Kính gửi:
|
- Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, TP trực thuộc
Trung ương
- Viện kiểm sát Quân sự Trung ương
|
Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của Viện kiểm sát nhân
dân (VKSND) các địa phương về những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn công
tác kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính (THADS, THAHC); sau khi
trao đổi với Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp, Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học (Vụ
14), VKSND tối cao, Vụ kiểm sát THADS (Vụ 11) giải đáp, hướng dẫn một số nội
dung như sau:
1. Luật
THADS quy định Cơ quan THADS phải gửi cho VKS Quyết định chưa có điều kiện THA
nhưng không quy định phải gửi kèm Biên bản xác minh gần nhất cho VKS. Việc phối
hợp giữa Kiểm sát viên (KSV) và Chấp hành viên (CHV) để photo hoặc cung cấp
Biên bản xác minh gần nhất gặp nhiều khó khăn.
Trả lời: Sau khi nhận được quyết định
chưa có điều kiện THA của Cơ quan THADS cùng cấp mà Viện kiểm sát xét thấy cần
phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc để kiểm sát thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan
THADS chuyển hồ sơ, tài liệu (Biên bản xác minh gần nhất, có căn cứ xác định
người phải THA chưa có điều kiện THA) theo quy định tại điểm d
khoản 6 Điều 28 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, điểm b khoản 2
Điều 12 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)1,
Điều 4 Quy chế công tác kiểm sát THADS, THAHC 2
(Ban hành kèm theo Quyết định số 810/QĐ-VKSTC-V11 ngày
20/12/2016 của Viện trưởng VKSND tối cao).
VKSND các cấp cần chủ động phối hợp với Cơ quan
THADS cùng cấp thống nhất đưa vào Quy chế phối hợp liên ngành của hai cơ quan nội
dung: “Cơ quan THADS ban hành và gửi Quyết định chưa có điều kiện THA kèm
theo Biên bản xác minh gần nhất, có căn cứ xác định người phải THA chưa có điều
kiện thi hành cho Viện kiểm sát”.
2. Đề
nghị có hướng dẫn cụ thể về việc kiểm sát đối với trường hợp chưa có điều kiện
thi hành án, được chuyển sang sổ theo dõi riêng khi “có thông tin mới” về
điều kiện THA của người phải THA.
Trả lời: Khoản 6 Điều
9 Văn bản hợp nhất số 1357/VBHN-BTP ngày 14/4/2020 của Bộ Tư pháp (hợp nhất
Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS
quy định: “… việc THA chưa có điều kiện được thống kê riêng để theo dõi. Khi
có thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA theo quy định tại khoản 4
Điều này, ...nếu người phải THA có điều kiện THA trở lại thì Cơ quan THADS ra
quyết định tiếp tục THA”.
“Thông tin mới” được hiểu là những thông
tin, nguồn tin (có thể do đương sự, do các cơ quan, tổ chức cung cấp; có thể
thông qua phương tiện thông tin hoặc các nguồn tin khác) về tài sản của người
phải THA không có trong kết quả xác minh về điều kiện THA của các lần trước.
Khi nhận được thông tin mới về điều kiện THA của người phải THA thì Cơ quan
THADS phải tiến hành xác minh ngay để có cơ sở tiếp tục tổ chức thi hành.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao, khi biết được “thông tin mới” về điều kiện THA của người phải THA thì VKS
các cấp cần chủ động, kịp thời yêu cầu Cơ quan THADS thực hiện ngay việc xác
minh hoặc VKS trực tiếp xác minh. Căn cứ kết quả xác minh, nếu “người phải thi
hành án có điều kiện thi hành” thì VKS thực hiện quyền kiến nghị, yêu cầu Cơ
quan THADS ra quyết định tiếp tục THA theo quy định tại khoản 2
Điều 44a Luật THADS.
Cần lưu ý: Đối với các khoản thu, nộp Ngân sách nhà
nước, Cơ quan THADS vẫn phải tiến hành rà soát, chủ động xác minh để xét miễn,
giảm nghĩa vụ THA theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 5 Thông
tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSTC ngày 15/9/2015 hướng dẫn
việc miễn, giảm nghĩa vụ THA đối với khoản thu, nộp Ngân sách nhà nước.
3. Quy
định tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật THADS và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 50 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP có sự chồng chéo về
thẩm quyền ủy thác tư pháp về THA, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện.
Trả lời: Hướng dẫn tại khoản
1 Điều 50 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP không có sự chồng chéo với quy định tại
điểm i khoản 2 Điều 35 Luật THADS về thẩm quyền ủy thác tư
pháp về THA. Điều 35 Luật THADS quy định thẩm quyền THA,
xác định thẩm quyền thi hành ngay từ giai đoạn đầu của quá trình THA; trong đó,
tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật THADS quy định Cơ quan
THADS cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành đối với bản án, quyết định mà có đương sự
hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp về THA. Còn hướng dẫn tại
khoản 1 Điều 50 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP về việc trong
giai đoạn Cơ quan THADS cấp huyện đang tổ chức THA mà cần có yêu cầu tương trợ
tư pháp thì Cơ quan THADS cấp huyện có thể lập hồ sơ ủy thác tư pháp và gửi Cơ
quan THADS cấp tỉnh để thực hiện việc ủy thác tư pháp, sau đó tiếp tục tổ chức
việc THA theo quy định tại khoản 14 Điều 1 Nghị định số
33/2020/NĐ-CP.
4. Đề
nghị hướng dẫn về điều kiện hoãn THA theo quy định tại điểm
b khoản 1 Điều 48 Luật THADS đối với trường hợp
“vì lý do chính đáng khác mà người phải THA
không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định”.
Trả lời: Trên cơ sở trao đổi, thống
nhất với VKSND tối cao (Vụ 11), Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp đã ban hành Công
văn số 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017 hướng dẫn một số vấn đề về nghiệp vụ
THADS; trong đó, tại điểm 10 Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 đã hướng dẫn như sau:
“Hiện nay, pháp luật chưa quy định cụ thể trường hợp nào là “lý do chính
đáng” để hoãn THA theo điểm b khoản 1 Điều 48 luật THADS.
