NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT
THÁNG 7 NĂM 2025
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 18 tháng 02 năm
2025;
Căn cứ Nghị
định số 39/2022/NĐ-CP ngày 18 tháng 6 năm
2022 của Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Trên cơ sở
thảo luận của các Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại
Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật, tổ chức ngày 23 tháng 7 năm 2025,
QUYẾT NGHỊ:
Đảng và
Nhà nước đã xác định xây dựng thể chế là “đột phá của đột phá” nhằm mục tiêu
xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, chặt chẽ, toàn diện,
vừa phản ánh hiện thực khách quan, nguyện vọng của Nhân dân, vừa huy động mạnh
mẽ mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo lợi thế cạnh tranh cho quốc
gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đã đề ra cho
năm 2025. Để cụ thể hóa mục tiêu này, trong thời gian qua Chính phủ đã và đang
chỉ đạo các Bộ, cơ quan ở trung ương và các địa phương tập trung các nguồn lực
và quyết tâm chính trị cao nhất để chuyển đổi mạnh mẽ hơn từ tư duy quản lý
“xin - cho” sang tư duy kiến tạo, phục vụ Nhân dân và đẩy mạnh phân quyền, phân
cấp đi đôi với phân bổ nguồn lực, xây dựng công cụ kiểm tra, giám sát, “hậu kiểm”;
hoàn thiện các cơ chế, chính sách theo hướng bám sát thực tiễn, tôn trọng thực
tiễn, tháo gỡ các vướng mắc, bất cập do các quy định hiện hành; giảm gánh nặng
thủ tục hành chính, kiên quyết loại bỏ khâu trung gian, không hợp thức hóa các
hoạt động cấp phép của cấp dưới; tạo cơ sở pháp lý cho chính quyền địa phương
theo phương châm: “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”
và tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển
các lĩnh vực kinh tế, xã hội.
Tại Phiên
họp ngày 23 tháng 7 năm 2025, Chính phủ đã thảo luận, cho ý kiến về định hướng
chỉ đạo công tác xây dựng thể chế, pháp luật; Đề xuất của Chính phủ về Chương
trình lập pháp năm 2026 và 06 dự án luật, gồm: (1) Dự án Luật Hàng không dân dụng
Việt Nam (sửa đổi); (2) Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch
tư pháp; (3) Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma
túy (sửa đổi); (4) Dự án Luật Giáo dục đại học (sửa đổi); (5) Dự án Luật Giáo dục
nghề nghiệp (sửa đổi); (6) Dự án Luật Thương mại điện tử.
Chính phủ
quyết nghị về định hướng chỉ đạo công tác xây dựng thể chế, pháp luật, Đề xuất của
Chính phủ về Chương trình lập pháp năm 2026 và các dự án luật, cụ thể như sau:
I. Về định hướng chỉ đạo công tác xây dựng thể chế, pháp luật
Để đạt được
các mục tiêu của 06 tháng cuối năm 2025 và thời gian tiếp theo, Chính phủ yêu cầu
các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ tiếp tục chú trọng công tác
xây dựng thể chế, dành thời gian tập trung chỉ đạo, ưu tiên bố trí nguồn lực
cho công tác xây dựng pháp luật theo tinh thần của Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30 tháng 4 năm 2025 của Bộ Chính
trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó lưu ý các nội dung sau:
1. Các bộ,
cơ quan ngang bộ được giao chủ trì soạn thảo các dự án Luật khẩn trương xây dựng,
hoàn thiện hồ sơ các dự án luật, nghị quyết đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội điều
chỉnh bổ sung vào Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, bảo đảm chất lượng,
tiến độ theo quy định của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 2025.
2. Đối với
đề xuất xây dựng các luật, nghị quyết[1],
yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chỉ đạo: (1) Khẩn trương xây
dựng Tờ trình đề xuất việc bổ sung các dự án vào Chương trình lập pháp năm
2025, báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo đúng quy định;
chỉ đề xuất áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn trong trường hợp thực sự cần thiết
và đáp ứng điều kiện theo quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; (2) Khẩn trương tổ chức việc xây dựng,
hoàn thiện các dự án luật, trình Chính phủ trong tháng 8 năm 2025 để bảo đảm tiến
độ trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10.
