ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 39/BC-UBND
|
Thành
phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 02 năm 2013
|
BÁO CÁO
TỔNG KẾT 10 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 161/2003/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ VỀ
QUY CHẾ KHU VỰC BIÊN GIỚI BIỂN
Căn cứ Công văn số 4675/VPCP-NC ngày
27 tháng 6 năm 2012 của Văn phòng Chính phủ về Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định
số 161/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về Quy chế khu vực
biên giới biển.
Căn cứ Công văn số 2375/BQP-TM ngày
09 tháng 8 năm 2012 của Bộ Quốc phòng về Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số
161/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về Quy chế khu vực biên
giới biển.
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh
báo báo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP của Chính phủ
trên địa bàn thành phố như sau:
I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH
HÌNH
1. Tình hình
chung
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc
biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ, đầu mối giao
lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn
của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí quan trọng của cả nước. Kinh tế
liên tục tăng trưởng cao; văn hóa, xã hội có bước tiến tích cực. Chất lượng
công tác quy hoạch được nâng lên; đầu tư kết cấu hạ tầng, di dời hệ thống cảng
biển đạt hiệu quả tích cực.
Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt
động ngày càng hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ có nhiều
tiến bộ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền chuyển biến
tích cực và hiệu quả tốt hơn. Nội dung và phương pháp hoạt động của Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới, tạo môi
trường thuận lợi để phát triển thành phố. An ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường; cải cách tư pháp có
nhiều chuyển biến tích cực; tình hình tham nhũng, lãng phí từng bước được ngăn
chặn. Quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng, tạo môi
trường thuận lợi để phát triển thành phố.
Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 02 của
Bộ Chính trị, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về chiến lược bảo vệ Tổ quốc; Nghị
quyết số 28/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa X; Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 03 tháng 10
năm 2011 của Ban Chấp hành Trung ương. Đảng bộ Thành phố có Nghị quyết chuyên đề
về Quốc phòng- An ninh, quán triệt và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật
có liên quan đến Nghị định số 161/2003/NĐ-CP ; định hướng chỉ đạo các cơ quan chức
năng ban hành các văn bản pháp lý để các cấp, các ngành tổ chức thực hiện, tăng
cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên, lực lượng vũ trang nâng cao nhận thức rõ
về hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị và toàn dân nhằm củng cố nền Quốc phòng - An ninh.
Cấp ủy, chính quyền và nhân dân thành
phố nói chung, quân dân huyện biển Cần Giờ nói riêng có truyền thống cách mạng,
kiên cường, anh dũng trong chiến tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước;
có lòng yêu nước và ý chí quyết tâm cao trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất
là bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền các vùng biển, đảo của nước ta. Trong những
năm qua, cấp ủy đảng, chính quyền địa phương đã phát huy được sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng, các ngành, các cấp và toàn dân trong bảo vệ vùng biển của
Thành phố. Tuy nhiên công tác bảo vệ chủ quyền vùng biển, giữ gìn an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội trên khu vực biên giới biển còn đặt ra nhiều vấn đề
cần tiếp tục được giải quyết trong thời gian tới, đòi hỏi phải phát huy được sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các cấp các ngành và các lực lượng
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Tình hình Kinh tế - xã hội gắn với Quốc phòng - an ninh.
Thành phố đã triển khai nhiều dự án ở
khu vực biên giới biển, trong đó tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, dự
án lấn biển chống sạt lở, ngăn nước mặn triều cường, khu vực neo đậu cho tàu
thuyền trú tránh bão; tăng cường áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại
trong quản lý, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế - xã hội của thành phố.
- Trong những năm qua kinh tế - xã hội
ổn định, quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố và giữ vững, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị, an
ninh nông thôn, hoạt động tôn giáo vẫn còn tiềm ẩn những bất trắc khó lường.
Không loại trừ khả năng bọn tình báo, gián điệp vào khu vực biên giới biển để
lôi kéo, móc nối với các phản động trong nước tiến hành tuyên truyền, kích động
gây mất ổn định an ninh chính trị trong khu vực biển Cần Giờ. Hiện tượng khai
thác tài nguyên, môi trường, khoáng sản vẫn còn xảy ra tương đối phức tạp, ảnh
hưởng đến đời sống của nhân dân trong khu vực biên giới biển
Nhân dân sinh sống trong khu vực biên
giới biển chủ yếu làm nông nghiệp và nuôi trồng, khai thác, chế biến thủy sản.
Cư dân ở các địa phương khác đến làm ăn, sinh sống ngày càng nhiều. Bên cạnh đó
những biến động của nền kinh tế thế giới và khu vực đã tác động trực tiếp đến đời
sống kinh tế chung của đất nước, Thành phố và của nhân dân trong khu vực biên
giới biển, cảng biển; nhất là sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản,
hàng hóa, giá cả không ổn định, làm dịch vụ kinh doanh... du lịch, các loại cây
trồng vật nuôi, từ đó kéo theo tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật ngày
càng tăng.
Thực hiện theo chỉ đạo của Ủy ban
nhân dân thành phố, các Sở - ngành liên quan đang phối hợp với huyện Cần Giờ rà
soát lại quy hoạch các vùng sản xuất; Chương trình xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2012; quy hoạch vùng nuôi nhuyễn thể; quy hoạch vùng nuôi thủy sản
lồng bè. Đến nay trên địa bàn huyện Cần Giờ đã xây dựng 33 công trình hạ tầng
phục vụ sản xuất nuôi trồng thủy sản, nghề muối và nông thôn mới với tổng vốn đầu
tư trên 95 tỷ đồng; 50 dự án phòng, chống lụt bão, sạt lở bờ sông, biển với tổng
vốn đầu tư trên 190 tỷ đồng; hình thành khu thuần dưỡng giống thủy sản Rạch Lá,
kêu gọi đầu tư 02 trại sản xuất giống tại địa bàn xã Long Hòa.
Công tác quản lý, bảo vệ môi trường,
tài nguyên thiên nhiên rừng ngập mặn tiếp tục được đầu tư và đạt kết quả tốt. Cảnh
quan hệ sinh thái rừng ngập mặn được bảo tồn, phát triển theo hướng bền vững,
đa dạng. Thương hiệu du lịch biển 30/4 và du lịch sinh thái Cần Giờ được quảng
bá ngày càng rộng rãi, lượng khách đến tham quan ngày càng tăng. Trong
những năm qua, huyện biển Cần Giờ đã thu hút được khoảng hơn 2 triệu lượt khách
đến tham quan, nghỉ dưỡng, nghiên cứu khoa học, tổ chức hội nghị, trong đó,
khách nước ngoài chiếm khoảng 10% (chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Mỹ,
Đức…).
- Thu hút được 26 nhà đầu tư đăng ký
thực hiện 27 dự án đầu tư các khu vui chơi, giải trí và điểm du lịch trải đều
trên địa bàn huyện với tổng diện tích dự kiến thực hiện khoảng 3.330 ha, trong
đó có 07 dự án hoàn thành đưa vào hoạt động với tổng mức đầu tư 208 tỷ đồng;
Ngoài ra từ năm 2009, Lễ hội Nghinh ông Cần Giờ đã được Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch giới thiệu ra cả nước và nước ngoài (qua cuốn sự kiện và lễ hội thành
phố Hồ Chí Minh).