Do đó, trong thời gian tới, nội dung này cần được nghiên cứu, giải quyết trong
quá trình hoàn thiện thể chế. Trước mắt, để thống nhất thực hiện, đối với trường
hợp người phải THA không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định
(không phải là các trường hợp THA nghĩa vụ về tài sản, mà là nghĩa vụ THA về
nhân thân), cơ quan THADS địa phương có thể tham khảo, vận dụng các trường hợp
quy định tại Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (quy định đối
với trường hợp bất khả kháng, trở ngại khách quan) làm căn cứ được coi là có
“lý do chính đáng” để hoãn THA như: Đối với trường hợp thiên tai, hỏa hoạn, địch
họa; đương sự đi công tác ở vùng biên giới, hải đảo; tai nạn, ốm nặng đến mức mất
khả năng nhận thức mà không thể tự mình thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định
như công khai, xin lỗi...”.
Do vậy, đề nghị các đơn vị nghiên cứu nội dung hướng
dẫn tại Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 nêu trên để vận dụng.
5. Tại
điểm e khoản 1 Điều 48 Luật THADS quy
định: Người được nhận tài sản đã được
thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhưng không đến nhận thì Thủ trưởng
Cơ quan THADS ra quyết định hoãn THA. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều
126 Luật THADS quy định về việc
hoàn trả lại tiền, tài sản tạm giữ: Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận
được thông báo, mà đương sự không đến nhận tiền thì CHV gửi số tiền đó theo
hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và thông báo cho đương sự. Hết thời hạn 3
ngày, kể từ ngày được thông báo, nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không
có lý do chính đáng thì CHV xử lý tài sản theo quy định tại các Điều 98, Điều 99 và Điều 101 Luật THADS và gửi số tiền thu được
theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Như
vậy, quy định tại điểm e khoản 1 Điều 48 và khoản 2 Điều 126 Luật THADS có sự mâu thuẫn với nhau.
Trả lời: Quy định tại điểm
e khoản 1 Điều 48 và khoản 2 Điều 126 Luật THADS
không có sự mâu thuẫn với nhau. Quy định tại điểm e khoản 1 Điều
48 Luật THADS thuộc diện Cơ quan THADS ra quyết định THA khi có yêu cầu
THA, được áp dụng trong trường hợp người được nhận tài sản đã được thông báo hợp
lệ 02 lần nhưng không đến nhận thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn
THA. Còn quy định tại khoản 2 Điều 126 Luật THADS được áp dụng
đối với trường hợp Cơ quan THADS chủ động ra quyết định THA trả lại tiền, tài sản
tạm giữ cho đương sự; sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, CHV
thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận tiền, tài sản.
6. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật THADS, trường hợp người được THA, người phải THA là cá nhân đã
chết, thì quyền, nghĩa vụ THA được chuyển giao cho người khác theo pháp luật thừa
kế. Đồng thời, tại khoản 3 quy định: ... Thủ trưởng Cơ quan THADS ra Quyết định THA đối
với cá nhân, tổ chức mới tương ứng được chuyển giao và ra quyết định thu hồi
quyết định THA trước đây.
Nhưng theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài
sản mà người phải THA đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản đó thì Cơ quan THADS ấn định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được
thông báo hợp lệ, để người quản lý, sử dụng tài sản của người phải THA giao tài
sản cho người được THA. Hết thời hạn này mà họ không thực hiện thì cơ quan
THADS tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng chế giao tài sản cho người được THA
theo quy định của pháp luật. Như vậy, nghĩa vụ trả nhà của người đã chết (cha,
mẹ) có chuyển giao cho những người con theo khoản 2 Điều 54 Luật
THADS hay không?
Trả lời: Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP thì quyền,
nghĩa vụ THA được chuyển giao cho người khác theo quy định của pháp luật về thừa
kế quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật THADS được thực hiện
như sau: Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải THA đã chết
nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì Cơ quan THADS ấn
định trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ, để người quản
lý, sử dụng tài sản của người phải THA giao tài sản cho người được THA ...
Do đó, việc chuyển giao nghĩa vụ trả tài sản (trả
nhà) của người phải THA đã chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng
tài sản đó thì thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
15 Nghị định 62/2015/NĐ-CP, không chuyển giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
7. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật THADS thì Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác THA cho Cơ
quan THADS nơi người phải THA có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Trường
hợp sau khi Cơ quan THADS nhận ủy thác ban hành quyết định THA, tiến hành xác
minh thì người phải THA mặc dù có đăng ký hộ khẩu thường trú nhưng không sinh sống
và không có tài sản tại địa phương hoặc có đăng ký hộ khẩu thường trú trên địa
bàn, sau đó đã chuyển đến địa phương khác để sinh sống nhưng không làm thủ tục
chuyển, cắt khẩu; khi tiến hành xác minh thì chính quyền cấp xã cung cấp thông
tin về địa chỉ chỗ ở mới của người phải THA, nhưng xác định người này không
đăng ký hoặc chỉ sống chung với hộ gia đình khác, không có tài sản... Vậy căn cứ
nào để thu hồi quyết định THA và ra quyết định ủy thác tiếp?
Trả lời: Theo quy định tại Mục 1 khoản 3 Điều 9 Luật số 03 ngày 01/3/2022 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật THADS, thì Điều 57 được sửa đổi,
bổ sung như sau: “…Trường hợp đã ra quyết định THA nhưng xét thấy cần ủy
thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định THA”.
Như vậy, đối với trường hợp Cơ quan THADS nhận ủy thác đã ra quyết định THA, tiến
hành xác minh, xác định người phải THA mặc dù có đăng ký hộ khẩu thường trú
nhưng không sinh sống và không có tài sản tại địa phương hoặc có đăng ký hộ khẩu
thường trú trên địa bàn, sau đó đã chuyển đến địa phương khác để sinh sống
nhưng không làm thủ tục chuyển, cắt khẩu; sau khi xác minh điều kiện của người
phải THA tại địa chỉ chỗ ở mới thì Thủ trưởng Cơ quan THADS nhận ủy thác căn cứ
quy định nêu trên để thu hồi quyết định THA và ra quyết định ủy thác THA (ủy
thác tiếp) đến Cơ quan THADS nơi cư trú tại địa chỉ mới của người phải THA. Cần
căn cứ quy định của Điều 11, Điều 19 Luật Cư trú để làm cơ
sở xác định nơi cư trú của đương sự trước khi thực hiện việc ủy thác THA.
