bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, nếu từ khi chấp hành xong bản án (hình phạt và bồi thường dân sự khác) hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành án, người đó không phạm tội mới trong các thời hạn quy định.
Tòa án quyết định xóa án tích đối với những người bị kết án về các tội quy định tại chương XI và chương XXIV Bộ luật hình sự căn cứ
anh của bạn phải chịu. Tuy nhiên, mức hình phạt này cũng không thể vượt quá mức hình phạt tối đa của khung hình phạt mà anh trai của bạn bị áp dụng. Trong trường hợp nói trên, phụ thuộc vào các căn cứ quyết định hình phạt có liên quan, cũng như khung hình phạt mà anh trai của bạn bị áp dụng có thể là khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự, có thể anh trai
quyết định xoá án tích đối với những người bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án, trong các trường hợp sau đây:
- Đã bị phạt tù ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm
Công ty luật Cương Lĩnh xin trả lời câu hỏi của bạn:
Điều 60 Bộ luật hình sự quy định: Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 1 đến 5 năm... Đối với người được
Năm 1999 tôi bị kêu án tù treo 18 tháng vì can tội " lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân " và bản án buộc tôi phải khắc phục hậu quả nhưng năm đó tôi bị bệnh tai biến mạch máu nảo liệt hết nửa người không đi lại được nên không có điều kiện để khắc phục hậu quả Đến năm 2010 để xin xóa án tôi tự nguyện thi hành án với các điều khoản mà
trị của cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân có quy định một trong các điều kiện cơ bản không lấy chồng (vợ) công an có bố/mẹ hoặc bản thân có tiền án hoặc đang chấp hành án phạt tù. Như vậy, trong trường hợp của chị, để không thuộc trường hợp trên, cha bạn trai chị phải được xóa án tích.
Vì cha bạn trai chị không bị kết tội quy định tại Chương XI
Tội phạm mà các bị cáo thực hiện rất nghiêm trọng. Khi áp dụng luật, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đúng điểm, khoản, điều luật của Bộ luật Hình sự. Nhưng khi quyết định hình phạt lại xử quá nhẹ hoặc cho hưởng án treo. Như vậy có vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ Luật Tố tụng Hình sự không? Thế nào là có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự thì: "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm". Tuy nhiên
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về án treo (Điều 60) như sau: Khi người bị xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến 5 năm. Trong thời gian thử thách, Toà án
Án treo là một biện pháp chấp hành hình phạt tù. Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”. Tuy nhiên
.
Theo điều 60 Bộ luật hình sự: Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự: “ Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”
a) Về hình phạt
Người bị kết án có thể được hưởng án treo
Theo quy định của tại khoản 4 điều 9 và khoản 4 điều 10 Nghị định số 35/2005/NĐ-CP ngày 17-3-2005 của Chính phủ về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức quy định:
- Cán bộ, công chức liên quan đến vụ việc đang bị các cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, truy tố, xét xử thì thời hiệu xem xét xử lý kỷ luật tính từ ngày phán quyết của
Án treo là hình phạt tù có điều kiện được quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự: Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt giam, chấp hành hình phạt tù, Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Trong
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về án treo (Điều 60): Khi người bị xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến 5 năm. Trong thời gian thử thách, Toà
Nội (29), Cần Thơ (24), Bà Rịa - Vũng Tàu (24), Hải Dương (18), Đà Nẵng (16), Khánh Hòa (10)……” .Đăng trên báo dantri.com.vn ngày 26/5/2009. Đến giai đoạn này vơí chức năng quản lý nhà nứơc cuả mình về TN&MT đã giải quyết tình trạng quy hoạch treo đến đâu rồi. Xin cảm ơn bộ trưởng
Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 có quy định cụ thể về tội trộm cắp tài sản:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
Tôi đang bị án treo về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Trong lúc đang thi hành án treo thì tôi lại bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi điều khiển xe chạy quá tốc độ. Xin hỏi, đang trong quá trình thi hành án treo mà bị xử phạt vi phạm hành chính thì có ảnh hưởng gì không?
Công ty Luật Cương Lĩnh xin trả lời câu hỏi như sau:
Căn cứ, Khoản 2 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp