương mại tự do có quy mô lớn như: CPTPP, EVFTA
hay AEC. Đồng thời, Nhà nước thúc đẩy nhiều đổi mới sáng tạo, khuyến khích đầu
tư, tập trung ưu tiên cho phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, Trung ương tiếp tục
hoàn thiện thể chế pháp luật, thực hiện phát triển kinh tế thị trường gắn với
định hướng XHCN, xây dựng nhiều cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư mang tính động
lực hơn, là những điều kiện quan tâm để phát triển thành phần kinh tế tập thể,
hợp tác xã trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế tập thể (KTTT) là
chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, được xác định nhất quán và xuyên suốt tại
các nghị quyết Đại hội Đảng. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho thấy, mặc dù đã
có sự chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả bước đầu đáng khích lệ,
nhưng sự phát triển của khu vực KTTT, hợp tác xã (HTX) vẫn chưa tương xứng với
tiềm năng.
- HTX là thể chế không thể thiếu được
để phát triển đất nước hài hòa về tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, là tất yếu đối với việc thúc đẩy phát triển kinh tế hộ gia
đình, kinh tế tư nhân, cá thể, đáp ứng các nhu cầu phong phú của đời sống cộng
đồng theo các nguyên tắc HTX.
- HTX thực sự là một tổ chức tự nguyện
của thành viên, dựa trên nền tảng thành viên, kinh tế thành viên, một mặt
khuyến khích hợp tác giữa thành viên theo tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau cùng phát triển, mặt khác tôn trọng cá nhân thành viên, phát huy cao vai
trò cá nhân của thành viên, kinh tế thành viên HTX.
- Nhà nước đóng
vai trò quan trọng trong việc phát triển HTX thông qua tạo khung khổ pháp luật,
ban hành chính sách hỗ trợ HTX, đảm bảo HTX thực hiện được tốt các mục tiêu
kinh tế, chính trị và xã hội quan trọng của mình. Các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước không mang tính bao cấp, mà chỉ mang tính tạo đà cho HTX tự phát triển.
Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của HTX.
3. Cơ hội và
thách thức đối với khu vực KTTT, HTX
3.1. Cơ hội.
Bước sang thời kỳ đổi mới, KTTT, HTX
mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng vẫn luôn nỗ lực, tự đổi mới vươn lên và ngày
càng thể hiện đúng vai trò, bản chất HTX, đặc biệt là từ khi có Luật HTX năm
2012 đã thể hiện được tư duy mô hình HTX kiểu mới, hạt nhân là hợp tác, góp
phần hoàn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Chính phủ đã ban hành
và triển khai các chính sách hỗ trợ cũng như sự ưu đãi của Nhà nước đối với khu
vực này là rất quan trọng. Các chính sách hỗ trợ đối với HTX như đào tạo đội
ngũ cán bộ làm việc trong khu vực KTTT, hỗ trợ về ứng dụng khoa học công nghệ,
kỹ thuật mới, hỗ trợ về thành lập mới... tạo điều kiện để thực hiện các chỉ
tiêu, chương trình phát triển.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam -
EU (EVFTA) đã ký kết và chính thức có hiệu lực thực thi từ năm 2020 đã mở ra
nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và hợp tác xã mở rộng thị trường, đẩy mạnh
xuất khẩu sang EU, thu hút đầu
tư với công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước EU. Tham gia EVFTA các doanh
nghiệp được hưởng lợi về ưu đãi thuế quan cũng như môi trường đầu tư, trong đó
các ngành hàng dự kiến sẽ được hưởng lợi nhiều nhất là những ngành hàng xuất
khẩu chủ lực như dệt may, giày dép và hàng nông sản...xu thế liên kết giữa các
HTX với nhau và giữa HTX với doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển và đi vào
chiều sâu.
Nhận thức về KTTT và trách nhiệm của
cấp ủy, chính quyền các cấp được nâng lên. Nhiều nơi đã chú trọng và có biện
pháp đẩy mạnh phát triển HTX, tạo điều kiện cho KTTT mà nòng cốt là HTX phát
triển; nền kinh tế của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khả quan trong nhiều năm; cơ
cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng khả năng cạnh tranh và phát
huy lợi thế so sánh của từng ngành, tỷ trọng công nghiệp-xây
dựng và dịch vụ tiếp tục tăng. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã có bước
chuyển biến tích cực
theo hướng hiệu quả kinh tế, chú trọng cả trồng trọt và chăn nuôi; cơ cấu trong
nội bộ từng ngành từng bước chuyển dịch gắn với thị trường trong nước và xuất
khẩu là lợi thế cho việc phát triển KTTT. Công tác tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế hợp tác được tổ chức thường xuyên, nội
dung và hình thức tuyên truyền được đổi mới.