8. Trường
hợp tài sản sau khi đã kê biên, xử lý đang được bảo quản và trả phí gửi giữ, bảo
quản thì có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đề nghị hoãn THA để xem xét
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 48 Luật THADS, Thủ
trưởng Cơ quan THADS ra Quyết định hoãn thi hành. Sau khi người có thẩm quyền
xem xét và ra văn bản trả lời không kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án, quyết định nêu trên thì vụ việc được tiếp tục đưa ra thi hành. Vậy chi
phí gửi giữ, bảo quản tài sản trong thời gian hoãn THA sẽ do cá nhân, cơ quan
nào chi trả?
Trả lời: Tại khoản 3
Điều 58 Luật THADS quy định: Thù lao và chi phí bảo quản tài sản do người
phải THA chịu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Theo quy định
trên, thì chi phí gửi giữ, bảo quản tài sản THA do người phải THA chịu (thường
thì là người có tài sản gửi giữ). Tuy nhiên, đối với trường hợp người đề nghị
xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
không phải là người phải THA (trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan), nhưng theo quy định trên thì người phải THA vẫn phải chịu chi phí bảo quản
tài sản trong thời gian hoãn THA là chưa phù hợp, gây thiệt hại cho người phải
THA.
Do vậy, VKSND tối cao (Vụ 11) sẽ tổng hợp để đề nghị
sửa đổi, bổ sung Luật THADS cho phù hợp.
9. Đối
với tài sản là động sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng (ô tô, xe máy, tàu thủy...),
trong trường hợp tài sản còn giấy chứng nhận đăng ký quyền sở hữu, sử dụng
nhưng thực tế đã được chuyển nhượng bằng hình thức giấy viết tay hoặc vì lý do
khác như cho thuê, cho mượn... không thu hồi được tài sản nên không thể thực hiện
được việc kê biên tài sản để THA. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành thì chưa
có căn cứ để xác định đây là việc chưa có điều kiện THA. Đề nghị hướng dẫn biện
pháp giải quyết?
Trả lời: Đối với tài sản kê biên là động
sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì Cơ quan THADS phải áp dụng quy định tại
Điều 69 Luật THADS, ban hành văn bản yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản.
Khi kê biên tài sản là phương tiện giao thông thì
Cơ quan THADS phải áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 96 Luật
THADS, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấm chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp,
cho thuê hoặc hạn chế phương tiện được phép tham gia giao thông.
Trường hợp kết quả xác minh xác định tài sản còn giấy
chứng nhận đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, nhưng nếu xác định tài sản đã cháy, hỏng,
không còn giá trị và giá trị sử dụng thì CHV thông báo cho người được THA biết
và tiếp tục xác minh, tìm tài sản khác để kê biên; nếu kết quả xác minh xác định
không còn tài sản khác để THA thì thuộc trường hợp chưa có điều kiện THA.
10. Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 98 Luật
THADS thì ngay khi kê biên tài sản mà đương sự
thỏa thuận được về giá tài sản... thì CHV ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm
định giá đó. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày kê biên tài sản, CHV ký
hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên... Với quy định trên là chưa phù hợp với
thực tế, vì Văn phòng đăng ký đất đai thường cung cấp Bảng vẽ kỹ thuật đo đạc đất
cho Cơ quan THADS trong thời gian từ 01 tháng đến 03 tháng. Do vậy, CHV chậm ký
hợp đồng thẩm định giá là do lỗi khách quan. Tuy nhiên, Luật chưa có quy định
nghĩa vụ của Văn phòng đăng ký đất đai cung cấp số liệu đo đạc cho Cơ quan
THADS trong thời gian là bao lâu sau khi tham gia phối hợp cưỡng chế kê biên.
Trả lời: Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 Luật THADS thì trước khi kê biên CHV phải yêu
cầu Văn phòng đăng ký đất đai cung cấp thông tin về quyền sử dụng đất (QSDĐ) và
trong quá trình xác minh được thực hiện trước khi kê biên, CHV phải xác định được
rõ tình trạng pháp lý của tài sản, vị trí, diện tích, sơ đồ hiện trạng của thửa
đất...; riêng đối với QSDĐ mà tại bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên thì
yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ về đất có tranh chấp để kết hợp với tài liệu do
Văn phòng đăng ký đất đai cung cấp để làm căn cứ kê biên và thẩm định giá, bán
đấu giá tài sản. Nếu có sự chênh lệch thì CHV cần có văn bản trao đổi với các
cơ quan có thẩm quyền để làm cơ sở cho việc xử lý tiếp theo. Nếu các cơ quan có
liên quan không phối hợp thì báo cáo Ban chỉ đạo THADS để cho ý kiến chỉ đạo.
Trên cơ sở đó, CHV tiến hành kê biên và xử lý tài sản và không vi phạm thời hạn
được quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS.
11. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều
98 Luật THADS thì CHV được ký hợp đồng dịch vụ
với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trong trường hợp “Thi hành phần bản án,
quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật THADS”.
Nhưng khoản 1 Điều 36
Luật THADS quy định về việc ra
quyết định THA theo đơn yêu cầu, trường hợp này thì đương sự lại có quyền thỏa
thuận về giá và lựa chọn tổ chức thẩm định giá theo quy định pháp luật. Trong
khi đó khoản 2 Điều 98 Luật THADS lại không quy định về việc định
giá đối với trường hợp thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 2 Điều 36 của Luật THADS.
