VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số: 06/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 06
tháng 02 năm 2013
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG HOÀNG TRUNG HẢI TẠI HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN TRIỂN KHAI NHIỆM
VỤ NĂM 2013 NGÀNH TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
Ngày 22 tháng 01 năm 2013, Phó Thủ tướng Hoàng
Trung Hải tới dự Hội nghị trực tuyến triển khai nhiệm vụ năm 2013 ngành Tài
nguyên và Môi trường và sơ kết 01 năm thực hiện Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24
tháng 8 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường báo cáo, ý kiến phát biểu của lãnh đạo Ủy ban nhân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã kết luận như
sau:
I. Đánh giá chung tình hình thực
hiện nhiệm vụ năm 2012
Năm 2012, nền kinh tế nước ta nói chung và ngành
tài nguyên và môi trường nói riêng tiếp tục gặp nhiều khó khăn thách thức,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức
và người lao động, ngành tài nguyên và môi trường đã có những đóng góp quan trọng,
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, phục
vụ mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã
tích cực phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
cơ chế chính sách, pháp luật của 07 lĩnh vực, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, góp phần tạo dựng môi trường đầu tư,
phát triển sản xuất, kinh doanh thuận lợi, cụ thể là:
- Đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 7 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước làm căn cứ để Ban
chấp hành Trung ương khóa XI ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW; xây dựng Dự án Luật
đất đai (sửa đổi); lập quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia giai đoạn 2011-2020
và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015), trình Quốc hội xét duyệt;
- Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương đã
tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 1474/CT-TTg ngày 24 tháng 8
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ. Đến nay, cả nước đã cấp khoảng 34,5 triệu giấy
chứng nhận lần đầu với tổng diện tích 19,6 triệu ha, đạt 81% diện tích cần cấp
giấy chứng nhận của cả nước. Riêng năm 2012, đã cấp trên 4,4 triệu giấy, tăng
hơn hai lần so với kết quả 2 năm, 2010 và 2011; tiếp tục triển khai xây dựng cơ
sở dữ liệu đất đai tại 49 tỉnh, thành phố, 90 quận, huyện; một số tỉnh, huyện
đã cơ bản hoàn thành và đã đưa vào khai thác sử dụng, phát huy hiệu quả tích cực
cho quản lý đất đai, điển hình là các tỉnh, thành phố: Đồng Nai, An Giang (hoàn
thành trong toàn tỉnh), thành phố Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Nam Định, Hải Phòng,
Thừa Thiên Huế, Bình Thuận,...
- Xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật Tài
nguyên nước, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi
khí hậu, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 và Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi
trường; triển khai hiệu quả hoạt động hợp tác với Ủy ban sông Mê Công các quốc
gia thành viên trong Ủy hội sông Mê Công quốc tế;
Tích cực phối hợp với các cơ quan Trung ương và các
địa phương xây dựng Đề án “Chủ trương, giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi
khí hậu; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường” để trình Hội nghị
Trung ương 7 (khóa XI); công bố Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cập
nhật chi tiết cho Việt Nam; tập trung xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Đến hết năm 2012 có 370/439 cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng đã hoàn thành cơ bản biện pháp xử lý ô nhiễm triệt để, không còn gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đạt 84%.
- Xây dựng, trình các cơ quan ban hành văn bản
chính sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường;
triển khai thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 09 tháng 01 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động thăm
dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản. Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã tập trung giải quyết số hồ sơ tồn đọng trước ngày 01 tháng 7 năm 2011
(gồm 113 hồ sơ thăm dò và 60 hồ sơ khai thác). Trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 và phê duyệt 03 đề án: Đánh giá tiềm năng tài nguyên urani Việt Nam;
điều tra, đánh giá tổng thể tài nguyên than phần đất liền, bể Sông Hồng; điều
tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng núi Việt
Nam; báo cáo kết quả thực hiện giai đoạn 1, đang thi công giai đoạn 2 Đề án điều
tra, đánh giá tổng thể tiềm năng tài nguyên quặng bauxit, quặng sắt laterit miền
Nam Việt Nam;
- Rà soát, xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, chính sách quản lý tài nguyên, môi trường biển theo hướng phát
triển bền vững, phục vụ việc xây dựng Luật Tài nguyên và Môi trường biển, hải đảo;
xây dựng Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp dải ven bờ.