3.2. Thách thức.
Bên cạnh cơ hội, khu vực KTTT, HTX sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức: Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đang phát triển mạnh mẽ, kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún, sản xuất hàng hóa phi
tiêu chuẩn sẽ không còn chỗ đứng, không có khả năng cạnh tranh và không thể tồn
tại, vì vậy, hợp tác là
con đường tất yếu để cùng phát
triển. Tuy nhiên,
sự nhất quán, đoàn kết trong hợp tác sản xuất KTTT ở địa phương hiện nay còn
mang nhiều tính cá nhân, năng lực cạnh tranh thị trường của KTTT còn hạn chế,
nguồn nhân lực trong KTTT hiện nay còn yếu kém và năng lực quản lý, lãnh đạo,
năng lực làm việc, sự bảo hộ của các chính sách, thể chế cho KTTT chưa cao, do
vậy sự phát triển của KTTT dễ bị ảnh hưởng của tác động bên ngoài. Nên KTTT ở địa
phương không đủ năng lực thích ứng kịp thời với tình hình mới và dễ tụt hậu
ngày càng xa hơn về công nghệ, tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu cũng ảnh
hưởng không nhỏ tới hoạch định chiến lược, quy mô phát triển sản xuất của KTTT.
4. Dự báo xu
hướng phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021 - 2025
Giai đoạn 2021-2025, dự kiến xu hướng
phát triển KTTT, HTX của tỉnh sẽ ngày càng phát triển, cần triển khai đồng bộ
các giải pháp, cụ thể:
Một là, tiếp tục đổi mới và
đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân và hệ
thống chính trị về bản chất, cơ chế hoạt động
của HTX kiểu mới, vai trò và lợi ích của KTTT, HTX trong phát triển sản xuất, kinh
doanh, làm giàu hợp pháp, góp phần phát triển đất nước; Tập trung tuyên truyền,
vận động, khuyến khích tầng lớp thanh
niên tiếp thu tiến bộ khoa học
công nghệ, tham gia khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo theo mô hình HTX.
Hai là, rà soát, bổ sung,
hoàn thiện khu pháp luật và chính sách hỗ trợ phát triển KTTT nhằm tạo môi
trường thuận lợi cho HTX phát triển. Trong đó, rà soát và tổ chức triển khai
thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển KTTT, HTX theo các
chương trình, đề án đã được phê duyệt; Xây dựng Chiến lược phát triển KTTT, HTX
đến năm 2030 để
có định hướng, chính sách tổng thể, lâu dài cho HTX; xây dựng Chương trình hỗ
trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 trên cơ sở rà soát các nội dung
Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ đảm bảo hỗ
trợ tập trung, phù hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Nghiên cứu, xây
dựng hướng dẫn đối với kiểm toán HTX phù hợp với các quy định pháp luật hiện
hành; Bổ sung vốn điều lệ cho Quỹ hỗ trợ phát triển HTX của Trung ương và địa
phương nhằm kịp thời hỗ trợ vốn cho HTX đầu tư phát triển, nhất là các HTX sản
xuất theo chuỗi giá trị, sản xuất công nghệ cao.
Ba là, tăng cường và nâng
cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với HTX, gắn liền với công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát triển HTX, xây dựng cơ
chế hợp tác, liên kết, huy động sự tham gia của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể, hội, hiệp hội các cấp. Tăng cường
kiểm tra, giám sát tình hình hoạt động KTTT, HTX để nắm bắt sát tình hình, kịp
thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc và dự báo xu hướng phát triển KTTT, HTX;
Xây dựng và nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tiêu biểu, hoạt động
hiệu quả trên cả nước; Tăng cường công tác liên doanh, liên kết trong tổ
chức sản xuất kinh doanh của HTX; Theo dõi, xuyên suốt quá trình hoạt động và
thông qua các phong trào thi đua để phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng những mô
hình mới, cách làm hiệu quả; Thực hiện tốt công tác đánh giá, khen thưởng nhằm
khích lệ các HTX.
