Kẻ bắt cóc trẻ em tống tiền và hại chết bé đối diện với án tử hình?

Kẻ bắt cóc trẻ em tống tiền và hại chết bé đối diện với án tử hình?

Như thông tin báo chí đã đăng tải vào chiều 4-4, em N.(11 tuổi, trú tại khu phố 6, thị trấn Liên Hương, huyện Tuy Phong) đi học võ, nhưng mãi đến tối gia đình không thấy em về nhà.

Tìm mãi vẫn không có thông tin gì về em, đến khuya gia đình bất ngờ nhận được tin nhắn từ số lạ đòi chuộc em với giá 200 triệu đồng.

Qua điều tra xác định dối tượng Nguyễn Thanh Vũ (23 tuổi) người ở cùng xóm với nạn nhân là kẻ bắt cóc đòi tiền chuộc.

Sau khi bị bắt, Vũ khai với cơ quan công an là đã giết chết, chôn xác em N. tại một khu đồng trống ở xã Bình Thạnh, cách thị trấn Liên Hương chừng 6km.

Có cơ sở để xử lý hình sự về hai tội danh

Thứ nhất, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Đối tượng của hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp này là bé trai 11 tuổi, tức là phạm tội đối với trẻ em, thỏa mãn cấu thành tăng nặng được quy định tại điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự, mức cao nhất của khung hình phạt đối với hành vi trong trường hợp này có thể lên tới mười hai năm tù:

Bên cạnh đó, trường hợp nêu trên, đối tượng này có sử dụng vũ lực nhằm khống chế bé, hậu quả chết người xảy ra là cơ sở để chuyển khung tăng nặng sang khoản 4 của điều 134 Bộ luật hình sự và mức cao nhất của khung hình phạt cho tội danh mà đối tượng này đã thực hiện có thể lên tới tù chung thân.

Tuy nhiên, cần xem xét hậu quả chết người ở đây là do việc khống chế, giam giữ, dùng vũ lực để thực hiện mục đích đòi tiền chuộc hay là hậu quả xảy ra từ hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của bé trai 11 này.

Trường hợp qua đấu tranh, xác định Nguyễn Thanh Vũ vừa thực hiện hành vi bắt cóc bé trai 11 tuổi nhằm chiếm đoạt tài sản từ gia đình bé, vừa thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân thì ngoài bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, đối tượng này còn có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 93 Bộ luật hình sự,người nào giết trẻ em, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

“c) Giết trẻ em;”

Như vậy, nếu có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự Vũ về hai tội danh nêu trên, tổng hợp hình phạt của cả tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và giết người thì đối tượng này phải đối mặt với hình phạt tử hình.

Theo dõi trang Vì Công Lý để cập nhật những tin tức mới nhất và những giải đáp kịp thời về mặt pháp lý đối với nhiều vụ việc gây xôn xao dư luận hiện nay.

Người bị thi hành án tử hình
Hỏi đáp mới nhất về Người bị thi hành án tử hình
Hỏi đáp pháp luật
Thân nhân của người thi hành tử hình được nhận tử thi không?
Hỏi đáp pháp luật
Người bị tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc phải trải qua bao nhiêu mũi tiêm?
Hỏi đáp pháp luật
Chi phí mai táng nếu người bị THA tử hình được thân nhân nhận tử thi về nhà do ai chi trả?
Hỏi đáp pháp luật
Người thân có quyền nhận lại tử thi người bị tử hình không?
Hỏi đáp pháp luật
Người nhà liệu có được nhận tro cốt của người bị tử hình hay không?
Hỏi đáp pháp luật
Trường hợp nào người bị kết án tử hình được trích xuất ra khỏi buồng giam?
Hỏi đáp pháp luật
Quyền của người bị kết án tử hình được bảo đảm như thế nào?
Hỏi đáp pháp luật
Việc thăm gặp đối với người bị kết án tử hình
Hỏi đáp pháp luật
Người bị tuyên án tử hình có được hiến cơ thể cho y học không?
Hỏi đáp pháp luật
Trách nhiệm của cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh đối với án tử hình
Đặt câu hỏi

Quý khách cần hỏi thêm thông tin về có thể đặt câu hỏi tại đây.

Đi đến trang Tra cứu hỏi đáp về Người bị thi hành án tử hình
Thư Viện Pháp Luật
318 lượt xem
Tra cứu hỏi đáp liên quan
Người bị thi hành án tử hình

TÌM KIẾM VĂN BẢN
Xem toàn bộ văn bản về Người bị thi hành án tử hình

Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Giấy phép số: 27/GP-TTĐT, do Sở TTTT TP. HCM cấp ngày 09/05/2019.
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: 028 3930 3279
Địa chỉ: P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;
Địa điểm Kinh Doanh: Số 17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q3, TP. HCM;
Chứng nhận bản quyền tác giả số 416/2021/QTG ngày 18/01/2021, cấp bởi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch
Thông báo
Bạn không có thông báo nào