Thực hiện tốt: đề án “Bảo tồn, nâng cấp
rừng ngập mặn”; phương án “Tổ chức, quản lý sử dụng bền vững rừng ngập mặn Cần
Giờ đến 2015, tầm nhìn đến năm 2020”; đề án “Phát triển bền vững rừng phòng hộ
môi trường Cần Giờ - thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
- Thực hiện các
chương trình để phù hợp cho việc phát triển kinh tế chung của thành phố, đáp ứng
được nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là khu vực huyện biển Cần
Giờ. Đây cũng là khu vực quan trọng góp phần vào kế hoạch phòng thủ chung của
thành phố và Quân khu 7. Tiếp tục xây dựng các tổ đội tàu thuyền tham gia vào bảo
vệ khu vực biên giới biển, sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi được tổ chức yêu cầu. Thực
hiện Nghị định số 30/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2010 về huy động nhân lực
tàu thuyền tham gia bảo vệ biên giới, cho đến nay đã huy động được 12 phương tiện
với hơn 100 ngư dân tham gia. Khu vực dân cư từng bước được quy hoạch phù hợp với
yêu cầu xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới biển, đồng thời đã tạo điều kiện
để nhân dân mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh, đánh bắt, nuôi trồng thủy
hải sản. Kinh tế-xã hội phát triển đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, đây
cũng là điều kiện thuận lợi để nâng cao kiến thức hiểu biết pháp luật về quản
lý, bảo vệ biên giới.
3. Tình hình hoạt động của người, phương tiện tàu thuyền.
Thành phố Hồ Chí Minh có bờ biển
chính diện 23,5 km, phía Đông Bắc tiếp giáp với tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, phía Tây
Nam tiếp giáp với tỉnh Tiền Giang, có vùng nội thủy sâu từ bờ ra đến đường biên
giới trên biển là 110 hải lý (205,4km); tạo thành diện tích biển khoảng 4.826,9
km2; Huyện biển Cần Giờ có tổng diện tích tự nhiên toàn huyện là
70.421ha, trong đó có trên 70% diện tích là rừng ngập mặn. Hiện tại trên địa
bàn thành phố có 1.746 tàu thuyền đánh bắt thủy sản, tập trung chủ yếu ở huyện
Cần Giờ, trong đó có 136 chiếu tàu công suất trên 90 CV; còn lại tàu có công suất
20 CV - 90 CV. Hàng ngày, trên vùng biển thành phố có khoảng 380 phương tiện/
985 người hoạt động đánh bắt thủy sản, 14 lượt chuyến đò chở khách đi các tỉnh
lân cận, 65 phương tiện vận tải biển; 26 tàu xuất nhập cảnh qua cảng biển thành
phố Hồ Chí Minh, hành trình theo luồng hàng hải sông Lòng Tàu và sông Soài Rạp.
Bên cạnh đó, khu vực biên giới biển thành phố cũng thường xuyên bị ảnh hưởng nặng
nề của thiên tai, bão lụt, biến đổi khí hậu, triều cường ven biển, ven cửa
sông.
Các loại tàu thuyền ra vào khu vực cảng
biển và biên giới biển cơ bản chấp hành nghiêm Nghị định số 161/2003/NĐ-CP về
Quy chế khu vực biên giới biển và các quy định của pháp luật. Song vẫn còn nhiều
phương tiện tàu thuyền vi phạm Quy chế khu vực biên giới, vi phạm lĩnh vực hoạt
động thủy sản, vi phạm khai thác tài nguyên khoáng sản, vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, vi phạm trong lĩnh vực hàng hải.
Các lực lượng chức năng đã tăng cường phối hợp tuần tra, kiểm tra, kiểm soát và
tiến hành xử lý nghiêm các vụ vi phạm quy chế khu vực trên biển và biên giới biển.
Đã tổ chức tuần tra 282 đợt/2.326 CBCS (cán bộ chiến sỹ); kiểm tra 260 tàu thuyền
đánh bắt hải sản trong khu vực. Nhìn chung, các tàu thuyền đánh bắt thủy, hải sản
đều chấp hành tốt các thủ tục theo quy định của nhà nước như: đăng ký giấy chứng
nhận tàu thuyền, giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật theo quy định, sổ danh bạ
thuyền viên… Ngoài ra còn tiến hành kiểm tra việc khai thác, trục vớt tài sản,
đồ vật khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
Khu vực neo đậu tàu thuyền (Thiềng Liềng,
Sông Ngã bảy) chủ yếu là các tàu trọng tải lớn neo đậu (trên 4 vạn tấn) là khu
vực chuyển tải hàng hóa đi vào thành phố qua cảng biển và các tỉnh lân cận. Người
nước ngoài chủ yếu làm việc trên các tàu, không tổ chức đi bờ do nằm xa khu vực
đất liền. Người dân chủ yếu hoạt động ra vào làm ăn, sinh sống, khai thác, đánh
bắt thủy hải sản trên biển, trên các cồn bãi ven biển và hoạt động nuôi trồng khai
thác, vận chuyển thủy hải sản của người dân trên địa bàn. Người dân từ các địa
phương khác đến khu vực biên giới biển như khai thác, thăm dò các bãi nuôi
nghêu, sò.. đến khu vực hoạt động nên dễ vi phạm pháp luật, cư trú bất hợp pháp
gây nên tình trạng phức tạp về an ninh trật tự. Các lực
lượng đã phối hợp tuần tra trên sông, biển và các tuyến đường bộ, ven biển nhằm
đảm bảo tốt an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
4. Vai trò của cấp
ủy Đảng, chính quyền địa phương và các ngành, các lực lượng trong quản lý bảo vệ
biên giới biển.
Quán triệt quan điểm của Đảng, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Biên giới quốc gia. Nhận thức
rõ vai trò, vị trí tầm quan trọng của khu vực biên giới biển có vị trí chiến lược
về Quốc phòng - an ninh. Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố kịp thời chỉ đạo
xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8
(khóa IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết số
28/NQ-TW ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình
hình mới; Nghị định số 152/2007/NĐ-CP ngày 10 năm 10 năm 2007 của Chính phủ về
khu vực phòng thủ; Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan,
ban ngành, đoàn thể, các lực lượng thực hiện tốt Luật biên giới Quốc gia, Công
ước Quốc tế Luật biển năm 1982, Nghị định số 161/2003/NĐ-CP và các văn bản pháp
luật có liên quan về biển, đảo...
Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch,
nghị quyết của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố về phát triển kinh tế - xã hội
gắn với Quốc phòng - an ninh. Nêu cao vai trò trách nhiệm của các địa phương và
các lực lượng trú đóng trên địa bàn biên giới, đặc biệt vai trò nhiệm vụ của lực
lượng chủ trì, nòng cốt, chuyên trách trong quản lý bảo vệ biên giới (Bộ đội
Biên phòng), đã được Luật Biên giới Quốc gia, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng, Nghị
định số 161/2003/NĐ-CP quy định. Phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành
các hoạt động tuần tra, kiểm tra, kiểm soát người, phương tiện tàu thuyền qua lại,
ra vào hoạt động trên biển và khu vực biên giới biển. Bảo đảm giữ vững ổn định
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên phạm vi, địa bàn phụ trách.
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, các địa phương, sở ban ngành,
các lực lượng, không ngừng củng cố kiện toàn tổ chức, xây dựng vững mạnh toàn
diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, trình độ chuyên môn, nâng cao khả năng sẵn
sàng chiến đấu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, thể hiện được vai trò nòng cốt, chuyên
trách bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự ở khu vực biên giới biển, cửa khẩu cảng.
Phát huy tốt vai trò tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố trong
công tác xây dựng khu vực phòng thủ, củng cố xây dựng thế trận biên phòng toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân, và thực hiện nhiệm vụ phòng chống lụt bão, giảm
nhẹ thiên tai. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ quản lý, bảo vệ chủ
quyền biên giới biển, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
5. Thuận lợi, khó
khăn.
a) Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Thành ủy, Ủy
ban nhân dân thành phố luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng tổ
chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP và Thông tư số
89/TT-BQP về hướng dẫn thực hiện Nghị định 161/2003/NĐ-CP và các văn bản pháp
luật khác có liên quan; đã từng bước đi vào cuộc sống của các tầng lớp nhân
dân, các tổ chức chính trị xã hội, góp phần quan trọng trong việc tổ chức thực
hiện nhiệm vụ công tác quốc phòng ở khu vực biên giới biển, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ Quốc phòng - an ninh trong tình hình mới, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc
tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc thành phố trong mọi tình huống.
- Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
thành phố đã phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ, năng
động, sáng tạo, vượt qua nhiều khó khăn thử thách, đạt được những thành tựu to
lớn trên tất cả các lĩnh vực Chính trị, Kinh tế, Văn hóa - Xã hội, Quốc phòng -
an ninh; thành phố luôn giữ vững ổn định chính trị, xã hội kể cả trong thời điểm
tình hình trong nước có nhiều khó khăn và thế giới có những diễn biến phức tạp,
đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chung của đất nước, bảo vệ và
khẳng định những thành công của công cuộc đổi mới; thành phố có những đóng góp
rất quan trọng trong việc hình thành phát triển đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước như phát triển kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế.
- Các cơ quan chức năng từ thành phố
đến cơ sở đã phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động làm tốt vai trò tham
mưu giúp cấp ủy đảng, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn,
tổ chức thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi
hành, hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao, xây dựng các lực lượng bảo đảm
đủ số lượng, nâng cao chất lượng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, tạo
được lòng tin đối với Đảng, chính quyền và nhân dân thành phố. Nhất là trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ biên giới biển, cảng biển trong đó Bộ đội biên phòng là nòng
cốt, chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ
trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
b) Khó khăn:
- Thành phố là địa bàn rất nhạy cảm về
chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, là trọng điểm chống
phá của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật
đổ với chiêu bài “dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền”. Chúng âm mưu tạo dựng
ngọn cờ, kết hợp móc nối chặt chẽ với bọn phản động lưu vong nước ngoài; tăng
cường chiến tranh tâm lý, gián điệp, tung tin chống phá đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước ta, kết hợp dùng kinh tế để từng bước chuyển hóa chính trị, lợi
dụng một bộ phận nhân dân khiếu kiện, để kích động, tạo điểm nóng gây mất ổn định.
- Công tác quán triệt, tổ chức và triển
khai thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP đã có bước chuyển biến tích cực
trong việc xây dựng và thực hiện quy chế, song chưa thực sự đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong từng giai đoạn và lâu dài, tính khả thi chưa cao, nảy sinh những
bất cập, vướng mắc, còn có sự chồng chéo trong việc thực thi nhiệm vụ giữa các
cơ quan chức năng.
II. KẾT QUẢ VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ RÚT RA QUA 10 NĂM TRIỂN KHAI THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH
1. Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP và các văn bản văn bản
pháp luật có liên quan.
Trên cơ sở thực hiện các Nghị quyết,
Chỉ thị, Chương trình hành động Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố tiếp tục
triển khai thực hiện Công ước quốc tế Luật Biển năm 1982; Luật Biên giới quốc
gia; Nghị định số 161/2003/NNĐ-CP và Thông tư số 89/TT-BQP. Thành ủy, Ủy ban
nhân dân thành phố tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, chính
quyền địa phương triển khai thực hiện các văn bản trên. Xác định vai trò của địa
phương, các lực lượng trong điều hành, tổ chức quản lý nhà nước ở khu vực biên
giới biển, đồng thời thể hiện sự quan tâm sâu sắc của chính quyền địa phương đối
với công tác bảo vệ chủ quyền, an ninh trật tự, đấu tranh ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật, vi phạm quy chế và những hoạt động làm phương hại đến chủ
quyền biển, đảo.
Tích cực chỉ đạo các địa phương, các
cấp, các ngành, các lực lượng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin,
tuyên truyền, duy trì thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên biển, quản lý cửa khẩu cảng; duy trì, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới biển đã làm chuyển biến tích cực
trong nhận thức hành động và trách nhiệm của tổ chức và quần chúng nhân dân đối
với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ biên giới quốc gia.
2. Công tác
tuyên truyền, giáo dục nâng cao kiến thức về chủ quyền biển, đảo và ý thức pháp
luật liên quan đến thực hiện quy chế khu vực biên giới biển.
Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật
thành phố hàng năm đều tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành kế hoạch,
triển khai công tác phổ biến giáo dục pháp luật trên địa bàn thành phố, trong
đó có công tác phổ biến tuyên truyền Công ước Quốc Tế Luật biển năm 1982, Luật
Biên giới quốc gia, Nghị định số 161/2003/NĐ-CP , nhằm nâng cao trách nhiệm
nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức đơn vị, lực lượng vũ trang, cấp ủy chính quyền
địa phương và các tầng lớp nhân dân tham gia giữ gìn an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Công tác tuyên truyền, giáo dục về Quy chế biên giới biển và
các văn bản hướng dẫn thi hành được triển khai sâu rộng, tiến hành thường xuyên
liên tục cho các đối tượng và thành phần trong xã hội, thông qua cuộc tuyên
truyền vận động: Xác định 04 biện pháp tuyên truyền chủ yếu: Tuyên truyền bằng
trực quan (biển, bảng, pa nô áp phích, khẩu hiệu...; tuyên truyền qua thông tin
đại chúng; tuyên truyền nhỏ lẻ; tuyên truyền tập trung (họp tổ dân phố, họp mặt
ôn truyền thống...). Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã góp
phần đề cao ý thức trách nhiệm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của
nhân dân thành phố về vị trí chiến lược, cũng như tầm quan trọng của biển, đảo,
qua đó góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế biển gắn với củng cố
an ninh, quốc phòng, giữ vững chủ quyền biên giới biển trên địa bàn Thành phố.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Ủy ban
nhân dân thành phố chỉ đạo các địa phương, sở ngành, các lực lượng đã phối hợp
một cách đồng bộ, hiệu quả. Thực hiện nhiều chương trình và hành động thiết thực
bằng nhiều biện pháp, nhiều hình thức tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân
nâng cao trình độ, hiểu sâu rộng hơn về kiến thức pháp luật, chủ quyền biên giới
biển, đảo. Thực tế trong 10 năm qua thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP công
tác quán triệt triển khai phối hợp với tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật
đã tạo được sự đồng thuận trong cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể và
nhân dân trong thành phố, nhất là cấp ủy, chính quyền và nhân dân trên khu vực
biên giới biển. (có phụ lục kèm theo)
3. Kết quả công
tác xây dựng quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ vững an ninh trật tự ở
khu vực biên giới.