3. Trong quá
trình xây dựng các dự án luật cần bám sát các chỉ đạo của Bộ Chính trị
và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2025 theo hướng yêu cầu đổi mới tư duy lập pháp, xây dựng luật ngắn gọn,
đúng thẩm quyền của Quốc hội; thực hiện nghiêm túc Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27 tháng 6 năm 2024 của Bộ Chính
trị về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây
dựng pháp luật; kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền đối với những vấn đề phát
sinh vượt thẩm quyền.
4. Các dự
án luật phải đảm bảo chất lượng, dễ hiểu, dễ áp dụng, luật hóa những vấn đề “đã
chín, đã rõ, được thực tế chứng minh là đúng, đa số đồng tình”; luật quy định
“khung” về những vấn đề mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ quy định những nội dung cụ thể phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các chính sách
mới. Quá trình xây dựng luật phải lắng nghe cầu thị, tiếp thu ý kiến của các
nhà khoa học, nhà chuyên môn, lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động; chủ động
phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội trong quá trình soạn
thảo.
5. Đối với
các dự án Luật sửa đổi, bổ sung, yêu cầu làm rõ các nội dung sau: (1) Nội dung
được sửa đổi, hoàn thiện, vì sao? (2) Nội dung được bổ sung mới, vì sao? (3) Nội
dung cần lược bỏ, vì sao? Nội dung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính,
vì sao? (4) Nội dung cụ thể được phân quyền, phân cấp, vì sao? (5) Các vấn đề
còn ý kiến khác nhau cần xin ý kiến Chính phủ xem xét, chỉ đạo.
6. Đối với
các dự án Luật đề xuất mới, yêu cầu cụ thể hóa, làm rõ: (1) Việc thể chế hóa chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước được thực hiện như thế nào?
(2) Vấn đề nào chưa được pháp luật quy định? (3) Vấn đề nào đã được quy định
nhưng chưa phù hợp? (4) Vướng mắc, bất cập từ thực tiễn cần xử lý là gì? (5) Nội
dung nào được cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính? (6) Nội dung nào thực
hiện phân quyền, phân cấp? (7) Các vấn đề còn ý kiến khác nhau cần báo cáo
Chính phủ xem xét, chỉ đạo.
II. Đề xuất của Chính phủ về Chương trình lập pháp năm 2026
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Tư pháp đã khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Thường trực
Chính phủ, chủ động phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ chỉnh lý, hoàn thiện
Đề xuất của Chính phủ về Chương trình lập pháp năm 2026 theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chính phủ cơ bản thống nhất dự thảo Đề xuất của Chính phủ về Chương trình lập
pháp năm 2026 do Bộ Tư pháp trình tại Tờ trình số 109/TTr-BTP ngày 19 tháng 7
năm 2025.
2. Giao Bộ
Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ nghiên cứu, tiếp thu ý
kiến Thành viên Chính phủ, rà soát kỹ, hoàn thiện Đề xuất của Chính phủ về
Chương trình lập pháp năm 2026, bảo đảm các yêu cầu sau:
- Việc đề
xuất xây dựng, ban hành các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội trong năm 2026 phải bảo đảm thể chế hóa kịp thời, đúng đắn,
đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng; đáp ứng yêu cầu hoàn thiện đồng bộ thể
chế phát triển, hướng đến mục tiêu vì con người, vì Nhân dân, tiếp tục đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo,
chuyển đổi số, bảo đảm quốc phòng, an ninh và yêu cầu phát triển đất nước
nhanh, bền vững.
- Xác định
thứ tự ưu tiên và thời điểm trình hợp lý của các luật, nghị quyết tại các Kỳ họp
của Quốc hội, tránh dồn quá nhiều vào một kỳ họp, bảo đảm chất lượng của các dự
án luật, nghị quyết. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ
thống nhất việc điều chỉnh thời gian trình đối với một số dự án luật từ Kỳ họp
thứ 3 (tháng 10/2026) sang Kỳ họp thứ 2 (tháng 5/2026) Quốc hội khóa XVI để bảo
đảm tính hợp lý về số lượng dự án luật trình tại các Kỳ họp của Quốc hội.
- Trường hợp
phát sinh yêu cầu cấp bách cần ban hành ngay luật, pháp lệnh nghị quyết thì khẩn
trương báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, bổ sung
vào Chương trình lập pháp năm 2025 hoặc áp dụng theo quy định tại Nghị quyết số
206/2025/QH15 ngày 24 tháng 6 năm 2025 của Quốc
hội về cơ chế đặc biệt xử lý khó khăn vướng mắc do quy định của pháp luật để
báo cáo Chính phủ ban hành Nghị quyết xử lý trong thời gian luật, pháp lệnh, nghị
quyết chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế.
3. Bộ Nông
nghiệp và Môi trường, Bộ Công an và các bộ, cơ quan ngang bộ rà soát kỹ phạm
vi, hình thức, văn bản nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung tại dự án một luật sửa
nhiều luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình cho phù hợp với chỉ đạo của
cấp có thẩm quyền, bảo đảm mối quan hệ tổng thể với luật gốc, tạo thuận lợi
trong quá trình xây dựng dự án luật và tổ chức thi hành luật sau khi được Quốc
hội thông qua.
4. Trên cơ sở
tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ,
cơ quan có liên quan hoàn thiện Đề xuất của Chính phủ về Chương trình lập pháp
năm 2026; giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt
Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ đối với Đề xuất của Chính phủ về Chương trình
lập pháp năm 2026 gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định.
5. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện Đề xuất của
Chính phủ về Chương trình lập pháp năm 2026.
III. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư
pháp
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Công an đã chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị, xây dựng dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp trình Chính phủ
theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, đã nghiêm túc tiếp thu và giải trình đầy đủ ý kiến của Thành
viên Chính phủ. Thống nhất sự cần thiết xây dựng dự án Luật theo hướng chuyển
nhiệm vụ quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp từ Bộ Tư pháp sang Bộ Công an; tăng
cường cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số, tinh gọn bộ máy, góp
phần thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước và phục vụ của người dân, doanh nghiệp
trong lĩnh vực lý lịch tư pháp.
2. Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện dự án Luật bảo đảm các yêu cầu sau:
- Chỉnh lý
nội dung dự thảo Luật theo ý kiến của Thành viên Chính phủ; thể chế hóa đầy đủ
các chủ trương của Đảng về công tác lý lịch tư pháp về sắp xếp tổ chức bộ máy
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; tạo đột phá về chính sách, quy trình thủ tục để đổi mới
toàn diện công tác lý lịch tư pháp.
- Ứng dụng
hiệu quả công nghệ trong quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hướng tới xây dựng,
quản lý, quản trị tập trung hệ thống cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, liên thông,
đồng bộ với hệ thống dữ liệu quốc gia về dân cư, khắc phục tình trạng phân tán
hiện nay.
- Quy định
trong dự thảo Luật cần bảo đảm tính minh bạch, tính kế thừa, khả thi, giải quyết
triệt để được các bất cập, tồn tại hiện nay và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước
về lý lịch tư pháp trong tình hình mới.
- Tăng cường
phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu; có cơ chế kiểm
tra, giám sát việc thực thi pháp luật. Quy định về thủ tục hành chính rõ ràng,
không làm tăng chi phí tuân thủ, không gây khó khăn, phiền hà cho người dân và
doanh nghiệp; cụ thể hóa tối đa chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về cải
cách thủ tục hành chính[2] trong
công tác lý lịch tư pháp.
- Các điều khoản
chuyển tiếp phải phù hợp với quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức, tránh tạo khoảng trống pháp lý sau khi Luật này có hiệu lực
thi hành.
- Về vấn đề
cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho pháp nhân thương mại, giao Bộ Công an tiếp tục
nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để xem xét cân nhắc cho
phù hợp với đặc điểm, tình hình của Việt Nam.
3. Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ
ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ để chỉnh lý,
hoàn thiện dự thảo Luật; giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng
Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XV.
IV. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống
ma túy
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Công an đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan
trong việc xây dựng, hoàn thiện dự án Luật Phòng, chống ma túy.