Trả lời: Về vấn đề này đã được hướng
dẫn tại mục 9 Công văn số 1103/TCTHADS-NV1 ngày 30/3/2017 của Tổng cục THADS- Bộ
Tư pháp, cụ thể: “Điểm c khoản 2 Điều 98 Luật THADS năm 2014
đã quy định là những trường hợp THA chủ động. Tuy nhiên, tại Điều
36 Luật THADS được sửa đổi năm 2014, trong đó có việc sắp xếp lại thứ tự khoản 1 và khoản 2 (những trường hợp THA chủ động quy định tại
khoản 1 được chuyển thành khoản 2 và
ngược lại) nhưng Điều 98 vẫn được giữ nguyên, nên việc viện
dẫn tại khoản 2 Điều 98 “phần bản án, quyết định quy định tại
khoản , Điều 36 của Luật này” không còn phù hợp. Do đó, trong thời gian tới nội
dung này cần được tiếp tục tổng hợp, sửa đổi trong quá trình hoàn thiện thể chế.
Trước mắt, khi áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS
(sửa đổi, bổ sung năm 2014), CHV thực hiện việc chủ động ký Hợp đồng bán đấu
giá tài sản trong trường hợp THA chủ động được quy định tại khoản
2 Điều 36 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014”.
Đề nghị các đơn vị nghiên cứu nội dung Công văn số
1103 để vận dụng.
12. Theo Thông tư số 28/2015/TT-BTC ngày 06/3/2015 của Bộ Tài
chính ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, trong đó Quy trình thẩm định
giá quy định thời hạn có hiệu lực của kết quả thẩm định giá tối đa không quá 06
tháng kể từ thời điểm Chứng thư thẩm định giá có hiệu lực. Tuy nhiên, qua công
tác kiểm sát THADS thấy nhiều vụ việc THA sau khi thẩm định giá tài sản đưa ra
bán nhiều lần nhưng không có người đăng ký tham gia đấu giá, thời gian kéo dài
trên 06 tháng có khi là một vài năm dẫn đến vụ việc kéo dài. Nếu thẩm định giá
lại thì người phải THA phải tiếp tục chịu chi phí thẩm định giá lần hai. Đề nghị
hướng dẫn Chứng thư thẩm định giá quá 06 tháng (không còn hiệu lực) có được sử
dụng để bán đấu giá tài sản đối với trường hợp này không?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 101 Luật THADS về việc bán tài sản đã kê biên, thì CHV phải
thực hiện việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày định giá. Việc tài sản được đưa ra bán đấu giá nhiều lần không bán được do
không có người đăng ký mua là lý do khách quan; chứng thư thẩm định giá ban đầu
là căn cứ xác định giá khởi điểm để bán đấu giá lần thứ nhất, những lần bán tiếp
theo căn cứ vào giá tài sản đã giảm trong Quyết định giảm giá tài sản của CHV nếu
đương sự không thỏa thuận được về giá ở lần bán thứ hai và từ sau lần giảm giá
thứ hai trở đi, người được THA không nhận tài sản để trừ vào số tiền được THA
theo quy định tại Điều 104 Luật THADS, tài sản THA sẽ được
bán đấu giá tới cùng cho đến khi giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi
phí cưỡng chế. Vì vậy, hiệu lực của Chứng thư thẩm định giá đã sử dụng để bán đấu
giá tài sản theo đúng trình tự, thủ tục quy định sẽ không bị ảnh hưởng do việc
kéo dài thời gian bán đấu giá không có người đăng ký mua. Mặt khác, tại Điều 99 Luật THADS không quy định về định giá lại tài sản kê
biên đối với trường hợp này.
Tuy nhiên, trong thực tế vì lý do khách quan, việc
bán đấu giá tài sản phải dừng lại trong khi thời hạn chứng thư đã hết hiệu lực.
Do pháp luật về THADS chưa có quy định chi tiết về nội dung này nên đối với từng
trường hợp cụ thể, CHV cần tổ chức lấy ý kiến thỏa thuận của các bên có liên
quan đến tài sản bán đấu giá về việc lấy giá khởi điểm của Chứng thư ban đầu để
tiếp tục bán đấu giá hoặc định giá lại tài sản, cũng như chi phí thẩm định giá
lại... Trường hợp không thực hiện được thỏa thuận thì liên ngành cấp dưới phải
có văn bản báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của liên ngành cấp trên.
13. Tại Điều 101 Luật THADS không quy định CHV phải lựa chọn tổ chức đấu giá trên
địa bàn để ký hợp đồng, nhưng lại có quy định “CHV bán đấu giá tài sản kê biên khi... tại tỉnh
thành phố chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có tổ chức bán đấu đấu giá nhưng tổ
chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá”. Không có quy định về bán đấu giá lại (trong
trường hợp hủy kết quả đấu giá); bán đấu giá bổ sung (trường hợp bán đấu giá
thiếu tài sản) và quy định về dừng đấu giá. Đề nghị giải thích vì có sự mâu thuẫn
và thiếu cụ thể.
Trả lời: (i) Quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 101 Luật THADS về bán tài sản kê biên
không có sự mâu thuẫn. CHV khi thực hiện việc bán đấu giá tài sản kê biên theo
quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS không bắt buộc phải
lựa chọn các tổ chức đấu giá trên địa bàn tỉnh, thành phố. Còn việc CHV bán đấu
giá tài sản kê biên theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật
THADS trong trường hợp tại địa bàn tỉnh, thành phố chưa có tổ chức bán đấu
giá hoặc có tổ chức bán đấu đấu giá nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng
dịch vụ bán đấu giá.
(ii) Trường hợp Hủy kết quả đấu giá thì đương nhiên
việc bán đấu giá được thực hiện lại từ đầu nên không cần phải có quy định cụ thể.
(iii) Bán đấu giá tài sản kê biên bổ sung được thực
hiện khi tài sản kê biên đã bán đấu giá thành, đúng các trình tự, thủ tục về thẩm
định giá, bán đấu giá nhưng phát hiện tài sản đã bán đấu giá còn thiếu loại tài
sản hoặc thiếu phần tài sản có thể tách rời mà không làm giảm tổng giá trị tài
sản chưa được kê biên để bán cùng thì kê biên bổ sung và thực hiện việc bán tài
sản (được kê biên bổ sung).
Đối với trường hợp tương tự nhưng loại tài sản hoặc
phần tài sản không thể tách rời với tài sản đã bán hoặc việc tách rời làm giảm
tổng giá trị tài sản để THA thì không thể kê biên loại/phần tài sản (bổ sung) để
bán đấu giá. Trường hợp CHV đã tổ chức thỏa thuận với tất cả những người liên
quan nhưng không có kết quả thì cần thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án có thẩm
quyền tuyên hủy kết quả đấu giá. Sau khi kết quả đấu giá bị hủy thì thực hiện
trình tự, thủ tục đấu giá lại.