3.1. Kết
quả xây dựng biển báo khu vực biên giới biển, quy định bến bãi, khu vực neo đậu
neo đậu tàu thuyền, khu vực tránh bão:
Đã tiến hành xây dựng và đưa vào sử dụng
hệ thống biển báo luồng hàng hải bảo đảm an toàn cho tàu thuyền hoạt động trên
biển và hành trình vào cảng biển thành phố và biển báo tại các khu vực neo đậu
tàu thuyền đánh bắt thủy sản, các bến đò chở khách. Hoàn thành các Dự án Khu
neo đậu tránh, trú bão cho tàu thuyền nghề các tại xã Long Hòa, thị trấn Cần Thạnh
- huyện Cần Giờ với quy mô neo đậu trú tránh bão an toàn cho 2.000 tàu thuyền
nghề cá (theo đúng quy hoạch Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu thuyền nghề cá
đến 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 được Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh vào
năm 2005).
Ngoài các biển báo theo quy định tại
Điều 6 của Nghị định số 161/2003/NĐ-CP , Thành phố chỉ đạo các ngành triển khai
mạng thông tin trên biển, đảo, ven biển phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, kết
hợp với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và thực hiện cho công tác phòng chống lụt
bão, tìm kiếm cứu nạn trên biển. Việc xây dựng biển báo khu vực biên giới biển
chưa xác định nên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác bảo vệ biên giới biển của
các lực lượng đứng chân trên địa bàn, đặc biệt là lực lượng Biên phòng với vai
trò là lực lượng chủ trì, nòng cốt, chuyên trách quản lý nhà nước về biên giới
biển.
3.2. Kết
quả xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phòng ngừa, đấu tranh xử
lý tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật:
a) Công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ
chủ quyền biển, đảo:
Thực hiện công tác xây dựng, quản lý,
bảo vệ chủ quyền biển đảo trong những năm qua các lực lượng chức năng dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố đã tích cực, chủ động,
triển khai đồng bộ các biện pháp công tác nghiệp vụ bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh trật tự; duy trì thực hiện Nghị định số
161/2003/NĐ - CP của Chính phủ về "Quy chế khu vực biên giới biển
" và các văn bản pháp luật về quy chế cho tàu thuyền nước ngoài kể cả tàu
Quân sự hoạt động trên các vùng biển của nước Việt Nam; tham
mưu cho chính quyền địa phương trong việc huy động nhân lực, phương tiện của
ngư dân sẵn sàng tham gia đấu tranh, bảo vệ chủ quyền biển đảo theo theo Thông
tư số 70/TT - BQP của Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện Nghị định số 30/2010/NĐ
- CP của Chính phủ và Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số
745/QĐ-UBND-M huy động nhân lực, tàu thuyền dân sự sẵn sàng tham gia đấu tranh
bảo vệ chủ quyền biển, đảo; Kế hoạch số 747/KH-UBND-M ngày 20 tháng 11 năm
2012.
Tiếp tục quán triệt thực hiện Văn
kiện Đại hội Đảng bộ thành phố, Thông tri của Thành ủy, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân thành phố về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh; Đảng ủy, chỉ huy các lực
lượng đã xây dựng Nghị quyết lãnh đạo, xây dựng Quyết tâm, kế hoạch bảo vệ biên
giới vùng biển, cảng biển, luôn giữ vững, ổn định chính trị, bảo đảm trật tự xã
hội ở khu vực biên giới biển; tổ chức quản lý, bảo vệ vùng biển ra đến đường
biên giới trên biển
* Công tác quản lý người nước ngoài đến
hoạt động ở khu vực biên giới biển. Hàng năm, các lực lượng xây dựng triển
khai kế hoạch bảo vệ an ninh trật tự trong khu vực biên giới biển; trong đó tập
trung nâng cao chất lượng công tác nghiệp vụ theo dõi, quản lý người nước ngoài
trên địa bàn, kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của người
nước ngoài, việt kiều. Các đơn vị, lực lượng đã đăng ký, quản lý cho 6.969 người
nước ngoài và 1.432 việt kiều đến khu vực biên giới biển tạm trú, đi lại, ra
vào, hoạt động khảo sát, thăm quan du lịch, thăm thân...
Thực hiện Nghị định số
191/2004/NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý hoạt động thủy sản tàu cá nước ngoài
trong vùng biển Việt Nam, Nghị định số 66/2005/NĐ-CP về Đảm bảo an toàn cho người
và tàu cá hoạt động thủy sản; Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Công văn số 6829/UBND-CNN triển khai thực hiện;
Các lực lượng đã phối hợp chặt chẽ với địa phương, thường xuyên rà soát nắm chắc
phương tiện hoạt động trên địa bàn, lập kế hoạch, có biện pháp theo dõi quản lý
đối với từng phương tiện, từng ngành nghề; kịp thời chấn chỉnh công tác đăng ký
kiểm chứng, trình báo cơ quan chức năng theo thẩm quyền. Kiểm tra chặt chẽ các
tàu cá, phương tiện chở khách, phương tiện vận tải đảm bảo an toàn kỹ thuật,
trang thiết bị thông tin trước khi xuất bến, phát hiện và xử lý các trường hợp
vi phạm về nguồn lợi thủy sản, bảo đảm an toàn cho người, phương tiện và đảm bảo
thông tin liên lạc. Các lực lượng đã phối hợp tuần tra trên sông, biển và các
tuyến đường bộ, ven biển nhằm đảm bảo tốt an ninh quốc gia và trật tự an toàn
xã hội
* Công tác kiểm tra, kiểm soát người,
tàu thuyền làm nhiệm vụ thăm dò, nghiên cứu khoa học, khảo sát về địa chất,
khoáng sản trong khu vực biên giới biển. Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng
xây dựng gắn với quy hoạch sản xuất phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân; tăng cường quốc phòng - an ninh ở khu vực
biên biên giới biển đã triển khai nhiều dự án, thu hút nhiều nhà đầu tư đến
nghiên cứu, khảo sát ở khu vực biển Cần Giờ. Duy trì kiểm tra, kiểm soát hoạt động
của các cơ quan, đơn vị đến khu vực biên giới biển thực hiện các dự án, nghiên
cứu, khảo sát...