2. Chính phủ
thống nhất về sự cần thiết việc sửa đổi Luật phòng, chống ma túy sửa đổi nhằm
thể chế hóa các đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với công tác
phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Việc sửa đổi Luật hiện hành cần khắc
phục những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thi hành Luật phòng, chống ma túy, bảo đảm thể chế hóa những
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm phù hợp với Hiến
pháp năm 2013; hoàn thiện cơ sở pháp lý về trách nhiệm quản lý nhà nước của
các cơ quan, tổ chức về phòng, chống ma túy bảo đảm phù hợp với việc sắp xếp tổ
chức bộ máy của các bộ, ngành, địa phương; có cơ chế kiểm soát các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma túy, quản lý người sử dụng trái phép chất ma túy, cai
nghiện ma túy để phù hợp với tổ chức bộ máy mới và khắc phục những vướng mắc, bất
cập trong thực tiễn thi hành thời gian qua.
3. Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện dự thảo Luật theo hướng:
- Tiếp tục
rà soát, đánh giá kỹ tác động đối với các quy định, chính sách mới, bảo đảm bám
sát với chủ trương, quan điểm của Đảng[3];
xử lý, giải quyết các vướng mắc, bất cập đã được tổng kết thi hành Luật Phòng, chống ma túy năm 2021 cũng như các
ý kiến góp ý của các cơ quan, bộ ngành và đối tượng chịu sự tác động.
- Thể chế
hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện sắp xếp,
tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm đồng bộ với việc tiếp tục tăng cường, nâng cao
hiệu quả công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy.
- Tiếp tục
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013
về quyền con người, quyền công dân, phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của
hệ thống pháp luật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất của Luật trong hệ thống pháp luật.
- Kế thừa
các quy định còn phù hợp, khắc phục những khó khăn, vướng mắc của Luật Phòng, chống ma túy năm 2021, đáp ứng yêu
cầu thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật
liên quan đến ma túy; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế và thực
tiễn công tác phòng, chống ma túy của một số quốc gia trên thế giới bảo đảm phù
hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
- Nội dung
dự thảo Luật theo hướng quy định khung, mang tính nguyên tắc, chỉ quy định thuộc
thẩm quyền của Quốc hội; giao Chính phủ quy định về những nội dung cụ thể, chi
tiết, chuyên ngành; nghiên cứu sửa trực tiếp các luật khác có liên quan, rà
soát kỹ các điều khoản chuyển tiếp theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp của cá nhân, tổ chức, tránh khoảng trống pháp lý sau khi Luật
này có hiệu lực thi hành.
- Tăng cường
phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người đứng đầu, xác định rõ nội
dung quản lý nhà nước cho các chính quyền địa phương; cải cách triệt để thủ tục
hành chính và đẩy mạnh áp dụng công nghệ, chuyển đổi số trong công tác quản lý
nhà nước về công tác phòng, chống ma túy.
- Phối hợp
các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ nội dung sửa đổi, bổ sung, lược bỏ để phù
hợp với quy định về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, tổ chức chính
quyền địa phương 02 cấp; bảo đảm thống nhất, không chồng chéo với các văn bản
pháp luật có liên quan; cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương về phòng, chống ma túy
và cai nghiện ma túy tại các nghị quyết của Bộ Chính trị.
4. Bộ Công
an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ
ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ để chỉnh lý,
hoàn thiện dự thảo Luật; giao Bộ trưởng Bộ Công an thừa ủy quyền Thủ tướng
Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ
10, Quốc hội khóa XV.
5. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật, bảo
đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.
V. Dự án Luật Giáo dục đại học
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc chủ trì, phối hợp các bộ, cơ
quan liên quan rà soát, tổng kết, xây dựng trình Chính phủ dự án Luật Giáo dục
đại học.
2. Bộ Giáo
dục và Đào tạo tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp để hoàn thiện dự
thảo Luật theo hướng:
- Tiếp tục
rà soát kỹ các nội dung dự thảo luật, bảo đảm bám sát các Nghị quyết, Kết luận
của Đảng, tiến tới xây dựng hệ thống giáo dục đại học thực sự đóng vai trò chủ
đạo trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật về giáo dục đại học, sửa đổi các quy định
hiện hành còn bất cập; xây dựng hệ thống quản trị đại học tiên tiến, nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để hiện đại
hóa giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài gắn kết với phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; khuyến
khích đào tạo các ngành cơ bản, các ngành đào tạo đặc thù như: truyền nhiễm,
pháp y, văn hóa chuyên sâu đặc thù,..; tăng cường quyền tự chủ gắn với trách
nhiệm giải trình; phân cấp việc công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó
giáo sư trên cơ sở xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí, quy trình và tăng cường hậu
kiểm; nâng cao chất lượng, giảm số lượng các cơ sở giáo dục đại học, thích ứng
nhanh với sự phát triển của các ngành mới nổi; tăng cường hiệu lực kiểm định và
giám sát chất lượng, xây dựng môi trường học thuật liêm chính, sáng tạo trong
các cơ sở giáo dục đại học; tổ chức quản lý giáo dục đại học theo hướng: quản
lý chuyên môn từ trung ương đến cơ sở; giao cho địa phương quản lý con người và
cơ sở vật chất; Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục
đại học.