(iv) Việc dừng đấu giá đã được quy định cụ thể tại Điều 19, Điều 47, Điều 62 Luật Đấu giá tài sản.
14: Luật THADS chỉ quy định về quyền nhận tài sản THA đối với
người được THA (Điều 104) và đối với người phải THA (khoản
5 Điều 101) mà không quy định về quyền nhận tài
sản của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (thường là bên dùng tài sản của
mình để thế chấp cho nghĩa vụ của người được cấp tín dụng trong các Hợp đồng
tín dụng). Vậy người có tài sản là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có
được quyền nhận lại tài sản như người phải THA hay không?
Trả lời: Trong thực tế hiện nay, việc
một bên dùng tài sản của mình để bảo đảm cho khoản vay hay khoản tín dụng được
cấp của một bên khác tương đối phổ biến. Đối chiếu quy định tại Điều
3 Luật THADS thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng (Tổ chức tín dụng), đồng thời
là người được THA; bên được cấp tín dụng là người phải THA; bên dùng tài sản của
mình để thế chấp cho nghĩa vụ của người được cấp tín dụng là người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan. Khi người phải THA không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định của Tòa án tuyên thì người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có nghĩa vụ giao tài sản đảm bảo (tài sản đã
thế chấp) để xử lý. Nghĩa là họ phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định
của Tòa án và trở thành người phải THA trong phạm vi tài sản bảo đảm. Do đó, họ
được hưởng quyền của người phải THA đối với trách nhiệm về tài sản trong phạm
vi đảm bảo - có quyền được nộp tiền để nhận tài sản.
15. Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật
THADS, khi người mua tài sản trúng đấu giá đã nộp
đủ tiền thì Cơ quan THADS thực hiện việc giao tài sản. Trường hợp người mua tài
sản trúng đấu giá đã nộp đủ tiền, nhưng Cơ quan THADS nhận được yêu cầu hoãn
THA của cơ quan có thẩm quyền thì có tiếp tục thực hiện cưỡng chế giao tài sản
hay không? Nếu không ra Quyết định hoãn THA thì có vi phạm khoản
2 Điều 48 Luật THADS hay không?
Trả lời: Quy định tại khoản
2 Điều 48 và khoản 2 Điều 103 Luật THADS không có sự
mâu thuẫn, cụ thể: Tại khoản 2 Điều 48 Luật THADS quy định
chung về việc Cơ quan THADS phải ra quyết định hoãn THA khi nhận được “...yêu
cầu hoãn THA của người có thẩm quyền kháng nghị…”. Về nguyên tắc khi nhận
được văn bản yêu cầu hoãn THA của người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm, thì Thủ trưởng cơ quan THADS xem xét việc ra quyết định
hoãn THA theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật THADS.
Đối với trường hợp cụ thể được quy định tại khoản 2 Điều 103 Luật THADS thì mặc dù vụ việc có Quyết định
hoãn THA, Cơ quan THADS vẫn phải giao tài sản cho người mua trúng đấu giá ngay
tình. Một số nội dung liên quan đến việc thực hiện quy định tại Điều
103 Luật THADS, đã được Bộ Tư pháp và VKSND tối cao thống nhất hướng dẫn tại
Công văn số 462/VKSNDTC-V11 ngày 31/01/2019. Đề nghị các đơn vị nghiên cứu vận
dụng theo các nội dung đã hướng dẫn. Để thận trọng, đối với từng vụ việc giao
tài sản cụ thể nếu có vướng mắc thì cần có văn bản xin ý kiến hướng dẫn nghiệp
vụ để được liên ngành Trung ương xem xét, thống nhất hướng dẫn giải quyết.
16. Tại khoản 3 Điều 104 Luật THADS quy định: “...Nếu
giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được THA
vẫn không nhận để trừ vào số tiền được THA thì tài sản được giao lại cho người
phải THA quản lý, sử dụng...”. Tuy nhiên, Luật THADS chưa quy định trường hợp
khi giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được
THA đồng ý nhận để trừ vào số tiền được THA thì trừ bao nhiêu vì giá trị tài sản
đã bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế?
Trả lời: Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật THADS, sau lần giảm giá thứ hai trở đi
mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì
người được THA có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được THA. Trường hợp giá
trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được THA đồng
ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được THA thì tài sản sẽ được giao cho người
được THA. Như vậy, người được THA sẽ không có tiền THA để thanh toán chi phí cưỡng
chế theo khoản 1 Điều 47 Luật THADS và số tiền được THA được
tính tương đương giá trị tài sản đã giảm (bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế).
17. Luật THADS và một số quy định của pháp luật có liên quan,
(pháp luật về đất đai, doanh nghiệp...) còn chồng chéo, bất cập trong thực tiễn,
cụ thể như: QSDĐ nông nghiệp bị kê biên, xử lý để bán đấu giá, sau hai lần giảm
giá không có người tham gia đấu giá, trả giá, bên được THA là tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất và không có thu nhập chính từ sản xuất đất
nông nghiệp thì không được nhận QSDĐ nông nghiệp để trừ vào số tiền được THA
theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật THADS và Điều 3 Thông tư số 33/2017/TT-BTN&MT của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Vì vậy, không thể thi
hành được theo quy định của Luật THADS, đề nghị hướng dẫn?
Trả lời: Theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật THADS thì từ sau lần giảm giá thứ hai trở
đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì
người được THA có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được THA (nhận chuyển
nhượng với giá đã giảm). Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật về đất đai thì
bên chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng QSDĐ nông nghiệp phải đáp ứng đủ
các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều 188, Điều 190, Điều
191 Luật Đất đai năm 2013 và Điều 3 Thông tư số
33/2017/TT-BTN&MT của Bộ Tài nguyên và Môi trường; trong đó, có quy định
hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển
nhượng, nhận tặng cho QSDĐ trồng lúa.