- Tập trung thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
trong các lĩnh vực của ngành tài nguyên và môi trường, phát hiện, xử lý nhiều vụ
việc, giải quyết cơ bản các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng kéo dài.
Tuy vậy, trong năm 2012 ngành tài nguyên và môi trường
vẫn còn một số tồn tại:
- Công tác quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn nhiều
hạn chế, nhất là trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, vướng mắc trong thu hồi
đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; việc sử dụng đất nhiều nơi còn lãng
phí, kém hiệu quả; tham nhũng, tiêu cực về đất đai còn lớn. Một số địa phương
chưa thực hiện đầy đủ các giải pháp theo Chỉ thị số 1474/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ, tiến độ cấp giấy chứng nhận chậm.
Tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh
vực đất đai vẫn phức tạp và chiếm tỷ lệ cao. Theo số liệu tổng hợp các năm gần
đây thì khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn chiếm khoảng 70% tổng số các vụ việc
khiếu nại, tố cáo trong cả nước; tình trạng kiếu kiện đông người vẫn tiếp diễn,
ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.
- Mặc dù được tự nhiên ưu đãi nguồn nước mặt, nước
ngầm khá phong phú, nhưng Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước phục
vụ sinh hoạt và sản xuất do gia tăng về ô nhiễm nguồn nước.
- Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn diễn
ra ở một số địa phương gây nên thất thoát tài nguyên quốc gia, gây ô nhiễm môi
trường, nhất là nguồn nước tại khu vực đầu nguồn của các sông, suối, ảnh hưởng
đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong khu vực cả trước mắt và lâu dài; một
số vụ khai thác khoáng sản trái phép chậm được phát hiện, xử lý gây bất bình
trong dư luận và nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính
sách, pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường tại
một số địa phương chưa được các cấp chính quyền, nhất là chính quyền cơ sở quan
tâm chỉ đạo, có địa phương còn biểu hiện buông lỏng quản lý.
- Một số địa phương chưa thực hiện nghiêm công tác
giám sát việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường theo báo cáo đánh giá tác động
môi trường được duyệt; việc đầu tư, chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, từ
các dự án phát triển và huy động các nguồn lực trong xã hội cho bảo vệ môi trường
còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
- Công tác đo đạc và bản đồ mới chỉ quan tâm chủ yếu
đến đo đạc bản đồ địa chính; các địa phương chưa chú trọng ban hành quy định quản
lý về hoạt động đo đạc, đặc biệt là đo đạc và bản đồ chuyên ngành.
II. Nhiệm vụ trọng tâm năm 2013
Để góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội năm 2013 theo tinh thần các Nghị quyết số 01/NQ-CP và
số 02/NQ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ, yêu cầu Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường
công tác chỉ đạo, có biện pháp cụ thể để khắc phục những mặt hạn chế nêu trên,
thực hiện tốt các nhiệm vụ đã nêu trong báo cáo, đồng thời, tập trung chỉ đạo
điều hành, triển khai có hiệu quả một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Về quản lý đất đai:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với
các bộ, ngành liên quan và các địa phương: Khẩn trương bổ sung hoàn chỉnh dự án
Luật đất đai (sửa đổi) theo thông báo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
thực hiện tốt Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Luật đất đai
(sửa đổi) theo Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng
Chính phủ. Khẩn trương trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số
69/2009/NĐ-CP nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của các địa phương trong thực hiện
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; chỉ đạo các địa phương rà soát và kiên quyết
thu hồi đất các dự án chậm đưa đất vào sử dụng theo đúng quy định của pháp luật;
- Phấn đấu hoàn thành cơ bản mục tiêu cấp giấy chứng
nhận lần đầu trong năm 2013 và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai theo Nghị quyết số
30/2012/QH12 của Quốc hội và Chỉ thị số 1474/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Để
hoàn thành nhiệm vụ này, yêu cầu:
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương cần đánh giá lại tình hình thực hiện, kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của các
tổ chức, cá nhân trong việc chậm triển khai, thực hiện không đầy đủ nội dung Chỉ
thị trong thời gian qua; tập trung chỉ đạo các ngành, các cấp phối hợp chặt chẽ,
thực hiện đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp theo Chỉ thị 1474/CT-TTg ; bố
trí đủ kinh phí để thực hiện nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận ở địa phương trong
năm 2013;
+ Trên cơ sở báo cáo kết quả sơ kết và kiến nghị của
các địa phương, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổng hợp, dự thảo Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ về tăng cường biện pháp thực hiện hoàn thành cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trong
năm 2013, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước ngày 08 tháng 02
năm 2013.
