“Biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em”

Vợ chồng anh Tình, chị Duyên đã có một con chung. Do muốn anh Tình xuất cảnh ra nước ngoài làm ăn bằng việc kết hôn giả với Việt kiều nên hai vợ chồng đã bàn với nhau và thực hiện việc ly hôn giả từ năm 2004. Việc xuất cảnh không thành nhưng anh Tình và chị Duyên vẫn chung sống mà không đăng ký kết hôn. Tháng 6 năm 2006, chị Duyên sinh thêm một con gái. Anh Tình mang Giấy chứng sinh của cháu bé đến Uỷ ban nhân dân để đăng ký khai sinh cho con. Do biết rõ về việc anh Tình và chị Duyên dù có ly hôn nhưng thực tế vẫn chung sống với nhau nên cán bộ tư pháp - hộ tịch đã vận dụng quy định tại Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Trong trường hợp cán bộ tư pháp - hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn” để đăng ký khai sinh cho cháu bé theo thủ tục thông thường. Việc giải quyết đăng ký khai sinh cho con của anh Tình, chị Duyên trong trường hợp này có đúng pháp luật không? Gửi bởi: Admin Portal

Quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP: “Trong trường hợp cán bộ tư pháp - hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn” là một quy định mới, có tính chất là quy phạm tuỳ nghi, nhằm tạo điều kiện để cơ quan đăng ký hộ tịch có thể vận dụng giải quyết nhanh chóng việc đăng ký khai sinh cho trẻ em trong trường hợp biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ. Tuy nhiên, vấn đề cần xem xét trong tình huống là cán bộ tư pháp - hộ tịch có được vận dụng quy định này để đăng ký khai sinh theo thủ tục thông thường cho con của anh Tình và chị Duyên hay không?
Quy định chung về thủ tục đăng ký khai sinh trong trường hợp thông thường yêu cầu người đi đăng ký khai sinh phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn làm căn cứ để xác định các thông tin về cha, mẹ trẻ, từ đó ghi các thông tin cần thiết vào phần khai về người cha và phần khai về người mẹ trong Giấy khai sinh của trẻ. Tuy nhiên, theo tinh thần cải cách thủ tục hành chính, đồng thời xuất phát từ thực tế là cán bộ tư pháp - hộ tịch ở cơ sở, nhất là ở khu vực nông thôn có thể nắm vững nhân thân của dân cư trên địa bàn nên pháp luật cho phép trong trường hợp biết rõ về tình trạng hôn nhân của cha, mẹ trẻ thì không cần xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn khi khai sinh cho trẻ. Điều kiện cần thiết để có thể vận dụng quy định này là người có trách nhiệm đăng ký kết hôn phải biết rõ và khẳng định chắc chắn về quan hệ hôn nhân hợp pháp của cha mẹ trẻ. Trong trường hợp này, mặc dù anh Tình và chị Duyên trên thực tế vẫn chung sống với nhau nhưng về mặt pháp lý, quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa họ đã chấm dứt từ năm 2004 bằng việc ly hôn tại Toà án. Muốn được công nhận quan hệ hôn nhân của mình, anh Tình và chị Duyên phải làm thủ tục đăng ký kết hôn lại theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn”. Chỉ sau khi đăng lý kết hôn lại, giữa anh Tình và chị Duyên mới tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Trong tình huống này, cán bộ tư pháp - hộ tịch biết rõ về tình trạng hôn nhân của anh Tình và chị Duyên và cần khẳng định: vào thời điểm anh Tình đến đăng ký khai sinh cho con thì giữa anh Tình và chị Duyên không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp. Như vậy, tình trạng hôn nhân của anh Tình và chị Duyên không thoả mãn điều kiện để áp dụng quy định cho phép miễn xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn, và con của chị Duyên sinh ra không đương nhiên được xác định là con chung của anh Tình và chị Duyên. Do vậy, cán bộ tư pháp - hộ tịch cần giải quyết như sau:
Phân tích để anh Tình hiểu được những bất lợi của việc chung sống không đăng ký kết hôn, vận động anh Tình và chị Duyên đăng ký kết hôn lại. Sau khi hoàn thành việc đăng ký kết hôn mới thực hiện việc đăng ký khai sinh cho con của họ. Lúc này cháu bé mới được xác định là con chung theo nguyên tắc xác định cha, mẹ, con theo quy định tại Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình: “Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận cũng là con chung của vợ chồng”.
Nếu anh Tình, chị Duyên chưa muốn hoặc không muốn thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn ngay, mà chỉ muốn đăng ký khai sinh cho con thì phải áp dụng thủ tục khai sinh cho con ngoài giá thú để đăng ký khai sinh cho cháu bé. Trong trường hợp này, nếu anh Tình muốn được xác định là cha của cháu bé và ghi tên mình vào phần khai về người cha trong Giấy khai sinh của cháu bé thì phải làm thủ tục đăng ký nhận con. Cán bộ tư pháp - hộ tịch sẽ kết hợp giải quyết cùng lúc 2 thủ tục đăng ký nhận con và đăng ký khai sinh (tương tự như Tình huống "Huỷ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn").

Quan hệ hôn nhân
Hỏi đáp mới nhất về Quan hệ hôn nhân
Hỏi đáp Pháp luật
Sống thử có được pháp luật hôn nhân bảo vệ không?
Hỏi đáp Pháp luật
Vợ chồng có bắt buộc phải sống chung với nhau không? Thời điểm chấm dứt hôn nhân là thời điểm nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Tội ngoại tình trong Luật hôn nhân gia đình được quy định như thế nào? Ngoại tình với người đã có gia đình sẽ bị xử lý như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Bình đẳng giữa vợ và chồng được hiểu là vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đúng không?
Hỏi đáp Pháp luật
Hành vi ngoại tình đến mức nào thì bị đi tù?
Hỏi đáp Pháp luật
Giao kết hợp đồng hôn nhân trái pháp luật sẽ bị xử phạt như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Thủ tục cập nhật từ chứng minh nhân dân sang căn cước công dân vào tài sản riêng trước thời kỳ hôn nhân là sổ đỏ được thực hiện như thế nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Xé giấy đăng ký kết hôn thì có chấm dứt quan hệ hôn nhân không?
Hỏi đáp Pháp luật
Bố mẹ đăng ký kết hôn lại sau khi ly hôn thì có tài sản chung không?
Hỏi đáp Pháp luật
Con ngoài giá thú có quyền lợi gì?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Quan hệ hôn nhân
Thư Viện Pháp Luật
396 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Quan hệ hôn nhân

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Quan hệ hôn nhân

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào