Di chúc miệng không có xác nhận của chính quyền

Năm 2002 bà Nguyễn Thị An (chồng đã chết, không để lại di chúc) viết giấy giao cho con gái thứ 6 là Lê Thị Ngân được sử dụng thửa đất bà đang ở, có xác nhận của UBND xã. Năm 2005 bà An chết. Trước khi chết, bà An gọi tất cả các con lại và nói là mảnh đất bà đang ở sẽ chia đều cho 6 người con, mọi người đều nghe và viết lại lời bà An nói, cùng ký, nhưng không có xác nhận của chính quyền. Sau đó, chị Ngân làm đơn kiện, cho rằng mảnh đất trên thuộc quyền sử dụng của mình, không chia cho ai hết. Xin hỏi như vậy có đúng không?

Khoản 1 Điều 167 Luật Đất đai quy định: Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này. Do đó, bà An với tư cách là chủ sử dụng đất có toàn quyền chuyển giao thửa đất của mình cho người khác.

Theo thông tin bạn cung cấp, năm 2002, bà An đã viết giấy giao cho con gái là Lê Thị Ngân được sử  dụng thửa đất. Với thông tin này thì không thể xác định được rằng: bà An chỉ ủy quyền cho bà Ngân sử dụng mảnh đất; hay đã chuyển quyền (chuyển nhượng/tặng cho) mảnh đất đó cho bà Ngân.

Nếu bà An chỉ cho bà Ngân sử dụng mảnh đất mà không chuyển quyền sử dụng thửa đất đó thì chủ sử dụng thửa đất vẫn là bà An. Bà An có toàn quyền định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật, trong đó có việc để lại thừa kế theo di chúc.

Nếu theo giấy viết có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, bà An đã chuyển quyền sử dụng thửa đất cho bà Ngân thì bà Ngân có quyền thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để trở thành chủ sử dụng đối với mảnh đất đó.

Lưu ý: Theo thông tin bạn cung cấp, trước khi chết, bà An để lại di chúc miệng. Việc lập di chúc miệng là phù hợp với quy định của pháp luật: Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ. Tuy nhiên, di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp khi: Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực (theo khoản 5 điều 652 Bộ luật Dân sự). Theo quy định này thì di chúc của bà An không được coi là hợp pháp (những người làm chứng đã ghi lại nhưng không công chứng, chứng thực).

Di chúc bằng miệng
Hỏi đáp mới nhất về Di chúc bằng miệng
Hỏi đáp Pháp luật
Di chúc miệng của người khoẻ mạnh có hiệu lực hay không?
Hỏi đáp Pháp luật
Di chúc miệng là gì? Di chúc miệng cần đáp ứng những điều kiện gì?
Hỏi đáp Pháp luật
Điều kiện được lập di chúc miệng? Khi nào thì di chúc miệng hết hiệu lực?
Hỏi đáp pháp luật
Mặc nhiên huỷ bỏ di chúc miệng?
Hỏi đáp pháp luật
Giá trị pháp lý của di chúc miệng
Hỏi đáp pháp luật
Chia di sản trong trường hợp người để lại di sản để lại di chúc miệng
Hỏi đáp pháp luật
Trường hợp thực hiện di chúc miệng
Hỏi đáp pháp luật
Di chúc miệng có hiệu lực không?
Hỏi đáp pháp luật
Di chúc miệng có hợp pháp hay không?
Hỏi đáp pháp luật
Di chúc miệng có giá trị không?
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Di chúc bằng miệng
Thư Viện Pháp Luật
199 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Di chúc bằng miệng
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào