Trong quá trình công tác tôi gặp một số vướng mắc sau, đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, hướng dẫn xử lý: Tháng 4/2013, ông Phạm Hồng H xây dựng một nhà cấp 4 mái tôn (không có giấy phép). Tại thời điểm xảy ra vi phạm, UBND phường chỉ lập biên bản vi phạm hành chính theo Mẫu số 01 kèm theo Thông tư 02/2014/TT-BXD. Hiện nay, để tiếp tục xử lý dứt điểm hành vi vi phạm nêu trên, đơn vị tôi hướng dẫn UBND phường thiết lập hồ sơ xử lý vi phạm về trật tự xây dựng đô thị theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Thông tư 02/2014/TT-BXD. Tuy nhiên, một số ngành lại cho rằng, UBND phường không đủ thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ; việc khắc phục hậu quả áp dụng theo quy định tại Điều 65 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; năm 2013 đã thiết lập biên bản vi phạm rồi thì không được lập biên bản nữa. Tôi xin hỏi, trình tự xử lý công trình vi phạm này thực hiện thế nào là đúng? Năm 2010, gia đình bà Vũ Thị M tự ý xây dựng công trình trên đất nông nghiệp, UBND phường lập biên bản vi phạm, ban hành quyết định đình chỉ thi công nhưng không xử lý dứt điểm. Năm 2013, hộ bà M đã chuyển nhượng thửa đất và ngôi nhà cho ông Nguyễn Đức H sử dụng. Trong thời gian từ 2013-2016 lại phát sinh một số vi phạm khác. Khi UBND phường thiết lập hồ sơ xử lý vi phạm, không có người đứng ra nhận là chủ đầu tư. Vậy để xử lý đối với các công trình vi phạm chưa xác định được chủ đầu tư thì sẽ thực hiện như thế nào? Theo trình tự xử lý vi phạm quy định tại Điều 22, Điều 23, Điều 24 Nghị định 180/2007/NĐ-CP và Khoản 2, Điều 2, Thông tư 02/2014/TT-BXD có sự không thống nhất về trình tự thời gian và các loại văn bản có liên quan (thời gian ban hành quyết định cưỡng chế phá dỡ). Đề nghị cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn. Hiện nay, Luật Xây dựng đã hiệu lực thi hành nhưng các văn bản hướng dẫn xử lý vi phạm về trật tự xây dựng theo luật lại chưa có, gây khó khăn cho việc thực hiện, đặc biệt là vi phạm trật tự xây dựng đô thị. Đề nghị các Bộ, ngành có liên quan sớm ban hành văn bản thay thế các văn bản cũ.