NGHỊ QUYẾT
CỦA
BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ BẢO ĐẢM AN NINH NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030, TẦM
NHÌN ĐẾN NĂM 2045
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định
hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045, ngành năng lượng đã duy trì tăng trưởng ổn định, cơ bản bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho phát triển
nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước và nâng cao đời sống
người dân.
Tuy vậy, ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu
kém. Một số hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Nghị quyết 55 vẫn chưa được khắc phục triệt để.
Nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết 55 khó đạt được.
Thể chế, chính sách, công tác quản lý phát triển ngành năng lượng còn bất cập.
Tiến độ thực hiện nhiều dự án điện còn chậm; tiềm năng về năng lượng chưa được
khai thác hiệu quả. Nguồn cung năng lượng còn phụ thuộc vào nhập khẩu, nguy cơ
thiếu điện cho giai đoạn tăng trưởng hai con số là hiện hữu. Cơ sở hạ tầng
ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ. Hệ thống điện phát triển chưa đồng
bộ, thông minh; lưới điện chưa kết nối hiệu quả với các dự án nguồn. Công nghệ
trong một số lĩnh vực chậm được đổi mới; tỉ lệ nội địa hoá đối với một số thiết
bị quan trọng chưa cao. Chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một
số lĩnh vực còn thấp; thị trường năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ,
thiếu liên thông giữa các phân ngành, nhất là thị trường điện còn nhiều hạn chế;
chính sách giá năng lượng còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với cơ chế thị trường;
vẫn còn tình trạng bù chéo giá điện đối với một số nhóm khách hàng.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do: Nhận
thức chưa đầy đủ về vai trò, tầm quan trọng của ngành năng lượng đối với phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh xã hội, bảo vệ môi
trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Chính sách, pháp luật về phát triển
năng lượng còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhất là
cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phát triển năng lượng, khuyến khích sản
xuất, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, quy hoạch điều chỉnh thiếu
linh hoạt, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, việc tổ chức thực hiện thiếu
đồng bộ, nhất là quy hoạch điện. Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp. Chiến
lược phát triển năng lượng, đặc biệt trong ngành điện chưa ổn định, đồng bộ;
chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và một số ngành liên quan. Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính
sách, pháp luật về năng lượng chưa quyết liệt, toàn diện, đồng bộ; chưa chú trọng
các biện pháp quản trị và ứng phó rủi ro; công tác kiểm tra, giám sát thực hiện
chưa hiệu quả. Chưa tạo được đột phá về ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số trong ngành năng lượng.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất
nước trong thời gian tới, nhất là thực hiện 2 mục tiêu chiến lược đến năm 2030
và năm 2045, công tác bảo đảm an ninh năng lượng có vai trò rất quan trọng,
năng lượng phải đi trước một bước, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân. Bộ Chính trị yêu cầu
tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:
I- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1. Đảng lãnh đạo toàn diện; Nhà nước kiến tạo
thể chế, chính sách đột phá và kiểm soát hạ tầng năng lượng chiến lược; người
dân và doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể phát triển năng lượng quốc gia,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, khu vực tư nhân là một trong những
động lực quan trọng nhất. Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền
tảng, là tiền đề quan trọng để phát triển đất nước, là bộ phận quan trọng của
an ninh quốc gia. Phát triển năng lượng được ưu tiên cao nhất để đáp ứng yêu cầu
tăng trưởng liên tục trên 10% trong giai đoạn tới, thực hiện hai mục tiêu 100
năm của đất nước. Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia phải được lãnh đạo,
chỉ đạo triển khai thực hiện tập trung, thống nhất, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu
quả.
2. Phát triển năng lượng phải phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, thực hiện an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo
vệ môi trường và linh hoạt trong thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải
khí nhà kính. Xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa
dạng hóa hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối
với mọi loại hình năng lượng, không bù chéo giữa các nhóm khách hàng. Khuyến
khích và tạo điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế, nhất là khu vực tư
nhân tham gia phát triển năng lượng; bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng
với các thành phần kinh tế khác trong phát triển các dự án năng lượng.
3. Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hóa
các loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các
nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng
hợp lý các nguồn năng lượng hóa thạch trong nước, chú trọng bình ổn, điều tiết
và bảo đảm dự trữ năng lượng quốc gia; phát triển điện hạt nhân, điện khí; có lộ
trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý. Cơ cấu tối ưu hệ thống năng lượng
quốc gia, bảo đảm tính đồng bộ, hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng và địa phương.
4. Khuyến khích đầu tư và sử dụng năng lượng
tiết kiệm, hiệu quả, giảm phát thải, bảo vệ môi trường, thúc đẩy tăng năng suất
lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng, coi đây vừa là quyền lợi vừa là trách
nhiệm của toàn xã hội; khuyến khích đầu tư và sử dụng công nghệ, trang thiết bị
tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường.
5. Ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững ngành năng
lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, công nghệ năng lượng nguyên tử, tiến
tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng phục vụ nhu cầu trong
nước và xuất khẩu cả về công nghệ và thiết bị.