- Xây dựng
cơ chế thực thi chính sách bảo đảm khả thi, đồng bộ, gắn với nâng cao năng lực
quản trị của cơ sở giáo dục đại học; phát triển cơ sở dữ liệu số ngành giáo dục
đại học, chuẩn hóa chỉ số giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động,
làm căn cứ phân bổ nguồn lực, kiểm soát chất lượng và thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh.
- Tạo hành
lang pháp lý cho ứng dụng hiệu quả khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ số
và trí tuệ nhân tạo, các ngành khoa học cơ bản, kỹ thuật then chốt, công nghệ
chiến lược trong giáo dục đại học, cá thể hóa và nâng cao chất lượng, hiệu quả
quá trình học tập, mở rộng cơ hội học đại học cho người dân, thúc đẩy học tập
suốt đời.
- Bảo đảm
các chính sách của dự án Luật Giáo dục đại học thống nhất với các chính sách của
các dự án luật có liên quan, trong đó có dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp và dự
án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục; đồng thời rà soát để sửa
trực tiếp các luật khác có liên quan theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; phối
hợp các bộ, cơ quan liên quan rà soát kỹ dự thảo Luật bảo đảm không mâu thuẫn,
chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
- Hoàn thiện
các quy định theo hướng luật khung, mang tính nguyên tắc, chỉ quy định thuộc thẩm
quyền của Quốc hội, giao Chính phủ quy định về những nội dung cụ thể, chi tiết,
chuyên ngành; tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với đề cao trách nhiệm người
đứng đầu; cải cách triệt để thủ tục hành chính và đẩy mạnh áp dụng công nghệ,
chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước và công tác quản trị cơ sở giáo dục
đại học.
- Rà soát kỹ
các điều khoản chuyển tiếp để bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp của cá nhân, tổ chức, tránh tạo khoảng trống pháp lý
sau khi Luật này có hiệu lực thi hành.
- Tiếp tục
tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà chuyên môn, những người có kinh
nghiệm, các cá nhân, tổ chức có liên quan, đối tượng chịu tác động để hoàn thiện
các chính sách của dự thảo Luật; đẩy mạnh công tác truyền thông để tạo sự đồng
thuận; nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện dự thảo Luật; đồng thời, chủ
động phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, các Đại biểu Quốc hội trong quá
trình soạn thảo dự án Luật.
- Về vấn đề
bỏ hội đồng trường của các cơ sở giáo dục đại học công lập: nghiên cứu, cụ thể
hóa chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc bỏ hội đồng trường của
các cơ sở giáo dục đại học công lập (ngoại trừ các cơ sở giáo dục công lập được
thành lập theo điều ước quốc tế); đồng thời thiết kế quy định theo hướng giao
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; tăng cường sự
lãnh đạo toàn diện của cấp ủy đảng, phát huy vai trò, trách nhiệm người đứng đầu
cơ sở giáo dục, đào tạo.
3. Bộ Giáo
dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát, nghiên
cứu, giải trình, tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ
tướng Chính phủ để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, báo cáo Thủ tướng Chính
phủ trước khi trình Quốc hội dự án Luật Giáo dục đại học tại Kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XV.
4. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật, bảo
đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.
VI. Dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc chủ trì, phối hợp các bộ, cơ
quan liên quan rà soát, tổng kết, xây dựng trình Chính phủ dự án Luật Giáo dục
nghề nghiệp.