Bốn là, kiện toàn tổ chức
thống nhất, đồng bộ và xuyên suốt trong công tác chỉ đạo, phối hợp, điều hành
giữa Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển KTTT, HTX ở Trung ương và địa phương, bảo đảm
sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực
hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về KTTT,
HTX. Củng cố tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về KTTT thống nhất từ Trung ương
đến địa phương
theo
hướng ngành Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước chung
về KTTT; các bộ, ngành thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KTTT theo lĩnh
vực quản lý nhà nước được phân công theo đúng quy định của Luật HTX năm 2012.
Năm là, đổi mới, nâng cao
hiệu quả hoạt động của tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX; Thực hiện tái cơ cấu,
giải thể dứt điểm các
HTX yếu kém, đã ngừng hoạt động để tạo dư địa cho thành lập HTX mới; Tiếp tục
thực hiện tốt chính sách đào tạo và thu hút cán bộ về công tác tại các HTX;
Thực hiện hiệu quả chính sách đưa cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng về làm
việc có thời hạn tại HTX; Tăng cường năng lực quản trị hợp tác xã theo hướng
công khai, minh bạch; củng cố bộ máy kế toán, kiểm toán. Phát triển tổ hợp tác
để tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế hợp tác, chuyển dần thành HTX; phát
triển HTX gắn với chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực của địa phương, trên cơ sở
liên kết hộ sản xuất với DN chế biến, tiêu thụ hàng hóa; khuyến khích và hỗ trợ
thành lập các liên hiệp HTX làm đầu kéo cho HTX thành viên tăng quy mô, phát triển
sản xuất gắn với chuỗi giá trị.
Sáu là, phát huy vai trò
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Liên minh HTX Việt Nam
trong phát triển KTTT, HTX; Tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ, hiệu quả
giữa các cơ quan, tổ chức, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể các cấp trong việc thực
hiện Nghị quyết, các quy định pháp luật, thúc đẩy phát triển KTTT, HTX; Đẩy
mạnh công tác giám sát, phản biện và tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách
về kinh tế tập thể, HTX; Vận động thành lập HTX và xây dựng các mô hình HTX
hoạt động có hiệu quả...
Bảy là, chú trọng phát
triển nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực về quản lý nhà
nước và quản trị sản xuất, kinh doanh cho khu vực KTTT, HTX; đổi mới và hoàn
thiện hệ thống giáo trình, tài liệu và đưa các chương trình đào tạo về KTTT,
HTX vào các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân; thực hiện công tác
quy hoạch và sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý, hiệu quả.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Vai trò của kinh tế tập thể, hợp
tác xã kiểu mới vẫn là xu hướng lựa chọn phát triển, đặc biệt là đối với cư dân
nông nghiệp, nông thôn; là phương thức để cư dân nông nghiệp, nông thôn thoát
nghèo và vươn lên làm giàu.
2. Tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong nông nghiệp, tăng cường đầu tư của nhà
nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho
kinh tế tập thể, trong đó hợp tác xã nông nghiệp là nòng cốt để thực hiện tái
cơ cấu ngành nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
3. Khuyến khích phát triển bền vững
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nòng cốt là hợp tác xã nông nghiệp với nhiều
hình thức liên kết, hợp tác đa dạng; nhân rộng các mô hình kinh tế hợp tác hiệu
quả; tạo điều kiện cho kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp phát triển có hiệu quả;
góp phần hình thành chuỗi giá trị trong nông nghiệp gắn sản xuất
với chế biến, tiêu thụ sản phẩm; bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham
gia; tạo điều kiện hình thành những mô hình liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp - hợp tác xã - nông dân gắn với
ứng dụng công nghệ cao.
4. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, nâng cao vai trò quản lý nhà nước trong tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả KTTT. Thực hiện các chính sách hỗ trợ KTTT của Nhà nước đã
ban hành; phát huy vai trò của Liên minh HTX, của Mặt trận Tổ quốc, của Hiệp
hội doanh nghiệp và các đoàn thể nhân dân trong việc vận động, tuyên truyền quần
chúng tham gia phát triển KTTT và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
III. MỤC TIÊU TỔNG
QUÁT
1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng nền kinh tế tập thể vững
mạnh, trong đó nhân tố chủ chốt là các HTX nông nghiệp và thương mại dịch vụ.
