Từ ngày 06/01/2025, việc phân loại nhóm mỏ thăm dò khoáng sản đất hiếm được tuân theo quy định tại Thông tư 21/2024/TT-BTNMT.
>> Yêu cầu khi cấp tín dụng qua thẻ tín dụng
>> 04 hoạt động doanh nghiệp bị cấm sau khi mở thủ tục phá sản
Ngày 21/11/2024, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư 21/2024/TT-BTNMT quy định kỹ thuật điều tra, đánh giá tài nguyên và thăm dò khoáng sản đất hiếm.
Căn cứ Điều 29 Thông tư 21/2024/TT-BTNMT, việc phân chia nhóm mỏ thăm dò khoáng sản đất hiếm từ ngày 06/01/2025 được quy định như sau:
Theo đó, việc phân chia nhóm mỏ thăm dò được căn cứ vào những cơ sở sau đây:
- Căn cứ vào hình dạng, kích thước, thế nằm các thân quặng đất hiếm, mức độ ổn định về chiều dày, biến đổi hàm lượng đất hiếm và mức độ phức tạp về cấu trúc địa chất mỏ.
- Căn cứ vào chỉ số định lượng đánh giá mức độ biến đổi chiều dày, hàm lượng các thân quặng và điều kiện địa chất khai thác mỏ để phân chia nhóm mỏ thăm dò.
- Căn cứ vào việc lập luận, đánh giá cụ thể đối với các thân quặng đất hiếm chính, chiếm không dưới 70% trữ lượng của mỏ. Nhóm mỏ thăm dò được dự kiến trong đề án thăm dò khoáng sản và được xác định trong báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản.
Toàn văn File word Luật Doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn năm 2024 |
Các nhóm mỏ thăm dò khoáng sản đất hiếm từ 06/01/2025 (Ảnh minh họa – Nguồn từ Internet)
- Nhóm I: Nhóm mỏ đơn giản
Gồm những mỏ hoặc một phần mỏ lớn có cấu trúc địa chất đơn giản với các thân quặng dạng giả tầng, dạng vỉa nằm ngang hoặc dốc thoải; các thân quặng có hình dạng đơn giản, hệ số chứa quặng từ 0,8 đến 1,0; chiều dày ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình không lớn hơn 40%; hàm lượng các thành phần có ích chính phân bố đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn không lớn hơn 40%.
- Nhóm II: Nhóm mỏ tương đối phức tạp
Gồm những mỏ hoặc một phần mỏ từ lớn đến trung bình có cấu trúc địa chất tương đối phức tạp, với các thân quặng có hình dạng tương đối đơn giản đến phức tạp; thân quặng dạng vỉa, thấu kính, cột, ống...; chiều dày thân quặng tương đối ổn định đến không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình từ lớn hơn 40% đến 70%; hàm lượng các thành phần có ích chính phân bố từ tương đối đồng đều đến không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn từ lớn hơn 40% đến 100% và hệ số chứa quặng từ 0,7 đến 0,8.
- Nhóm III: Nhóm mỏ phức tạp
Gồm những mỏ hoặc một phần mỏ từ nhỏ đến trung bình, có cấu trúc địa chất phức tạp với các thân quặng dạng vỉa, thấu kính, dạng ổ, cột, ống...; hình dạng các thân quặng rất phức tạp, chiều dày không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình từ lớn hơn 40% đến 100%; hàm lượng các thành phần có ích và có hại chính phân bố không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn từ lớn hơn 100% đến 150%; hệ số chứa quặng từ 0,5 đến 0,7.
- Nhóm IV: Nhóm mỏ rất phức tạp
Gồm những mỏ hoặc một phần mỏ nhỏ, có cấu trúc địa chất rất phức tạp với các thân quặng kích thước nhỏ đến rất nhỏ, dạng mạch, thấu kính, cột, ổ...; hình dạng thân quặng rất phức tạp, chiều dày rất không ổn định, hệ số biến đổi chiều dày theo công trình lớn hơn 100%; hàm lượng các thành phần có ích chính biến đổi rất không đồng đều, hệ số biến đổi hàm lượng theo mẫu đơn lớn hơn 150%; hệ số chứa quặng dưới 0,5.
Căn cứ Điều 30 Thông tư 21/2024/TT-BTNMT, công tác thăm dò khoáng sản đất hiếm phải tuân theo những yêu cầu chung như sau:
- Việc thăm dò từ khái quát đến chi tiết, từ trên mặt xuống dưới sâu, mạng lưới thăm dò từ thưa đến dày, đo vẽ bản đồ địa chất từ tỷ lệ nhỏ đến bản đồ tỷ lệ lớn; phải thực hiện theo nguyên tắc tuần tự các bước điều tra địa chất về khoáng sản.
- Phải thu thập đầy đủ các thông tin, số liệu, tài liệu địa chất, địa chất thủy văn - địa chất công trình, địa chất môi trường; điều kiện khai thác mỏ và kinh doanh khai thác phục vụ cho việc đánh giá, lập dự án đầu tư khai thác khoáng sản và thiết kế mỏ; khoanh định các khu vực và chiều sâu có triển vọng nhất để khai thác.
- Trình tự thăm dò được xây dựng trên cơ sở phù hợp với mức độ phức tạp về cấu trúc địa chất, quy mô trữ lượng và giá trị kinh tế mỏ.
- Thực hiện công tác thăm dò trên toàn bộ khu vực và chiều sâu tồn tại thân quặng trong ranh giới được lựa chọn trong đề án thăm dò.