2. Chính phủ
cơ bản thống nhất nội dung dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp do Bộ Giáo dục và
Đào tạo trình tại Tờ trình số 1016/TTr-BGDĐT ngày 18 tháng 7 năm 2025. Nội dung
dự thảo Luật cơ bản phù hợp với các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Giáo
dục nghề nghiệp đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 191/NQ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2025 về Phiên họp
chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 6 năm 2025.
3. Bộ Giáo
dục và Đào tạo tiếp tục khẩn trương rà soát nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định
Bộ Tư pháp và ý kiến đóng góp để hoàn thiện dự thảo Luật, bảo đảm các yêu cầu
sau:
- Bám sát chủ
trương của Đảng về giáo dục và đào tạo[4]
nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quản trị nhà trường, vai trò của tổ
chức Đảng và hội đồng trường, tự chủ tài chính và xã hội hóa giáo dục và các nội
dung về giáo dục và đào tạo; bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, phù hợp
với các điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, thống nhất và không chồng chéo, mâu thuẫn với Luật Nhà giáo, Luật
Tổ chức Chính phủ, Luật Viên chức... và một
số luật có liên quan được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9 và dự thảo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (sửa
đổi).
- Trên cơ sở
tổng kết việc thực hiện các quy định của Luật hiện hành để sửa đổi các quy định,
bảo đảm phù hợp với thực tiễn, có tính khả thi, giải quyết các vướng mắc, “nút
thắt”, bất cập đã được chỉ ra khi tổng kết, đánh giá thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014; có cơ chế
khuyến khích đào tạo các ngành đào tạo đặc thù, các ngành văn hóa chuyên sâu đặc
thù; nâng cao chất lượng, thích ứng nhanh với sự phát triển của các ngành mới nổi;
bổ sung những vấn đề mới, cần thiết, cấp bách phát sinh trong thực tiễn để thúc
đẩy đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, tạo chuyển biến mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả của giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu của người học,
thị trường lao động và hội nhập quốc tế; góp phần nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và đáp ứng yêu cầu nhân lực cho phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
- Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
tổ chức và hoạt động giáo dục nghề nghiệp; quản lý chuyên môn thì từ trung ương
đến cơ sở; cơ sở giáo dục đào tạo ở đâu thì chính quyền cấp tỉnh quản lý cơ sở
vật chất và con người; các trường cao đẳng trên địa bàn nào thì giao địa phương
đó; tạo điều kiện để học sinh, sinh viên vừa học văn hóa vừa học chuyên môn tại
cơ sở giáo dục nghề nghiệp; giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
quy định chi tiết các nội dung theo thẩm quyền về thủ tục hành chính, quy
trình, quy chuẩn chuyên môn, kỹ thuật và các nội dung có tính biến động cao; Bộ
Giáo dục và Đào tạo tăng cường quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
- Chương trình
trung học nghề phải được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc
tế và chuẩn bị tốt các điều kiện để chương trình khi triển khai được hiệu quả,
phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
- Chính sách thu
hút doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp phải được
thiết kế theo hướng ưu đãi cao nhất để học đi đôi với hành, đáp ứng yêu cầu đặc
thù của giáo dục nghề nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực.
- Tiếp tục
tham vấn các chuyên gia, nhà khoa học, các nhà chuyên môn, những người có kinh
nghiệm, các cá nhân, tổ chức có liên quan, đối tượng chịu tác động để hoàn thiện
các chính sách của dự thảo Luật. Chủ động phối hợp với các cơ quan của Quốc hội,
các Đại biểu Quốc hội trong quá trình soạn thảo dự án Luật.
4. Bộ Giáo
dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp
thu đầy đủ ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ để
chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước khi trình
Quốc hội dự án Luật Giáo dục nghề nghiệp tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV.
5. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật, bảo
đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.
VII. Dự án Luật Thương mại điện tử
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Công Thương đã chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị, xây dựng
dự án Luật trình Chính phủ theo quy định của Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đã nghiêm túc tiếp thu, giải trình ý
kiến của Thành viên Chính phủ. Thống nhất về sự cần thiết xây dựng Luật Thương
mại điện tử nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số
theo chủ trương của Đảng và Nhà nước; khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực
tiễn về quản lý và thực thi thương mại điện tử.