Khuyến khích tạo điều kiện thúc đẩy phát triển HTX nông nghiệp, đổi mới toàn diện
về tổ chức, hoạt động của các HTX đảm bảo đúng nguyên tắc. Kiên quyết thực hiện
giải thể đối với những HTX hiệu quả thấp, dừng hoạt động lâu ngày. Khắc phục
những hạn chế yếu kém của các HTX, phát triển đa dạng các loại hình HTX, gắn sự phát triển các HTX với
các chương trình, dự án trọng điểm như: Nông thôn mới, Chương trình “Mỗi xã,
phường một sản phẩm OCOP”, tái cơ cấu ngành nông nghiệp... Xây dựng mối liên
kết sản xuất chặt chẽ trong chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp; ứng dụng công
nghệ cao trong sản xuất, nâng cao năng lực thích ứng với những biến động của
thị trường trong điều kiện nền kinh tế mở, gia tăng giá trị sản phẩm nông sản
góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người
nông dân, đảm bảo an ninh trật tự, bảo vệ môi trường sinh thái.
Xây dựng và phát triển mô hình KTTT,
HTX nhanh và bền vững; phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế
và cải thiện đời sống thành viên; phát triển thành viên thông qua thu hút ngày
càng nhiều nhân dân,
hộ kinh tế cá thể và tổ
chức tham gia KTTT, HTX.
2. Các mục tiêu cụ thể
- Số lượng HTX thành lập mới bình quân
hàng năm 50-80 HTX, 15-20 THT được UBND xã, phường chứng thực hoạt động; riêng
HTX nông nghiệp mỗi năm có ít nhất 30 HTX thành lập mới; thu nhập HTX tăng gấp
1,5 lần so với năm 2020;
- Toàn tỉnh có 243 Tổ hợp tác;
- 10 liên hiệp hợp tác xã, trong đó:
05 Liên hiệp hợp tác xã thương mại, 3 liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp và 02
lĩnh vực khác;
- 750 hợp tác xã; trong đó có khoảng
530 Hợp tác xã nông - lâm - ngư nghiệp - tổng hợp, 10 Hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp, 20 Hợp tác xã xây dựng, 03 Hợp tác xã tín dụng, 97 Hợp tác xã
thương mại, 75 Hợp tác xã vận tải, 15 Hợp tác xã môi trường.
- Tốc độ tăng doanh thu hàng năm bình
quân đạt 10%.
- Phấn đấu năm 2025, mỗi huyện, thị
xã, thành phố có ít nhất từ 01 HTX dịch vụ tổng hợp điển hình hoạt động có hiệu
quả theo Luật HTX năm 2012 và làm điểm của Chương trình “Mỗi xã, phường một sản
phẩm” trong việc tổ chức sản xuất, bao tiêu sản phẩm, xây dựng thương hiệu địa
phương; đến năm 2025 có 70% HTX hoạt động có hiệu quả, trung bình 25%, yếu kém
dưới 5%;
- Số thành viên tham gia HTX, THT tăng
bình quân từ 5-7%/năm. Thu nhập bình quân của thành viên và người lao động
trong HTX, THT đến năm 2025 tăng 2-3 lần so với năm 2020.
- Hàng năm bồi dưỡng, đào tạo, tập
huấn 900-1.000 lượt cán bộ quản lý HTX và Tổ trưởng THT. Tỷ lệ cán bộ quản lý
HTX đã qua đào tạo trình độ đại học đạt khoảng 30% và trình độ trung cấp đạt
khoảng 70%.
- Kiện toàn tổ chức và hoạt động của
Ban Chỉ đạo phát triển KTTT các cấp để phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo các cấp
trong lĩnh vực KTTT.
- Đảm bảo 100% các Quỹ TDND cơ sở hoạt
động kinh doanh có lãi, 100% xếp loại khá, giỏi, không có Quỹ TDND cơ sở bị thu hồi giấy
phép kinh doanh; dư nợ cho vay tăng từ 12-15%/năm.
- Có ít nhất 04 mô hình Liên hiệp HTX
hoạt động hiệu quả.