b) Công tác phòng ngừa, đấu tranh xử
lý tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật:
Thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP
về “Tăng cường công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới” Chỉ thị số
48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010, của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”
chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị, huy động nguồn lực của toàn xã hội tham gia
đấu tranh phòng chống tội phạm; Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình Quốc gia phòng chống tội phạm. Những năm qua, các lực lượng chức năng đã
tham mưu cho Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố xây dựng chương trình hành động
thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị trên; Trong đó, xác định rõ “Tăng cường sự
lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Ủy ban nhân dân các
cấp, vai trò tham mưu, hướng dẫn, nòng cốt, xung kích của các lực lượng phòng
chống tội phạm và sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và mọi
công dân, tạo cơ chế phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, thực
hiện chiến lược xã hội hóa công tác phòng chống tội phạm, lấy phòng ngừa là cơ
bản, đặc biệt là phòng ngừa xã hội, đồng thời chủ động tấn công trấn áp các loại
tội phạm”; Chỉ thị số 05-CT/TU ngày 12 tháng 7 năm 2007 của Thành ủy về tăng cường
sự lãnh đạo công tác phòng chống tội phạm; Quyết định số 333/2004/QĐ-UB ngày 29
tháng 12 năm 2004 của Ủy ban nhân dân thành phố về ban hành kế hoạch thực hiện
chương trình quốc gia phòng chống tội phạm.
Xây dựng kế hoạch, chương trình hành
động thực hiện công tác phòng, chống tội phạm; tổ chức lực lượng, triển khai đồng
bộ các biện pháp công tác chuyên môn, nghiệp vụ nắm chắc diễn biến tình hình
trong địa bàn và các khu vực tiếp giáp; thường xuyên kiểm tra rà soát bổ sung
các kế hoạch, phương án đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội
trong phạm vi địa bàn đảm nhiệm. Tổ chức bố trí lực lượng trinh sát, lực lượng
phòng chống tội phạm ma túy; phân công giao nhiệm vụ nắm tình hình thu thập tin
tức ở các địa bàn, mục tiêu trọng điểm; tập trung xây dựng, củng cố mạng lưới mật
nắm chắc tình hình hoạt động của địch và các loại đối tượng; Thực hiện đúng thẩm
quyền điều tra của Bộ đội Biên phòng theo quy định của Pháp luật. Các lực lượng
đã phối hợp chặt chẽ với nhau duy trì công tác quản lý địa bàn; thường xuyên tuần
tra truy quét tấn công tội phạm trên địa bàn; phát hiện, ngăn chặn, xử lý các
hành vi vi phạm quy chế khu vực biên giới biển. Từ năm 2004 đến nay, trên địa
bàn huyện biển Cần Giờ xảy ra 388 vụ phạm pháp hình sự, 19 vụ tàng trữ trái
phép chất ma túy, 369 vụ tệ nạn xã hội (đánh bạc, bán số đề, mại dâm...), đã điều
tra khám phá 277 vụ, bắt khởi tố 383 đối tượng và xử phạt vi phạm hành chính
4.554 đối tượng. Ngoài ra còn phát hiện và xử lý nhiều vụ khai thác cát trái
phép, nhiều vụ vận chuyển địa sâm, khai thác thủy sản bằng kích điện...
c) Công tác củng cố, xây dựng và tăng
cường hoạt động của phong trào quần chúng tham gia bảo vệ tổ quốc:
Tiếp tục xây dựng phong trào tham gia
giữ gìn an ninh trật tự, phòng, chống,
đấu tranh tố giác tội phạm, xây dựng ấp, xã, thị trấn văn hóa, xây dựng nông
thôn mới. Qua công tác tuyên truyền phong trào quần chúng nhân dân tham gia bảo
vệ an ninh biên giới biển được nhân rộng từ những mô hình có ý nghĩa thiết thực,
góp phần giữ vững an ninh trật tự ở địa bàn như: Tổ đội tàu thuyền tự quản tham
gia bảo vệ biên giới, nghiệp đoàn nghề cá, tổ hợp tác khai thác nghề cá trên biển...
những phong trào trên đã góp phần nâng cao được trách nhiệm của người dân trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh trật tự vùng biển thành
phố. Đặc biệt nâng cao tinh thần cảnh giác trước thủ đoạn tuyên truyền, kích động
của các phần tử xấu. Nhân dân đã cung cấp cho các cơ quan chức năng nhiều nguồn
tin có giá trị, kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi hoạt động phá hoại của địch và
các loại đối tượng.
d) Công tác phòng chống lụt bão, tìm
kiếm cứu nạn:
Thực hiện công tác phòng, chống lụt,
bão, giảm nhẹ thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tại đơn vị, địa phương theo phương
châm 04 tại chỗ “chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương
tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ”; Luôn quán triệt sự chỉ đạo của các
Bộ ngành Trung ương, Ủy ban nhân dân thành phố, Ban Chỉ huy Phòng, chống lụt,
bão và tìm kiếm cứu nạn thành phố và cấp ủy chính quyền địa phương kịp thời ứng
phó với các cơn bão, lốc xoáy, sạt lở, triều cường.
Thường xuyên rà soát, kiểm tra các
phương án như : Phương án tổ chức sơ tán dân, Phương án ứng phó khi bão trực tiếp,
Phương án đảm bảo về người và tàu thuyền hoạt động trên sông, biển; Phương án đảm
bảo sản xuất nông nghiệp, thủy sản khi có bão xảy ra trên địa bàn huyện; Phương
án đảm bảo lương thực, nước uống, nhiên liệu khi có bão xảy ra trên địa bàn huyện
Cần Giờ, hoàn chỉnh phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương và triển khai
thực hiện. Bên cạnh đó, tập trung triển khai tổ chức quản lý, kiểm soát chặt chẽ
hoạt động của các phương tiện khai thác thủy sản trên địa bàn; tổ chức tuyên
truyền, hướng dẫn, vận động nhân dân chằng chống nhà cửa; gia cố các bờ bao
nuôi trồng thủy sản, duy tu các công trình hạ tầng kỹ thuật; kiểm tra khắc phục
sửa chữa các công trình xuống cấp không đảm bảo an toàn khi có mưa, giông, lốc
xoáy, bão xảy ra.
Tổ chức kiểm tra các công trình thủy
lợi, các công trình phòng chống lụt bão trước mùa mưa bão; kiểm tra các trụ đèn
báo bão, các trang thiết bị phòng chống lụt bão để đảm bảo khi có thiên tai xảy
ra. Công tác di dời các hộ dân sinh sống tại khu vực sạt lở và có nguy cơ sạt lở
cao như ở khu vực Thiềng Liềng xã Thạnh An. Tiếp tục triển khai xây dựng Đề án
tổng thể di dời các hộ dân đang sinh sống tại khu vực ven sông, ven biển, kênh,
rạch, vùng trũng thấp và khu vực có nguy cơ sạt lở trên địa bàn huyện.