- Các Bộ: Tài chính, Xây dựng, Tư pháp rà soát các
quy định thuộc lĩnh vực quản lý có liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận để đề
xuất, sửa đổi, hướng dẫn giải quyết kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực
hiện.
- Các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa phương
cần tiếp tục quán triệt thực hiện có kết quả Thông báo số 130-TB/TW của Bộ
Chính trị, Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18 tháng 5 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ
về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo và Kế hoạch số 1130/KH-TTCP ngày 12 tháng 5 năm 2012 của Thanh tra Chính
phủ. Kịp thời triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 39/2012/QH13 của Quốc hội
về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật
trong giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành
chính về đất đai và quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực
hiện Nghị quyết.
Các cấp ủy Đảng, người đứng đầu cơ quan hành chính
nhà nước phải trực tiếp lãnh đạo công tác giải quyết đơn thư khiếu tố và tiếp
công dân nói chung và tiếp công dân, giải quyết đơn thư trong lĩnh vực đất đai
nói riêng, những vụ việc xảy ra ở cấp nào thì phải giải quyết dứt điểm ở cấp
đó.
2. Về tài nguyên nước: Trong năm
2013 và những năm tiếp theo, cần tăng cường công tác lập quy hoạch, kế hoạch
khai thác sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn nước, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc
gia; đẩy mạnh hơn nữa công tác điều tra, đánh giá đầy đủ tài nguyên nước, nâng
cao ý thức của cộng đồng trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước; đẩy mạnh
công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước;
nghiên cứu đề xuất hình thức tổ chức quản lý lưu vực sông (chi cục hoặc ban quản
lý) theo hướng phù hợp thẩm quyền, không trùng chéo, có hiệu quả;
Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động khai
thác sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, bảo đảm không gây ô nhiễm,
suy thoái, cạn kiệt nguồn nước. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với Ủy
ban sông Mê Công và các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế và
nghiên cứu tác động của thủy điện trên dòng chính sông Mê Công.
3. Về khoáng sản: Đẩy mạnh việc
triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến
lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TW. Tăng
cường đổi mới công tác quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản theo hướng
hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả và bền vững. Chấn chỉnh việc cấp giấy phép khai
thác tại địa phương; tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp khai thác khoáng sản
với công tác bảo vệ môi trường; rà soát các quy hoạch khoáng sản đã được phê
duyệt, đặc biệt là các quy hoạch đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt;
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm
trong quản lý, cấp phép và hoạt động khoáng sản trên cả nước, ngăn chặn tình trạng
khai thác khoáng sản trái phép.