- Tỷ trọng tổng sản phẩm của khu vực
kinh tế tập thể (Bao
gồm cả kinh tế của các thành viên) chiếm bình quân khoảng 1,2 - 1,3% GRDP cả
tỉnh.
IV. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT
TRIỂN KTTT GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
1. Định hướng chung
Để phát triển kinh tế tập thể, hợp tác
xã thì sản xuất theo chuỗi giá trị có ý nghĩa vô cùng to lớn, nhất là nước ta
đang hội nhập sâu rộng với quốc tế, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là xuất khẩu.
Do đó từng người dân hoặc HTX nhỏ lẻ không thể tự thực hiện được chuỗi sản xuất
và tiêu thụ ở thị trường quốc tế mà phải liên kết giữa các nông hộ dưới tổ chức
HTX và sau đó liên kết và kết nối với các doanh nghiệp thì mới có thể đủ năng
lực đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế và tăng giá trị cho chuỗi sản phẩm nông
nghiệp. Các loại hình sẽ phát triển đa dạng như: HTX kinh doanh tổng hợp cung
ứng dịch vụ; HTX chuyên ngành sản xuất, cung ứng dịch vụ gắn với chuỗi giá trị.
Phần lớn các HTX nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã có nhận thức đúng về mô
hình sản xuất gắn với chuỗi giá trị. Từ đó số lượng HTX sản xuất gắn với chuỗi
giá trị ngày càng tăng, đang dần trở thành phương thức tổ chức sản xuất phổ
biến để tăng trưởng quy mô, hiệu quả, phát triển bền vững ở khu vực nông
nghiệp.
2. Định hướng phát triển KTTT theo
ngành, lĩnh vực chủ yếu
- Đối với HTX nông nghiệp: Xây dựng và
phát triển các HTX nông nghiệp kiểu mới, ứng dụng khoa học, công nghệ cao gắn
với chuỗi giá trị bằng các chương trình kế hoạch hằng năm và dài hạn trong phát
triển HTX kiểu mới gắn với chuỗi giá trị. Bên cạnh tranh thủ các chương trình
hỗ trợ của Nhà nước sẽ đẩy mạnh huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân tự
xây mới hoặc nâng cấp cơ sở chế biến theo hướng công nghiệp, hiện đại. Áp dụng
công nghệ tiên tiến trong chế biến nhằm tăng dần tỷ trọng xuất khẩu hàng có giá
trị gia tăng cao, giảm tỷ trọng hàng sơ chế. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
- Đối với HTX dịch vụ: Phát triển cả
về số lượng và chất lượng; tập trung phát triển những HTX thương mại cung ứng
vật tư nông nghiệp, công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng thiết yếu cả ở địa bàn
thành thị và nông thôn, HTX trong lĩnh vực phân phối, bán lẻ với hình thức siêu
thị tự chọn.
- Các loại hình khác: Nâng cao năng
lực kinh doanh của các HTX, các thành viên, các hộ gia đình để có thể duy trì,
phát triển sản xuất kinh doanh, đủ sức cạnh tranh với thành phần kinh tế khác
đồng thời xây dựng và phát triển sản phẩm chủ lực của địa phương gắn với du
lịch.
V. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH
1. Tuyên
truyền nâng cao nhận thức về KTTT, HTX
- Tập trung giáo dục, đào tạo, tuyên
truyền nhằm thống nhất nhận thức cho toàn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng
viên và cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ Luật Hợp tác xã năm 2012, bản chất mô
hình HTX kiểu mới, hiểu rõ các giá trị và 7 nguyên tắc HTX, sự khác nhau giữa
HTX kiểu cũ và kiểu mới; vai trò và lợi ích của tổ chức HTX trong phát triển
nông nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội đất nước nói chung; tuyên truyền vị
trí, vai trò của KTTT, HTX đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt đối với nông
nghiệp, nông dân; củng cố niềm tin của thành viên, HTX thành viên, cộng đồng xã
hội về mô hình HTX kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
- Các cơ quan, UBND các huyện, thị xã,
thành phố kịp thời biểu dương, tôn vinh những HTX điển hình, tiên tiến; giới
thiệu các mô hình HTX hoạt động hiệu quả; phổ biến những kiến thức cơ bản và
tình hình phát triển HTX trên địa bàn Tỉnh.