Thực hành diễn tập kiểm tra phương
án phòng, chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn năm 2009 (LB.09) lấy địa bàn huyện
Cần Giờ làm địa bàn vận hành cơ chế 3 cấp (thành phố - huyện - xã, thị trấn)
và thực binh triển khai các lực lượng, phương tiện, vật tư phối hợp giải quyết
các tình huống trong điều kiện bão đổ bộ trực tiếp vào địa bàn huyện Cần Giờ:
kêu gọi tàu thuyền vào nơi trú bão; sơ tán dân vùng nguy hiểm, cứu hộ - cứu nạn
trong bão; tìm kiếm cứu nạn trên biển và khắc phục hậu quả sau bão (lấy địa
bàn thị trấn Cần Thạnh - Thạnh An - Long Hòa làm tâm bão, trong đó lấy thị trấn
Cần Thạnh và Thạnh An làm khu vực diễn tập). Ngoài ra, hàng năm tổ chức diễn
tập cấp huyện, xã với quy mô hình thức khác nhau đã nâng cao hiệu quả công tác
tổ chức huấn luyện đội cứu hộ, cứu nạn của các lực lượng, các cấp, các ngành,
nhanh chóng triển khai lực lượng, phương tiện, nhằm ứng phó kịp thời khi có
bão. (có phụ lục kèm theo)
đ) Công tác phối hợp giữa các cấp,
các ngành, các lực lượng trong xây dựng, quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo, giữ
gìn an ninh trật tự ở khu vực biên giới biển:
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được
giao, các lực lượng đã chỉ đạo đơn vị thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt
Nghị định 77/2010/NĐ-CP về Quy chế phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng bảo
vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; Công an thành
phố, Bộ Tư lệnh thành phố, Sở Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy cùng Bộ đội biên
phòng thành phố xây dựng mới kế hoạch số 1625/KHLN ngày 03 tháng 12 năm 2012
thay thế kế hoạch 280/KHLN ngày 25 tháng 3 năm 2010, chỉ đạo các cơ quan chức
năng thường xuyên thông báo tình hình, trao đổi các vấn đề có liên quan; tuyên
truyền vận động nhân dân chấp hành nghiêm pháp luật, tự giác tham gia giữ gìn
an ninh trật tự ở các xã, phường ở khu vực biên giới, cửa khẩu cảng. Trong những
năm qua, các lực lượng đã phối hợp với các lực lượng phát hiện, ngăn chặn, đấu
tranh triệt phá hàng trăm tổ chức, ổ nhóm, đường dây hoạt động của bọn tội phạm
hình sự nguy hiểm hoạt động ở khu vực biên giới biển.
Công tác phối hợp hiệp đồng giữa các
lực lượng và các ban ngành, đoàn thể đã tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia biển. Nhân dân trên khu
vực biên giới tích cực phối hợp, giúp đỡ các lực lượng trong công tác quản lý bảo
vệ biên giới biển, cảng biển, đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh
trật tự địa bàn và tham gia phòng chống lụt bão - tìm kiếm cứu nạn trên biển.
e) Chính sách chăm lo đời sống nhân
dân huyện biển:
Thực hiện công tác "đền ơn, đáp
nghĩa" và đạo lý truyền thống "uống nước nhớ nguồn" Trong 10 năm
qua Ủy ban nhân dân thành phố, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố đã có
chủ trương, chính sách, chương trình và hành động cụ thể, kịp thời, chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân và lực lượng trú đóng trên huyện biển, đặc
biệt là những nơi còn khó khăn, thiếu thốn.... Kêu gọi các tổ chức, công ty,
doanh nghiệp, các nhà hảo tâm phối hợp với địa phương các cấp, các lực lượng, động
viên, thăm hỏi, tặng quà, khám chữa bệnh cho các gia đình chính sách, các hộ
nghèo ở xã huyện biển Cần Giờ.
Tiếp tục thực hiện chương trình an
sinh xã hội, chương trình xây dựng mô hình nông thôn mới đáp ứng nhu cầu, nguyện
vọng của người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân làm ăn, sinh sống,
bám đất, giữ rừng, giữ biển. Chương trình "Mái ấm cho người nghèo nơi
biên giới, hải đảo";"Nhà tình thương, tình nghĩa" " Con đường
và mái nhà cho dân", cấp thẻ bảo hiểm y tế.... cho các gia đình chính
sách, gia đình có công, thương binh, liệt sĩ, các hộ nghèo... Nâng cao nhận thức
của nhân dân trong xây dựng phát động phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
4. Kinh phí xây
dựng, quản lý, bảo vệ biên giới.
Trong 10 năm Ủy ban nhân dân thành phố
đã cấp kinh phí xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới cho huyện biển Cần Giờ và
các lực lượng đứng chân trên địa bàn biên giới biển hàng ngàn tỷ đồng. Đối với
Bộ đội Biên phòng thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố đã hỗ trợ kinh phí hoạt
động công tác thường xuyên quản lý bảo vệ biên giới gần 186 tỷ đồng. (Xây dựng
doanh trại, các dự án kinh tế - xã hội, mua sắm, sửa chữa, bảo dưỡng trang thiết
bị... công tác tuyên truyền, xây dựng điểm sáng văn hóa tuyến biển đảo....).
Thành phố hỗ trợ tiền lễ, tết, trợ cấp hàng tháng cho Cán bộ Chiến sĩ công tác
tại Cần Giờ và chi hoạt động thường xuyên tổng cộng gần 29 tỷ đồng. Công tác
phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn đã được thành phố quan tâm, chỉ đạo thực
hiện và đã hỗ trợ hơn 3,6 tỷ đồng cho việc mua sắm dụng cụ, phương tiện, nhiên
liệu... phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ.
Bộ Quốc phòng cấp kinh phí cho hoạt động
quản lý, bảo vệ biên giới là 1,8 tỷ đồng (tính từ năm 2007 đến nay).
Việc sử dụng các nguồn kinh phí do Ủy
ban nhân dân thành phố, Bộ Quốc phòng cấp và các cơ quan, ban ngành hỗ trợ. Chỉ
huy các đơn vị thực hiện đúng nguyên tắc thủ tục quy định và đã phát huy tốt hiệu
quả trong việc xây dựng và quản lý, bảo vệ biên giới biển của thành phố (có phụ
lục).
III. NHỮNG KHÓ
KHĂN VƯỚNG MẮC, TỒN TẠI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1. Những khó
khăn vướng mắc.
Thực hiện Nghị định số 161/2003/NĐ-CP
ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới biển. Bên
cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn những khó khăn vướng mắc cần phải khắc
phục đó là:
- Nghị định số
161/2003/NĐ-CP đã quy định cụ thể: xã Thạnh An, xã Long Hòa, xã Lý Nhơn và thị
trấn Cần Thạnh thuộc khu vực biên giới biển, nhưng hiện tại chưa có biển báo
khu vực biên giới biển, nên người địa phương khác, người nước ngoài rất khó
khăn phân biệt ranh giới khu vực biên giới, từ đó ảnh hưởng đến việc duy trì thực
hiện pháp luật và chấp hành quy chế khu vực biên giới biển. Các doanh nghiệp đến
khu vực biên giới biển để đầu tư, phát triển kinh tế, làm ăn không trình báo
các cơ quan chức năng, ảnh hưởng đến việc quản lý của lực lượng trong thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biên giới biển.