2. Bộ Công
Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan tiếp tục nghiên cứu,
rà soát kỹ, hoàn thiện dự án Luật, bảo đảm yêu cầu sau:
- Nghiên cứu,
chỉnh lý nội dung của dự thảo Luật trên cơ sở tiếp thu ý kiến của Thành viên
Chính phủ và ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ, thể chế hóa đầy đủ các chủ
trương của Đảng và Nhà nước, nhất là về chủ trương phát triển kinh tế số, công
nghệ số.
- Quy định
trong dự thảo Luật bảo đảm theo hướng kiến tạo, phát triển thương mại điện tử;
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, những bất cập, tồn tại, hạn
chế của các quy định pháp luật hiện hành về thương mại điện tử; đáp ứng yêu cầu
quản lý nhà nước về chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng không
rõ nguồn gốc xuất xứ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, góp phần tăng cường quản
lý thuế, chống thất thu thuế.
- Tăng cường
phân cấp, phân quyền; phân bổ nguồn lực hợp lý; có công cụ giám sát, kiểm tra
các hoạt động thương mại điện tử; rà soát kỹ để cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục
hành chính trên môi trường điện tử, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp
kinh doanh theo đúng quy định pháp luật.
- Tham khảo
kinh nghiệm của các nước về quản lý thương mại điện tử; tiếp tục nghiên cứu, tiếp
thu ý kiến của các bộ, cơ quan, tổ chức có liên quan, đối tượng điều chỉnh của Luật,
bảo đảm rõ ràng về phạm vi điều chỉnh, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa
các cơ quan; rà soát nội dung dự thảo Luật bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật, không chồng chéo, trùng lắp với các luật liên quan.
3. Bộ Công
Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu đầy
đủ ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ để chỉnh lý,
hoàn thiện dự thảo Luật, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở đó, giao Bộ
trưởng Bộ Công Thương thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký
Tờ trình của Chính phủ trình Quốc hội dự án Luật Thương mại điện tử tại Kỳ họp
thứ 10, Quốc hội khóa XV.
4. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật, bảo
đảm chất lượng và tiến độ theo quy định.
VIII. Dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam
1. Chính phủ
đánh giá cao Bộ Xây dựng trong việc chủ trì, phối hợp các bộ, cơ quan liên quan
rà soát, tổng kết, xây dựng trình Chính phủ dự án Luật Hàng không dân dụng Việt
Nam (sửa đổi).
2. Chính phủ
cơ bản thống nhất nội dung dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi) do
Bộ Xây dựng trình tại Tờ trình số 70/TTr-BXD ngày 07 tháng 7 năm 2025, Tờ trình
(bổ sung) số 83/TTr-BXD ngày 21 tháng 7 năm 2025. Nội dung dự thảo Luật cơ bản
phù hợp với các chính sách trong đề nghị xây dựng Luật Hàng không dân dụng đã
được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 191/NQ-CP
ngày 26 tháng 6 năm 2025 về Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật tháng 6 năm
2025.
3. Bộ Xây
dựng tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp để hoàn thiện dự thảo Luật
theo quy định, trong đó lưu ý các nội dung:
- Rà soát dự
thảo Luật theo hướng chỉ quy định khung khổ pháp lý về những nội dung thuộc thẩm
quyền của Quốc hội; giao Chính phủ quy định những nội dung có tính biến động,
những nội dung về tổ chức, trình tự thực hiện, phân công nhiệm vụ giữa các cơ
quan; Bộ trưởng quy định tại Thông tư hướng dẫn.
- Nghiên cứu
bổ sung quy định giao Chính phủ quy định chi tiết thủ tục đầu tư các dự án cảng
hàng không, sân bay, trong đó, quy định cụ thể về thẩm quyền của các bộ, địa
phương về việc giao chủ đầu tư, chủ quản đầu tư để bảo đảm xử lý triệt để các
vướng mắc, thực hiện công khai, minh bạch, rõ thẩm quyền, phân cấp, phân quyền
tối đa.
- Đẩy mạnh
phân cấp, phân quyền triệt để cho bộ, ngành, địa phương theo hướng đối với công
việc cụ thể chỉ giao cho một bộ, ngành, địa phương xử lý.
- Các nội
dung liên quan đến hàng không, nếu có mâu thuẫn, không phù hợp với luật khác
thì thực hiện theo quy định của Luật Hàng không
dân dụng Việt Nam.