- Tổ chức phong trào phát triển hợp
tác xã nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 371/QĐ-BNN
ngày 15/02/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và chỉ đạo của UBND tỉnh tại Văn bản
số 6101/UBND-NLN3 ngày 18/8/2017.
- Công tác tuyên truyền về Luật HTX và
các Nghị định của Chính phủ có liên quan cần được các cơ quan thông tin đại
chúng như Trung tâm truyền thông tỉnh Quảng Ninh phối hợp với các ngành, địa
phương có kế hoạch cụ thể để tuyên truyền kịp thời tới cơ sở và mọi người dân.
- Xây dựng và triển khai các chương
trình phối hợp để đưa công tác vận động, tuyên truyền vào nề nếp; cải tiến các
nội dung thông tin tuyên truyền, đa dạng hình thức tuyên truyền để phù hợp với
khả năng tiếp thu của từng đối tượng người nghe.
2. Hoàn thiện
khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách
Rà soát và hoàn thiện các chính sách
pháp luật liên quan đến KTTT, HTX. Quốc hội nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật
HTX cho phù hợp với tình hình thực tế hiện nay hoặc ban hành Luật HTX nông
nghiệp. Trước mắt đề nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành Nghị định về HTX nông
nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2012 nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, nâng
cao hiệu quả hoạt động các HTX nông nghiệp, đặc biệt khuyến khích các HTX tham
gia chặt chẽ trong chuỗi giá trị. Đồng thời, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện và tổ chức thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, đặc biệt
là chính sách về cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đất đai, tài chính
- tín dụng, khoa học - công nghệ và thị trường. Mặt khác, có chính sách hỗ trợ,
ưu đãi đối với tổ chức KTTT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và
đối tượng thành viên là nông dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, biển đảo.
3. Về nâng
cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTX gắn liền
với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát
triển HTX
- Kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu
quả hoạt động hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về KTTT từ Trung ương đến địa
phương, từ tỉnh đến huyện, thị xã; huy động cả hệ thống chính trị trong việc
phát triển KTTT, HTX; đưa phát triển KTTT, HTX là một trọng tâm công tác lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý nhà nước về HTX...
- Xây dựng chương trình đào tạo và có
đầu tư ngân sách cho đội ngũ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý HTX. Cụ thể ngân
sách tỉnh hỗ trợ kinh phí đào tạo Chủ tịch HĐQT, Giám đốc, kế toán trưởng,
trưởng ban kiểm soát. Các cán bộ HTX còn lại do ngân sách huyện, xã hỗ trợ đào
tạo.
- Thành lập và kiện toàn bộ máy quản
lý, bố trí thêm cán bộ chuyên trách có chức năng quản lý nhà nước đối với kinh
tế tập thể, HTX ở các cấp tỉnh, huyện.
- Tăng cường kiểm tra; giám sát việc
thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với kinh tế tập thể của cấp tỉnh đối
với Ủy ban nhân dân
cấp huyện; của Ủy ban nhân dân
cấp huyện đối với Ủy ban nhân dân
cấp xã; thực hiện tổng kết, đánh giá định kỳ và rút kinh nghiệm về quản lý nhà nước
đối với kinh tế tập thể.
- Nghiên cứu, quy định tiêu chuẩn khen
thưởng, lựa chọn và kiến nghị các hình thức khen thưởng tôn vinh các cá nhân và
tổ chức kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả, có nhiều thành tích xuất sắc về các
mặt kinh tế, văn hóa và xã hội.
4. Về nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh tế tập thể, HTX, xây dựng mô hình HTX hiệu quả và
tổng kết mô hình
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể, HTX hiện có theo Luật HTX năm 2012, trên cơ sở rà soát, củng
cố lại các HTX hiện có để thực hiện việc đánh giá phân loại một cách chính xác
các HTX, tổ hợp tác để xác định quy mô, vốn, lao động... làm cơ sở cho việc
tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức, củng cố lại hoạt động của
các hợp tác xã theo đúng bản chất hợp tác xã, Luật Hợp tác xã năm 2012 và các
văn bản hướng dẫn; phát huy
vai trò làm chủ của thành viên; vận động thành viên hợp tác xã góp vốn và nâng
mức vốn góp; vận động hợp tác xã thu hút thêm thành viên, hợp nhất, sáp nhập hợp
tác xã cùng ngành nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính và quy
mô hoạt động của hợp tác xã. Giải thể các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả,
hoạt động mang tính hình thức.