- Công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực
hiện Nghị định 161/2003/NĐ-CP chưa được thường xuyên, chưa sâu rộng trong các tầng
lớp nhân dân, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp trong và ngoài khu vực biên
giới biển, mới chỉ tập trung tuyên truyền ở khu vực biên giới biển là chủ yếu,
nên nhận thức của người dân về chủ quyền quốc gia, nắm không chắc quy chế khu vực
biên giới biển, hiểu biết chưa đầy đủ, còn chung chung; do đó việc chấp hành
pháp luật, Quy chế khu vực biên giới của người, phương tiện hoạt động trên biển
chưa nghiêm, nhất là các chủ dự án, người nước ngoài, việt kiều đến hoạt động,
tạm trú, thường trú ở khu vực biên giới biển.
- Vai trò của một số cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương ở khu vực biên giới biển trong việc tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện quy chế chưa được phát huy. Nhận thức về nhiệm vụ quản lý, bảo
vệ biên giới quốc gia trên biển của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa đầy đủ, còn coi nhiệm vụ bảo vệ biên giới là của Bộ đội Biên phòng. Việc
thực hiện cơ chế phối hợp của các lực lượng trên biên giới biển còn nhiều mặt hạn
chế, có nơi, có lúc còn chồng chéo, sơ hở, ảnh hưởng đến công tác quản lý, kiểm
tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng, nhất là công tác phối hợp trong đấu
tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, trộm cắp thủy hải sản... trên vùng
biển thành phố.
- Thực hiện Điều
14 Nghị định số 161/2003/NĐ-CP quy định về thủ tục hành chính đối với người
nước ngoài đi lại tạm trú, ra vào, hoạt động ở khu vực biên giới biển (trừ khu
du lịch, dịch vụ, khu kinh tế cửa khẩu, khu kinh tế ven biển có quy định khác).
Thực tế các Đồn Biên phòng không thực hiện đăng ký số Việt kiều về thăm thân
nhân, người nước ngoài tạm trú, đi lại trên địa bàn, nên việc nắm bắt mọi hoạt
động, sinh hoạt và phát hiện các hành vi vi phạm của các đối tượng trên chưa kịp
thời. Nên có sự chồng chéo về công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát giữa các cơ
quan chức năng (Bộ đội Biên phòng và Công an).
Tại Điều 25 Nghị định số
161/2003/NĐ-CP quy định: Khi xây dựng các dự án khu du lịch, giao thông, thủy
sản, lâm trường và các công trình cảng, bến đậu, khu kinh tế liên doanh với người
nước ngoài; thăm dò, khai thác tài nguyên trong khu vực biên giới biển, cơ quan
chủ quản phải thông báo với chính quyền địa phương và lấy ý kiến tham gia của
các ngành có liên quan và Bộ đội Biên phòng trước khi trình cấp có thẩm quyền
phê duyệt.
Tại mục 2 chương III, Thông tư số
89/2004/TT-BQP của Bộ Quốc phòng quy định: Chủ dự án các công trình, khi thực
hiện phải thông báo cho Ủy ban nhân dân, Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh,
thành sở tại biết ít nhất 07 ngày trước khi triển khai thực hiện. Thực tế,
trong công tác quản lý người, tàu thuyền làm nhiệm vụ thăm dò, nghiên cứu khoa
học, khảo sát về địa chất, khoáng sản... trong khu vực biên giới biển, Bộ đội
Biên phòng thành phố chưa nhận được thông báo của các cơ quan hữu quan và các
chủ dự án về việc triển khai thực hiện các công trình. Do đó khó khăn, vướng mắc
trong công tác quản lý, kiểm soát, duy trì thực hiện pháp luật ở khu vực biên
giới biển.
2. Tồn tại.
Việc tuyên truyền
vận động của địa phương, các sở ngành, các lực lượng trong thực hiện Nghị định
số 161/2003/NĐ-CP chưa sâu sát với tình hình thực tế trong từng giai đoạn.
Xây dựng các tổ đội
tàu thuyền tự quản tham gia bảo vệ biên giới còn chậm, thiếu đồng bộ, quy định
chưa rõ ràng, cụ thể để các ngư dân thực hiện.
Một số chính sách
còn bất cập, vướng mắc trong việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát các loại phương
tiện thủy chưa thật sự rõ ràng giữa các cơ quan chức năng, còn chồng chéo.
Chương trình an
sinh xã hội ở khu vực biên giới biển còn nảy sinh những vướng mắc trong quá
trình thực hiện. Còn có biểu hiện tụ tập đông người biểu tình, khiếu kiện đòi hỏi
chính sách về nhà ở, đất đai.
3. Những bài học
kinh nghiệm.
- Cần thực hiện tốt hơn nữa cơ chế: Đảng
lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, chính quyền địa phương chỉ đạo điều
hành, các lực lượng tích cực làm tham mưu, đề xuất, tổ chức thực hiện, nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước trên khu vực biên giới biển; trong đó cấp ủy Đảng,
chính quyền cơ sở giữ vị trí vai trò hết sức quan trọng; bên cạnh đó, lực lượng
Bộ đội Biên phòng phải phát huy tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách trong quản
lý, bảo vệ biên giới biển.
- Công tác phối hợp giữa các cấp, các
ngành, các lực lượng trên địa bàn cảng biển, biên giới biển cần phát huy trách
nhiệm, khả năng chuyên môn, công tác phối hợp giữa lực lượng để xử lý các vụ việc
có liên quan được nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao hơn.
- Các cấp, các ngành, các lực lượng
phối hợp chặt chẽ, thường xuyên liên tục trong công tác tuyên truyền Nghị định
số 161/2003/NĐ-CP , các văn bản pháp luật có liên quan về biên giới biển đến các
tổ chức, quần chúng nhân dân, tập trung trên địa bàn huyện, xã, thị trấn biên
giới biển và trong quản lý, bảo vệ biên giới biển; tránh sơ hở, chồng chéo hoặc
đùn đẩy trách nhiệm.
IV. DỰ BÁO TÌNH
HÌNH, KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC XÂY DỰNG, QUẢN
LÝ, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VÀ GIỮ GÌN AN NINH TRẬT TỰ Ở KHU VỰC BIÊN GIỚI
BIỂN
1. Dự báo tình
hình có liên quan đến công tác quản lý, bảo vệ biên giới biển giai đoạn 2013 -
2020.
Tình hình biển Đông diễn biến căng thẳng,
phức tạp hơn, Trung Quốc tăng cường chuẩn bị cả về pháp lý, ngoại giao và sức mạnh
quân sự, đẩy mạnh thăm dò, khai thác tài nguyên trên vùng biển thuộc chủ quyền
Việt Nam.
Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục ổn định,
kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới biển
thành phố được đẩy mạnh đầu tư xây dựng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý và bảo
vệ biên giới biển và sản xuất, sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống chính trị ở huyện,
các xã, thị trấn biên giới biển tiếp tục được củng cố vững chắc, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Đồng thời, lưu lượng người, phương
tiện trong và ngoài thành phố ra vào hoạt động trên vùng biển thành phố với số
lượng lớn. Tình hình an ninh trật tự trên khu vực cảng biển, biên giới biển từng
lúc, từng nơi có thể còn diễn biến phức tạp do các hoạt động buôn lậu, gian lận
thương mại, ma túy, mại dâm... tàu thuyền đánh bắt thủy hải sản xa bờ vi phạm
chủ quyền các nước trong khu vực. Không loại trừ bọn phản động lợi dụng tiến
hành xâm nhập người, vũ khí, chất nổ, tài liệu phản động để phá hoại ta, nhằm
gây mất ổn định từ bên trong. Tình hình khiếu kiện, khiếu nại vượt cấp đông người
đòi bồi thường đất đai giải phóng mặt bằng xây dựng các khu kinh tế, công trình
phúc lợi xã hội, tình hình an ninh trật tự, tệ nạn xã hội sẽ phức tạp, bọn trộm cắp, tranh chấp ngư trường, sử dụng
xung điện đánh bắt thủy sản trái phép, cướp thủy hải sản nuôi trồng trên vùng
biển có chiều hướng gia tăng. Mặt khác, tình hình thời tiết khí hậu, thiên tai,
tai nạn, bão, mực nước biển dâng cao xâm thực vào nội đồng... sẽ tác động trực
tiếp đến đời sống sinh hoạt của nhân dân và việc thực hiện nhiệm vụ của các lực
lượng trong quản lý, bảo vệ biên giới biển.
Tiếp tục tổ chức thực hiện các chương trình, đề án, dự án đầu tư kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật ven biển, hải đảo tại thành phố
Hồ Chí Minh theo kế hoạch, các dự án liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội
tại huyện Cần Giờ. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng biển,
đảo, ven biển, các khu công nghiệp, dịch vụ, vành đai kinh tế, hành lang kinh
tế; nghiên cứu bổ sung các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biển;
phát triển nguồn cán bộ, chuyên gia về quản lý, khai thác biển, ven biển; công
trình Khu đô thị lấn biển Cần Giờ và Khu đô thị du lịch sinh thái biển Cần
Thạnh - Long Hòa; công trình Quảng trường Rừng Sác, Khu di tích lịch sử Căn cứ
Rừng Sác, Khu di tích lịch sử Gò Chùa, Khu di tích khảo cổ Giồng Cá Vồ. Tập trung
mọi nguồn lực tại chỗ, tăng cường hơn nữa công tác bảo đảm trật tự, an ninh và
xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc vùng biển, đảo, ven biển để đáp ứng, ứng
phó kịp thời các nhiệm vụ bảo vệ biên cương Tổ quốc.
2. Đề xuất giải
pháp chủ yếu.
- Phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền và các ban ngành, đoàn thể từ thành phố đến các quận,
huyện, xã, thị trấn trong việc tiếp tục tuyên truyền bằng nhiều hình thức, nội
dung thiết thực, làm cho các cấp các ngành và các tầng lớp nhân dân nhận thức đầy
đủ về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nghị định số 161/2003/NĐ-CP , Nghị
định số 30/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về huy động nhân lực
tàu thuyền, phương tiện dân sự tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền các
vùng biển Việt Nam và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến công tác bảo
vệ chủ quyền biên giới biển. Cần tuyên truyền bằng các biển bảng panô, áp phích
ở những nơi công cộng, nhất là khu vực biên giới biển để người dân hiểu rõ hơn
quy chế khu vực biên giới biển. Tăng cường công tác phối hợp hiệp đồng giữa các
lực lượng trú đóng trên biên giới biển, thực hiện tốt việc trao đổi tình hình,
thống nhất nội dung, biện pháp hoạt động, định kỳ làm tốt công tác sơ, tổng kết
nhằm chấn chỉnh những mặt còn tồn tại thiếu sót trong quá trình thực hiện.
- Tiếp tục xây dựng các lực lượng đảm
bảo về số lượng, chất lượng, vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là Bộ đội Biên
phòng phát huy tốt vai trò nòng cốt, chuyên trách trong quản lý, bảo vệ chủ quyền
biên giới biển, đồng thời là trung tâm của mối quan hệ phối hợp của các lực lượng
trú đóng trên huyện biển Cần Giờ. Coi trọng nâng cao chất lượng công tác phối hợp,
đầu tư trang thiết bị, quản lý chặt chẽ người, phương tiện ra vào, làm ăn trong
khu vực cảng biển, biên giới biển. Quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng và người
nước ngoài hoạt động trong khu vực, phát hiện kịp thời mọi hoạt động, hành vi
vi phạm. Phối hợp đấu tranh ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, vượt biển trái
phép, hoạt động của bọn tội phạm hình sự, hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại.
Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực cảng biển, biên giới
biển.
- Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, khuyến
khích mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân,
tích cực cải cách thủ tục hành chính tạo môi trường thuận lợi cho phát triển
kinh tế bền vững để nhân dân yên tâm gắn bó với địa bàn biên giới biển. Tăng
nguồn kinh phí hỗ trợ cho lực lượng Bộ đội Biên phòng thành phố mua sắm thêm
trang bị, phương tiện, củng cố cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động quản
lý, bảo vệ khu vực cảng biển, biên giới biển.
- Triển khai hệ thống biển báo khu vực
biên giới biển theo quy định tại Điều 6 của Nghị định số 161/2003/NĐ-CP .
- Tiếp tục có những chính sách ưu
tiên đầu tư, phát triển hạ tầng, đặc biệt là các công trình chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh ở khu vực biên giới biển của Thành phố,
nhất là hệ thống đê, rừng phòng hộ ven biển, đường giao thông, nước sạch, trường
học, trạm y tế...
- Chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục
đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Luật Biên giới Quốc Gia; Công ước Luật biển
năm 1982; Luật biển Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 6 năm 2012; Nghị định số
161/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ về quy chế khu vực biên
giới biển. Đưa nội dung trên vào chương trình giáo dục quốc phòng hàng năm ở
các bậc học.
3. Những kiến
nghị, đề xuất.
- Đề nghị Chính
phủ nghiên cứu, điều chỉnh bổ sung Điều 14 Nghị định 161/2003/ NĐ-CP
- Đề nghị Bộ Quốc
phòng thống nhất với Bộ Công an hướng dẫn cụ thể đối với người nước ngoài, việt
kiều đến khu vực biên giới biển. Hướng dẫn quy định cụ thể hệ thống biển báo
Khu vực biên giới biển./.
Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Quốc phòng;
- Bộ Công an;
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; - Thường trực Thành ủy;
- TTUB: CT, các PCT;
- Các Sở - ngành thành phố;
- UBND huyện Cần Giờ;
- VPUB: CVP, PVP/PCNC;
- Phòng PCNC;
- Lưu:VT, (PCNC-Di) H.
|
KT.
CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Lê Minh Trí
|