Do vậy, khi thực hiện việc kê biên, bán đấu giá
QSDĐ nông nghiệp để THA, thì ngoài việc tuân thủ quy định chung của pháp luật về
THADS, còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về đất đai. Theo đó, trường hợp
sau hai lần giảm giá không có người tham gia đấu giá, trả giá, bên được THA nếu
là tổ chức tín dụng, doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất và không có thu nhập
chính từ sản xuất đất nông nghiệp thì không được nhận QSDĐ nông nghiệp để trừ
vào số tiền được THA theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Luật
THADS.
Đây là vướng mắc do quy định của pháp luật, VKSND tối
cao sẽ tiếp thu để kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền sửa đổi Luật.
18. Theo quy định tại khoản 2 Điều 126 Luật
THADS thì:
- “Hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày được thông
báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng...”.
Trường hợp đương sự là người nước ngoài, sau khi chấp hành án phạt tù xong trở
về nước, nếu không thông báo được cho người nước ngoài đến nhận tài sản theo
quyết định của bản án thì giải quyết thế nào?
- “Hết thời hạn 05 năm kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật mà đương sự vẫn không đến nhận số tiền đã được gửi tiết kiệm mà
không có lý do chính đáng thì cơ quan THADS làm thủ tục sung quỹ Nhà nước”.
Trường hợp đã thực hiện xong thủ tục sung quỹ Nhà nước thì đương sự mới có yêu
cầu được nhận tiền và chứng minh được có lý do chính đáng, thì việc hoàn trả lại
tiền cho đương sự thực hiện như thế nào?
Trả lời: Trong trường hợp cụ thể nêu
trên, Cơ quan THADS phải thực hiện việc ủy thác tư pháp theo quy định tại Điều 181 Luật THADS để thông báo cho đương sự là người nước
ngoài. Chỉ khi Cơ quan THADS thực hiện thông báo hợp lệ cho đương sự thì mới có
cơ sở thực hiện theo quy định tại Điều 126 Luật THADS và điểm b khoản 13 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP của Chính phủ
(sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP về trình tự, thủ tục
việc thi hành án có yêu cầu ủy thác tư pháp).
Trường hợp Cơ quan THADS đã thực hiện xong thủ tục
sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 126 Luật THADS
mà đương sự mới có yêu cầu được nhận tiền và chứng minh được có lý do chính
đáng, thì Cơ quan THADS phải ban hành Quyết định thoái thu và thực hiện thủ tục
xuất trả tiền từ ngân sách cho đương sự theo quy định tại khoản
3 Điều 18 Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp.
19. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 2
và khoản 1 Điều 130 Luật THADS thì “Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”
của Tòa án cấp sơ thẩm phải được thi hành
ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị và trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi nhận được Quyết định THA, CHV phải áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm, cưỡng
chế THA. Tuy nhiên, nếu trong 24 giờ đó rơi vào ngày lễ, ngày tết thì CHV có phải
thực hiện hay không, trong khi điểm a khoản 1 Điều 112 Bộ
luật Lao động quy định ngày lễ,
ngày tết người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật Tố tụng dân sự, việc Tòa án quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo
vệ tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có,
tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc để bảo đảm việc THA. Biện
pháp khẩn cấp tạm thời phải được thi hành ngay sau khi Tòa án đã ra quyết định
nên tại khoản 1 Điều 130 Luật THADS quy định về việc thi
hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án không loại trừ
các trường hợp vào ngày nghỉ lễ, tết.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
112 Bộ luật Lao động thì ngày lễ, ngày tết người lao động được nghỉ, hưởng
nguyên lương. Tuy nhiên, trong thực tế, các cơ quan, đơn vị vẫn phải phân công
người trực để xử lý, giải quyết các công việc. Do vậy, khi phải thi hành quyết
định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án, CHV phải khẩn trương
áp dụng ngay và đảm bảo về trình tự các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế THA theo
quy định.
20. Theo quy định tại khoản 4 Điều 27 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP thì Cơ quan THADS thực hiện
việc thanh toán tiền THA theo quy định tại Điều 47 Luật
THADS trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Trong thời gian chưa giao
được tài sản, cơ quan THADS làm thủ tục đứng tên gửi số tiền đó vào ngân hàng
theo hình thức gửi tiền có kỳ hạn 01 tháng cho đến khi giao được tài sản... Tuy
nhiên, Luật không quy định việc gửi tiết kiệm được thực hiện từ thời điểm nào.
Hiện có hai quan điểm: Một là, tính từ
ngày ký hợp đồng mua bán tài sản với người mua được tài sản bán đấu giá (thời
điểm này người mua đã đặt cọc một khoản tiền); hai là, tính từ ngày người mua
được tài sản bán đấu giá nộp đủ tiền mua tài sản. Ngoài ra, trường hợp sau khi
người mua được tài sản bán đấu giá nộp đủ tiền mua tài sản, Cơ quan THADS tiến
hành giao tài sản trong thời hạn chưa đến 01 tháng thì có cần phải gửi tiết kiệm
không, vì nếu gửi tiết kiệm kỳ hạn 01 tháng mà thời gian gửi chưa đến 01 tháng
thì cũng không nhận được lãi nên việc gửi tiền là không cần thiết.
Trả lời: Tại khoản 1
Điều 5 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSTC quy định: “1.
Người mua được tài sản bán đấu giá thực hiện việc nộp tiền vào tài khoản tạm giữ
của Cơ quan THADS mở tại Kho bạc Nhà nước. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
người mua được tài sản bán đấu giá nộp đủ tiền mua tài sản mà Cơ quan THADS
chưa giao được tài sản cho người mua thì Cơ quan THADS có trách nhiệm làm thủ tục
gửi số tiền đó vào Ngân hàng theo quy định tại khoản 4 Điều 27
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ…”. Do đó, trong
thời hạn 10 ngày kể từ ngày người mua được tài sản bán đấu giá nộp đủ tiền mua
tài sản mà Cơ quan THADS chưa giao được tài sản cho người mua thì Cơ quan THADS
phải gửi số tiền đó vào Ngân hàng kỳ hạn 01 tháng, kể cả trường hợp việc giao
tài sản được tiến hành trong thời hạn chưa đến 01 tháng thì Cơ quan THADS vẫn
phải gửi tiền vào Ngân hàng theo quy định.