- Xây dựng và nhân rộng các mô hình
hợp tác xã kiểu mới, mỗi huyện, thị xã, thành phố lựa chọn từ 1-2 HTX để xây dựng
mô hình HTX điển hình, kinh doanh có hiệu quả; các mô hình HTX phải được xây
dựng theo đúng quy định của Luật HTX năm 2012; các mô hình này phải được đánh
giá, tổng kết, rút kinh nghiệm và nhân rộng, làm cơ sở cho các HTX tham quan
học tập, chia sẻ kinh nghiệm.
- UBND các địa phương tùy vào điều
kiện thực tế, điều kiện HTX trên địa bàn hỗ trợ xây dựng, phát triển mô hình
HTX điển hình về kinh doanh hiệu quả, phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương, đặc biệt là HTX tham gia hiệu quả vào Chương trình “Mỗi
xã, phường một sản phẩm” (OCOP) của Tỉnh; khuyến khích phát triển mô hình HTX
trong một số lĩnh vực như: HTX nông nghiệp gắn với thương mại, dịch vụ; HTX
sản xuất rau sạch; HTX vệ sinh môi trường; HTX khai thác thủy sản,...
- Giải thể các HTX chưa chuyển đổi
hoặc không có khả năng chuyển đổi, HTX cũ đã chuyển đổi nhưng không
hoạt động hoặc hoạt động hình thức.
5. Về huy động nguồn
lực xã hội để phát triển KTTT, HTX
Khuyến khích hỗ trợ các đoàn thể chính
trị xã hội, hội nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh tham gia thúc đẩy thành lập hợp tác
xã; Huy động và
cân đối các nguồn lực của địa phương đồng thời huy động các nguồn lực và sự hỗ
trợ của các cá nhân, các tổ chức quốc tế để thúc đẩy phát triển kinh tế tập
thể. Phát triển hợp tác quốc tế về KTTT, HTX qua đó tiếp thu kinh nghiệm tốt
của các nước, vùng lãnh thổ có phong trào HTX mạnh. Khuyến khích thu hút nguồn
nhân lực có trình độ chuyên ngành phù hợp với yêu cầu của HTX về làm việc lâu
dài tại HTX; tăng cường cán bộ nông nghiệp ở cơ sở có trình độ chuyên môn phù
hợp đến hỗ trợ kỹ thuật tại các HTX thí điểm.
6. Về phát huy mạnh
mẽ vai trò của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, hội, hiệp hội trong phát triển
KTTT
Tiếp tục phát huy vai trò và trách
nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc vận
động, giáo dục quần chúng, hội viên, thành viên tự nguyện tham gia phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
và thực hiện các quy định pháp luật về kinh tế tập thể; Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cần xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động, phối hợp với các tổ chức
thành viên trong việc phát triển KTTT.
7. Về tăng cường vai
trò, trách nhiệm và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Liên minh Hợp tác
xã Việt Nam
Đây là tổ chức đại diện cho quyền lợi
và lợi ích hợp pháp của các HTX và các thành viên. Vì vậy, Liên minh HTX cần
thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình trong việc chủ động đề xuất, tham
gia với Đảng, Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền địa phương trong
việc ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển KTTT. Đồng
thời, kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét giải quyết những khó khăn, vướng
mắc cho các HTX phát triển và bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, tư
vấn, đào tạo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên, hướng dẫn thành
viên hoạt động tuân thủ theo nguyên tắc của Luật HTX năm 2012 và các quy định
của pháp luật. Triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình của Liên minh
HTX Việt Nam, vận động thành lập HTX, đề xuất đề án, giải pháp bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của thành viên HTX.
Nơi nhận:
-
Bộ KHĐT (b/c);
- Liên minh HTX Việt Nam (b/c);
- TT Tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh (b/c);
- Đ/c CT UBND tỉnh (b/c);
- Các PCT UBND tỉnh (đ/b);
- Thành viên BCĐ phát triển KTTT tỉnh;
- UBND các huyện, tx, tp;
- V0, V2, V4, NLN1, 3, TM4;
- Lưu: VT, NLN3 (10b, KH04).
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Bùi Văn Khắng
|