4. Về Bảo vệ môi trường: Thực hiện
có hiệu quả Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030; triển khai có hiệu quả Nghị quyết của Chính phủ về những vấn đề cấp
bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục
ô nhiễm và cải thiện môi trường. Tiếp tục triển khai đồng bộ các chính sách và
thực hiện các biện pháp kiên quyết để có chuyển biến rõ nét về việc kiểm soát sự
gia tăng ô nhiễm môi trường nước, không khí; tập trung khắc phục ô nhiễm môi
trường làng nghề, khu, cụm công nghiệp, các đô thị, lưu vực sông, khu vực nông
thôn; nâng cao chất lượng công tác đánh giá tác động môi trường và đánh giá tác
động môi trường chiến lược, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện bảo vệ
môi trường của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Các địa phương cần cân đối, bố trí dành tối thiểu
1% tổng chi ngân sách địa phương cho sự nghiệp môi trường để giải quyết các vấn
đề môi trường bức xúc, xử lý các điểm nóng về môi trường, quan trắc, giám sát
chất lượng môi trường. Tăng cường công tác thanh kiểm tra môi trường trên địa
bàn, tập trung vào các khu công nghiệp, các điểm nóng môi trường, đặc biệt là
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa được chứng nhận hoàn thành xử
lý triệt để. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của
toàn xã hội về bảo vệ môi trường.
5. Về khí tượng thủy văn và biến đổi
khí hậu:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường cần chỉ đạo việc triển
khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả Chiến lược phát triển ngành khí tượng thủy
văn đến năm 2020. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác dự báo nhằm hạn chế đến
mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra, góp phần bảo vệ tính mạng và tài sản
của nhân dân.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện Đề án “Chủ trương,
giải pháp chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; đẩy mạnh công tác bảo vệ tài
nguyên, môi trường” trình Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa XI.
Tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu,
Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu (SP-RCC). Bổ sung hoàn thiện kế
hoạch hành động ứng phó với biến đối khí hậu và nước biển dâng. Thực hiện đầy đủ
cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu mà Việt Nam đã ký kết.
6. Về đo đạc và bản đồ: Bộ Tài
nguyên và Môi trường khẩn trương hoàn chỉnh sửa đổi, bổ sung Nghị định số
12/2002/NĐ-CP của Chính phủ về hoạt động đo đạc và bản đồ, trình Chính phủ phê
duyệt trong quý I năm 2013. Đẩy mạnh đo đạc lập bản đồ địa giới hành chính gắn
liền với việc xây dựng hồ sơ địa giới hành chính; hoàn thiện hệ thống chuẩn dữ
liệu nền thông tin địa lý phục vụ cho các mục đích sử dụng khác nhau. Từng bước
thực hiện xã hội hóa hoạt động về đo đạc và bản đồ.
7. Về quản lý biển và hải đảo:
- Rà soát, xây dựng hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật, chính sách quản lý tài nguyên, môi trường biển theo hướng phát
triển bền vững, phục vụ việc xây dựng Luật Tài nguyên và môi trường biển, hải đảo;
xây dựng Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp dải ven bờ.
- Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực quản lý tài
nguyên và môi trường biển; kiện toàn và tăng cường hướng dẫn chuyên môn, nghiệp
vụ quản lý biển, đảo để các chi cục biển và hải đảo tại các địa phương hoạt động
thực sự có hiệu quả. Từng bước hiện đại hóa công tác điều tra cơ bản tài nguyên
và môi trường biển để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế biển; xây dựng, chuẩn
hóa cơ sở dữ liệu về tài nguyên - môi trường biển, bảo đảm tính hệ thống, đồng
bộ, hiện đại, có độ tin cậy cao phục vụ cho việc xây dựng các định hướng, chủ
trương về phát triển kinh tế biển “tiến mạnh ra biển và làm chủ vùng biển”.
Tích cực phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, bảo
vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về
khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển, hải
đảo. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa, ứng phó, kiểm soát và khắc phục
hậu quả thiên tai, sự cố môi trường biển. Xây dựng, quảng bá thương hiệu biển
Việt Nam, nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia biển và hội nhập quốc tế của Việt
Nam trong quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững biển, hải đảo.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các cơ quan biết,
thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VPCP: BTCN, các Phó Chủ nhiệm, Trợ lý TTg, Cổng TTĐT, các Vụ: KTTH, KGVX,
NC, PL, V.I, V.III, TH;
- Lưu: VT, KTN (3).
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Hữu Vũ
|