21. Tại Điều 159 Luật THADS quy định VKS có quyền yêu cầu, kiến nghị đối với Cơ
quan THADS cùng cấp và cấp dưới, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm để
đảm bảo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo có căn cứ, đúng pháp luật. Vậy khi
phát hiện Cơ quan THADS, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm có vi phạm
nghiêm trọng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thì VKS có quyền kháng nghị
không?
Trả lời: Theo quy định tại Điều 159 Luật THADS, khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo về THADS, Viện kiểm sát chỉ có quyền yêu cầu, kiến nghị mà không có quyền
kháng nghị đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THA dân sự. Tuy nhiên,
qua kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS nếu phát hiện hành vi,
quyết định của Thủ trưởng, CHV Cơ quan THADS có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc tổ chức THADS, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì VKS thực hiện quyền kháng nghị theo quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 12 Luật THADS.
22. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
170 Luật THADS thì TAND cấp cao, Tòa án quân sự
Trung ương có nhiệm vụ “b) Trả lời kiến
nghị của Cơ quan THADS về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được kiến
nghị”. Trường hợp Tòa án
có thẩm quyền không trả lời kiến nghị của Cơ quan THADS thì có tiếp tục hoãn
THA không?
Trả lời: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 48 Luật THADS thì Thủ trưởng Cơ quan
THADS ra quyết định hoãn THA khi việc THA đang trong thời hạn cơ quan có thẩm
quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của Cơ quan THADS theo
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này.
Như vậy, nếu hết thời hạn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 Luật THADS (thời hạn 90 ngày, kể từ
ngày nhận được kiến nghị) mà cơ quan có thẩm quyền chưa trả lời kiến nghị của
Cơ quan THADS về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ hoãn THA không còn, nên Cơ quan THADS phải ra
quyết định tiếp tục THA và tổ chức thi hành theo quy định của pháp luật.
23. Thế nào là không tham gia cuộc đấu giá thuộc trường hợp bất
khả kháng? Tại cuộc đấu giá trực tiếp bằng lời nói, bằng bỏ phiếu trực tiếp
theo quy định tại Điều 41, Điều 42 Luật Đấu giá tài sản,
Đấu giá viên đã tiến hành các thủ tục, đã phát số
cho người tham gia đấu giá, ổn định chỗ ngồi thì một/một số/tất cả khách hàng
có đơn đề nghị không tham gia đấu giá với lý do không có nhu cầu mua tài sản
thì đây có phải là trường hợp không tham gia cuộc đấu giá hay không?
Trả lời: Hiện Luật Đấu giá tài sản
không có quy định như thế nào là trường hợp bất khả kháng. Tuy nhiên, theo quy
định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Sự
kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước
được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và
khả năng cho phép”.
Theo quy định tại khoản 7 Điều 5
và khoản 1 Điều 38 Luật Đấu giá tài sản, cá nhân, tổ chức đã đăng ký và đủ
điều kiện tham gia đấu giá để mua tài sản đấu giá, được chấp nhận là “người
tham gia đấu giá”. Tại cuộc đấu giá, người tham gia đấu giá có đơn đề nghị
không tham gia đấu giá với lý do không có nhu cầu mua tài sản là do ý thức chủ
quan “không tham gia đấu giá” nên không thuộc trường hợp “không tham gia đấu
giá vì lý do bất khả kháng”.
24. Theo Điều 42 Luật Đấu giá tài sản,
người tham gia đấu giá trả giá theo thứ tự số phát
hay ai muốn trả giá thì giơ số phát để được quyền trả giá? Nếu tất cả người
tham gia đấu giá trả giá lần đầu tiên bằng giá khởi điểm thì có vi phạm hay
không? Trường hợp người trả giá đầu tiên trả giá cao hơn rất nhiều so với giá
khởi điểm (bằng giá khởi điểm + nhiều lần bước giá) thì trong số những người
tham gia đấu giá còn lại có người không trả giá (vì họ cho rằng đã cao hơn giá
họ dự định trả) có vi phạm hay không? Hai trường hợp trên, nếu vi phạm thì xử
lý khoản tiền đặt trước như thế nào?
Ngoài ra theo Điều 42, Điều 43 Luật
Đấu giá tài sản, trường hợp khi tham gia đấu giá có người trả giá cao nhất
chỉ cao hơn giá khởi điểm nhưng lại thấp hơn giá khởi điểm + 01 bước giá thì có
được coi là trúng đấu giá hay không?
Trả lời: Điều 42 Luật
Đấu giá tài sản đã quy định rõ việc người tham gia đấu giá được phát một tờ
phiếu, ghi giá muốn trả vào phiếu của mình, nộp phiếu trả giá hoặc bỏ phiếu vào
hòm phiếu. Như vậy, tất cả những người tham gia đấu giá cũng được phát phiếu,
ghi giá muốn trả vào phiếu và nộp hoặc bỏ phiếu trả giá, không phải giơ số phát
hay trả giá theo thứ tự số phát. Trường hợp tất cả người tham gia đấu giá trả
giá lần đầu tiên bằng giá khởi điểm thì tại điểm d khoản 2 và
điểm d khoản 3 Điều 42 Luật Đấu giá tài sản đã có quy định cụ thể là Đấu
giá viên tổ chức đấu giá tiếp hoặc bốc thăm để chọn ra người trúng đấu giá, nên
không vi phạm.
Đối với việc người trả giá đầu tiên trả giá cao hơn
rất nhiều so với giá khởi điểm (bằng giá khởi điểm + nhiều lần bước giá) thì tại
khoản 1 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản đã quy định rõ “Bước
giá là mức chênh lệch tối thiểu của lần trả giá sau so với lần trả giá trước liền
kề trong trường hợp đấu giá theo phương thức trả giá lên”. Như vậy, trong lần
trả giá đầu tiên thì người tham gia đấu giá chỉ cần tuân thủ theo mức giá khởi
điểm, từ lần trả giá thứ hai mới phải tuân thủ thêm bước giá đã quy định trước
đó (giá trả phải ít nhất bằng bước giá + giá khởi điểm lần 2). Do đó, người trả
giá cao hơn rất nhiều so với giá khởi điểm không vi phạm.
Đối với người không trả giá (ở lần 2) thì tại điểm b khoản 2 Điều 42 đã quy định “Đấu giá viên... đề nghị
người tham gia đấu giá tiếp tục trả giá cho vòng tiếp theo” và tại điểm c khoản 2 Điều 42 quy định “...Cuộc đấu giá kết thúc
khi không còn ai tham gia trả giá...”. Như vậy, người tham gia đấu giá có
quyền không tham gia trả giá cho vòng tiếp theo và việc xử lý tiền đặt trước được
thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 39 Luật Đấu giá tài sản.
Đối với người tham gia đấu giá trả giá cao hơn giá
khởi điểm nhưng lại thấp hơn giá khởi điểm + 01 bước giá thì tương tự như trên,
chỉ cần trong lần trả giá đầu tiên, người tham gia đấu giá tuân thủ theo mức
giá khởi điểm thì không vi phạm và vẫn có thể trúng đấu giá (tại khoản 8 Điều 5 Luật Đấu giá quy định trả giá bằng giá khởi
điểm vẫn có thể trúng đấu giá).
25. Luật THADS chỉ quy định trình tự, thủ tục THADS, không quy
định về THAHC. Người phải THAHC phần lớn là Chủ tịch UBND các cấp, cũng là Trưởng
Ban chỉ đạo THADS tại địa phương, Giám đốc các Sở, ban, ngành hoặc tương đương.
Do đó, rất khó trong việc CHV thực hiện theo dõi quá trình THAHC của người phải
THA như: thông báo, tống đạt thông báo tự nguyện THA và lập biên bản về buộc
THAHC hoặc đề nghị xử lý trách nhiệm về việc chậm THA, không chấp hành án hoặc
chấp hành không đúng nội dung bản án, quyết định theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 1/7/2016 (Nghị định số 71/2016); đồng thời, cũng
khó khăn trong việc kiểm sát THAHC, việc thực hiện quyền kiến nghị với cơ quan,
tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ THAHC. Cần có quy định rõ trách nhiệm của người
không THAHC, chậm THAHC và có biện pháp xử lý nghiêm để đảm bảo kỷ cương trong
bộ máy Nhà nước, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được THA.
Trả lời: Luật Tố tụng hành chính và
Nghị định số 71/2016 đã có những quy định khá cụ thể về thời hạn, trình tự, thủ
tục THAHC và xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định
của Tòa án, như: Điều 6 Nghị định số 71/2016 quy định về
quyền và nghĩa vụ của người phải THAHC; Điều 311 Luật Tố tụng
hành chính, Điều 10, Điều 12 Nghị định số 71/2016 quy
định về việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, thời hạn
tự nguyện THA của người phải THA; Điều 7, Điều 8 Nghị định số
71/2016 quy định trách nhiệm của người đứng đầu của người phải THA và của
người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THA; Điều
13 Nghị định số 71/2016 quy định về việc chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện
quyết định buộc THAHC; khoản 2 Điều 312 Luật Tố tụng hành
chính, Điều 14 Nghị định số 71/2016 quy định về việc
theo dõi việc THAHC, quyết định buộc THAHC; Điều 314 Luật Tố tụng
hành chính và các điều từ Điều 20 đến Điều 29 Nghị định số
71/2016 quy định về việc xử lý trách nhiệm đối với người phải THA cố ý
không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định buộc THA của Tòa án.
Để đảm bảo kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định
của Tòa án về vụ án hành chính, căn cứ Điều 315 Luật Tố tụng
hành chính, VKS thực hiện kiểm sát tuân theo pháp luật của đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc THAHC; thực hiện quyền kiến nghị với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ THAHC và cơ quan, tổ chức cấp trên trực
tiếp của người phải THAHC theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính và Nghị định
số 71/2016 (các điều luật viện dẫn nêu trên).
Cần lưu ý: Do còn có nội dung chưa có sự thống nhất
giữa Luật Tố tụng hành chính, Nghị định số 71/2016 và Thông tư số 06/TT-BTP
ngày 29/11/2019 của Bộ Tư pháp nên trên cơ sở trao đổi và thống nhất với VKSND
tối cao (Vụ 11), ngày 05/01/2021 Tổng cục THADS-Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn
số 16/TCTHADS-NV3 về việc hướng dẫn nghiệp vụ theo dõi THAHC, trong đó trách
nhiệm của Cơ quan THADS thực hiện các nội dung theo dõi THAHC quy định tại Điều 14 Nghị định số 71/2016 (trừ quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 71/2016 về trách nhiệm thông báo
nghĩa vụ tự nguyện THA cho người phải THA). Do vậy, các VKS địa phương khi thực
hiện công tác kiểm sát THAHC, cần nghiên cứu, vận dụng hướng dẫn tại Công văn số
16/TCTHADS-NV3 ngày 05/01/2021 nêu trên của Tổng cục THADS-Bộ Tư pháp.
Trên đây là nội dung giải đáp, hướng dẫn về những
khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát THADS, THAHC để Viện kiểm sát các cấp
nghiên cứu, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Như trên (để t/hiện);
- Đ/c Lê Minh Trí, Viện trưởng VKSTC (để b/cáo);
- Đ/c Nguyễn Duy Giảng, PVT VKSTC (để b/cáo);
- Vụ 14, Văn phòng, T1, T2, T3 (để biết);
- Lưu: VT, V11.
|
TL. VIỆN TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG
VỤ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Nguyễn Kim Sáu
|
1 Điểm b khoản 2 Điều 12 Luật
THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định: “Khi kiểm sát THADS,
VKSND có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: ... b)...yêu cầu cơ quan, tổ chức và cá
nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc THA theo quy định
của Luật này:...”.
2 Điều 4 Quy chế công tác
Kiểm sát THADS, THAHC quy định: “Khi kiểm sát THADS, THAHC, VKSND có nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức VKSND năm 2014; các Điều 12, 38,
62, 64, 160, 161 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014; Điều 315 Luật Tố tụng
hành chính năm 2015”.