Chiếm đoạt xe đã bán có hợp đồng mua bán công chứng

Năm 2014 tôi có mua lại chiếc xe ô tô cũ của một người tên L, không chính chủ nhưng có giấy tờ mua bán chính chủ cho anh L. mua bán có làm giấy tờ có xác nhận của công an phường xã nơi anh L cư trú. Mua xong tôi chưa sang tên, một thời gian sau anh L đến thuê chiếc xe đó của tôi làm phương tiện đi lại, hai bên có làm hợp đồng thuê xe, sau khi hết thời gian như trong hợp đồng anh L không trả xe cho tôi. Anh L tiếp tục xin gia hạn với lí do đang bận chưa mang xe về trả cho tôi được, tôi đã đồng ý. Nhưng đến hẹn anh L vẫn không trả xe cho tôi, tôi tìm hiểu thực tế anh L đã bán chiếc xe đó, anh L chưa trả tiền thuê xe cho tôi đúng như trong hợp đồng và hiện tại anh L không có mặt tại địa phương. Tôi xin hỏi như vậy anh L có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không thưa luật sư? Mong nhận được tư vấn của Ban biên tập Thư Ký Luật. Chân thành cảm ơn!

Theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

..."

Đồng thời theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

"1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

  a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

  b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

..."

Có thể thấy, năm 2014 bạn đã mua lại một chiếc ô tô cũ của một người tên L và bạn đã có giấy mua bán cũ của chủ sở hữu cũ của chiếc xe với anh L chỉ chưa làm thủ tục sang tên thì bạn đã được coi là có đủ điều kiện để làm thủ tục này và cũng được coi bạn là chủ sở hữu hiện tại của chiếc xe. Việc bạn kí kết hợp đồng cho thuê xe với L là hoàn toàn hợp pháp nên khi hết thời gian thuê trong hợp đồng thì bạn sẽ có quyền đòi lại chiếc xe của mình, tuy nhiên L đã có hành vi kéo dài thời gian đòi gia hạn hợp đồng và đã bán chiếc xe đó cho một người khác mà không được sự đồng ý của bạn. Trong trường hợp này, xét trên các yếu tố về mặt cấu thành tội phạm thì rất có thể L đã phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải tội lừa đảo, nhưng việc khẳng định L có phạm tội hay không và phạm tội gì thì còn tùy thuộc vào kết quả của quá trình điều tra của cơ quan công an và quá trình tố tụng nếu có hành vi phạm tội. Bạn nên tới cơ quan công an tố giác về hành vi này của L để cơ qan công an có thể thụ lý và điều tra một cách nhanh và kịp thời nhất, căn cứ quy định tại Điều 101 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về tố giác và tin báo về tội phạm:

"Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác.

Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản."

Trên đây là tư vấn về hành vi chiếm đoạt xe đã bán có hợp đồng mua bán công chứng. Bạn nên tham khảo chi tiết Bộ luật hình sự 1999 để nắm rõ quy định này.

Trân trọng!

Công chứng
Hỏi đáp mới nhất về Công chứng
Hỏi đáp Pháp luật
Có cần công chứng hợp đồng mua bán hộ kinh doanh hay không?
Hỏi đáp Pháp luật
Cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm các thông tin gì? Việc cấp bản sao văn bản công chứng được thực hiện trong trường hợp nào?
Hỏi đáp Pháp luật
Công chứng là gì? Những giao dịch nào bắt buộc công chứng?
Hỏi đáp Pháp luật
Phí công chứng giấy tặng cho đất là bao nhiêu?
Hỏi đáp Pháp luật
Đang bị tạm giam không thể đến tổ chức hành nghề công chứng để công chứng thì phải làm sao?
Hỏi đáp Pháp luật
Phí công chứng, chứng thực hợp đồng sang tên Sổ đỏ 2024 là bao nhiêu?
Hỏi đáp Pháp luật
Chi phí công chứng ngoài giờ hành chính tại tổ chức hành nghề công chứng là bao nhiêu?
Hỏi đáp Pháp luật
Mẫu giấy đăng ký tham gia khóa bồi dưỡng nghề công chứng mới nhất 2024?
Hỏi đáp Pháp luật
Hợp đồng đặt cọc có bắt buộc phải công chứng không?
Hỏi đáp Pháp luật
Công chứng ngoài trụ sở được không? Chi phí thế nào?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Công chứng
Thư Viện Pháp Luật
413 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Công chứng

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Công chứng

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào