Các trường hợp phạm tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn
Tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn có các trường hợp phạm tội cụ thể như sau:
1. Phạm tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 218, là cấu thành cơ bản của tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn, người phạm tội bị phạt tù từ một đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 218, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt (một năm tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có bị phạt đến năm năm tù.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 218
Khác với khoản 2 của các điều luật quy định về trường hợp phạm tội đưa vào sử dụng các phương tiện giao thông không đảm bảo an toàn, khoản 2 Điều 218 được cấu tạo như khoản 1 của các điều luật quy định về các tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy không bảo đảm an toàn. Tức là hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông không đảm bảo an toàn mà gây ra thiệt hại đến tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe , tài sản của người khác, thì đó là yếu tố định khung hình phạt.
Việc xác định thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác cũng tương tự như đối với các tội đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường bộ, đường sắt và đường thủy không bảo đảm an toàn.
Trong khi không có hướng dẫn chính thức, có thể căn cứ vào Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng để xác định thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác do hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, thì người phạm tội bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 218, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 218
Khoản 3 của điều luật chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đó là Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Cũng như trường hợp gây thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 của điều luật, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP để xác định hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật, thì người phạm tội bị phạt tù từ tám năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 3 Điều 218, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới tám năm tù), nhưng không được dưới ba năm. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng , không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4.Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 218
Khoản 4 của điều luật cũng chỉ quy định một tình tiết là yếu tố định khung hình phạt đó là gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Cũng như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp phạm tội quy định tại khoản 4 của điều luật, có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không bảo đảm an toàn gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật, thì người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 4 Điều 218, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười hai năm tù), nhưng không được dưới tám năm tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt dưới hai mươi năm tù.
5.Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.
- Không ký hợp đồng thi công công trình xây dựng với chủ đầu tư thì có phải kê khai thuế GTGT vãng lai không?
- Trường hợp giá dịch vụ thoát nước do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thấp hơn mức giá đã được tính đúng thì xử lý thế nào?
- Từ 1/1/2025, trường hợp nào được phép vượt xe bên phải mà không phạm luật?
- Căn cứ xác định giá gói thầu là gì? Giá gói thầu cập nhật trong thời gian nào?
- Từ 01/01/2025, hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá gồm những giấy tờ gì?