- Nghiên cứu
quy định về giá vé theo hướng phân cấp mức độ điều chỉnh do Chính phủ quyết định
và mức độ điều chỉnh do Bộ Tài chính quyết định; giao Bộ Tài chính đánh giá tài
sản nhà nước đã đầu tư, quyết định nội dung liên quan đến tài sản bảo đảm, giá
cả để tháo gỡ được các vướng mắc hiện tại; Chính phủ thực hiện công tác giám
sát, kiểm tra.
- Nghiên cứu
bổ sung quy định giải quyết vướng mắc trong việc định giá, xử lý phá dỡ các hạng
mục công trình đã tồn tại trong cảng hàng không, sân bay từ rất lâu, không còn
giá trị sử dụng và cũng không có cơ sở để định giá.
- Phân định
rõ sử dụng lưỡng dụng theo hướng Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được giao và chịu
trách nhiệm trước Chính phủ về khai thác sân bay thuộc thẩm quyền quản lý.
- Về quy định
quản lý các phương tiện bay không người lái: giao Bộ Xây dựng quy định đối với
các thiết bị liên quan đến dân sự, Bộ Quốc phòng quy định đối với các thiết bị
liên quan đến quân sự an ninh, quốc phòng.
- Nghiên cứu
quy định giao Bộ Xây dựng có trách nhiệm toàn diện trong xử lý các vấn đề về bảo
đảm an toàn cho tàu bay, tổ bay, hành khách, hành lý, hàng hóa trong tàu bay.
- Nghiên cứu
không quy định việc doanh nghiệp cảng hàng không tổ chức đầu tư cảng hàng không
tại điểm a khoản 3 Điều 31 dự thảo Luật để sửa đổi theo hướng bảo đảm mọi doanh
nghiệp được bình đẳng đầu tư cảng hàng không, tạo điều kiện thu hút tối đa các
nguồn lực của doanh nghiệp tham gia đầu tư cảng hàng không, sân bay; doanh nghiệp
được giao đầu tư xây dựng cảng hàng không phải thực hiện đầu tư đồng bộ theo
quy hoạch được duyệt, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quy định của pháp luật
có liên quan; nghiên cứu quy định mang tính nguyên tắc các nội dung liên quan đến
đầu tư mở rộng, cải tạo, nâng cấp cảng hàng không theo hướng doanh nghiệp, nhà
đầu tư được giao làm chủ đầu tư phải thực hiện đầu tư mở rộng, cải tạo nâng cấp
theo đúng chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư được cấp thẩm quyền chấp thuận,
phê duyệt hoặc hợp đồng PPP; trường hợp không thực hiện hoặc không đủ năng lực
để thực hiện thì Nhà nước quyết định theo quy định của pháp luật; giao Chính phủ
quy định chi tiết từ khoản 2 đến khoản 7 Điều 31 dự thảo Luật.
- Rà soát kỹ
các quy định của dự thảo Luật để bảo đảm tuân thủ và thực hiện các cam kết quốc
tế, đồng thời, vận dụng tối đa, hiệu quả nhất.
4. Bộ Xây
dựng chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương; nghiên cứu,
tiếp thu ý kiến Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ; chỉnh
lý, hoàn thiện hồ sơ dự án Luật Hàng không dân dụng theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
giao Bộ trưởng Bộ Xây dựng thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ
ký trình Quốc hội dự án Luật Hàng không dân dụng Việt Nam tại Kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XV.
5. Phân công Phó
Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chỉ đạo việc hoàn thiện dự án Luật.
IX. Về việc báo cáo Chính phủ theo Khoản
4 Điều 3 Quy chế làm việc của Chính phủ
Thực hiện
Quy chế làm việc của Chính phủ, tại Phiên họp Chính phủ, Bộ Tư pháp đã báo cáo
Chính phủ về các nội dung: (1) Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam; (2) Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị
quyết về cơ chế đặc biệt tháo gỡ khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật;
(3) Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (4)
Chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý
vi phạm hành chính./.
|
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- TTgCP, các PTTgCP;
- Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc CP;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Quốc hội;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg; TGĐ Cổng TTĐT các Vụ, Cục;
- Lưu: VT, PL (3b). ĐTPH
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Phạm Minh Chính
|