II- MỤC TIÊU, TẦM NHÌN
1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2030
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung
cấp năng lượng đầy đủ, ổn định, chất lượng cao, giảm phát thải cho phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống người dân, bảo
vệ môi trường sinh thái. Từng bước chuyển đổi năng lượng đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước và cam kết quốc tế. Ngành năng lượng phát triển hài hòa giữa các
phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực
ASEAN. Thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, phù hợp với thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khai thác nhanh và sử dụng
có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp với xuất nhập khẩu
năng lượng hợp lý; năng lượng được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả hơn. Nhiều vật
tư thiết bị chính trong các phân ngành năng lượng được sản xuất trong nước; lưới
truyền tải, phân phối điện được xây dựng hiện đại, thông minh.
2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 150 - 170 triệu
tấn dầu quy đổi; tổng công suất các nguồn điện khoảng 183 - 236 GW hoặc có thể
cao hơn tùy thuộc vào nhu cầu hệ thống và tình hình phát triển kinh tế - xã hội
theo thời kỳ; tổng sản lượng điện khoảng 560 - 624 tỉ KWh. Tỉ lệ năng lượng tái
tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp khoảng 25 - 30%.
- Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng khoảng 120 -
130 triệu tấn dầu quy đổi.
- Hệ thống điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết
nối an toàn với lưới điện khu vực; bảo đảm cung cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu
chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối với vùng phụ tải đặc biệt
quan trọng. Độ tin cậy cung cấp điện năng và chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp
3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Các cơ sở lọc dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu
xăng dầu trong nước; mức dự trữ xăng dầu đạt khoảng 90 ngày nhập ròng. Phát triển
cơ sở đầy đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) theo nhu cầu cấp
cho các nguồn điện khí LNG và các nhu cầu khác; hình thành các trung tâm năng
lượng tập trung khí LNG hài hòa các vùng miền.
- Tỉ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ
năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 8 - 10%.
- Giảm phát thải khí nhà kính từ hoạt động năng lượng
so với kịch bản phát triển bình thường khoảng 15 - 35%.
3. Tầm nhìn đến năm 2045
Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia; thị
trường năng lượng cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch, hiệu quả, phù hợp
với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; ngành năng lượng phát
triển đồng bộ, bền vững, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, giảm
phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống hạ tầng năng
lượng thông minh, hiện đại, kết nối hiệu quả với khu vực và quốc tế; chất lượng
nguồn nhân lực, trình độ khoa học - công nghệ và năng lực quản trị ngành năng
lượng đạt trình độ ngang với các nước công nghiệp phát triển hiện đại.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong
bảo đảm an ninh năng lượng
Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp xác định rõ phát
triển năng lượng quốc gia là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt, cần nghiêm túc
lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong
ngành năng lượng; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp giữa các
bộ, ngành Trung ương và địa phương, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành tập
trung, đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương. Tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, nhất là đối với các quy hoạch
năng lượng; bảo đảm chất lượng, tiến độ các dự án phát triển năng lượng.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức
của các cấp, các ngành và Nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của an ninh năng
lượng, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về
phát triển năng lượng, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Chú trọng tuyên
truyền, nâng cao ý thức, thay đổi hành vi sử dụng năng lượng; phát động, triển
khai hiệu quả các phong trào trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân về chuyển
đổi năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả gắn với bảo vệ môi trường.
Phổ biến, nhân rộng các mô hình, giải pháp sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo
hiệu quả, phù hợp với điều kiện của từng vùng, địa phương, nhất là các mô hình
tự sản xuất, tự tiêu thụ tại doanh nghiệp, hộ gia đình, mô hình cộng đồng năng
lượng; thúc đẩy phát triển mua bán điện trực tiếp cả nguồn và tải điện.
2. Hoàn thiện thể chế, chính
sách để trở thành lợi thế cạnh tranh, nền tảng vững chắc, động lực mạnh mẽ thúc
đẩy phát triển năng lượng
Quyết tâm, quyết liệt hoàn thiện và tổ chức triển khai
hiệu quả pháp luật về điện lực, dầu khí, địa chất và khoáng sản, năng lượng
nguyên tử, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Rà soát, tháo gỡ các điểm
nghẽn về thể chế trong quy hoạch, cấp phép, huy động vốn,... cho các dự án về
năng lượng; có cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội để thu hút và triển khai
các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia.
Hoàn thiện chính sách tài chính theo hướng huy động
tối đa các nguồn vốn đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài vào các dự án trong lĩnh
vực năng lượng theo hình thức nhà đầu tư độc lập hoặc đối tác công tư (PPP). Đổi
mới chính sách tín dụng theo hướng linh hoạt, hiệu quả, ưu tiên bố trí vốn tín
dụng cho lĩnh vực năng lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng
tiếp cận các nguồn vốn; có nguồn vốn, gói tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp
có dự án năng lượng xanh, sạch, công nghệ mới, doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống
dự trữ năng lượng, nghiên cứu, phát triển và sản xuất thiết bị năng lượng trong
nước. Hoàn thiện chính sách thuế để khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo, các trang thiết bị sản xuất trong nước. Nhà nước có cơ chế
hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện các dự án năng lượng phi lợi nhuận, thân thiện môi
trường.
Xây dựng khung chính sách đủ mạnh để khuyến khích
các hộ sử dụng điện lớn xây dựng hệ thống thu hồi năng lượng để sản xuất điện;
có cơ chế, chính sách ưu đãi hợp lý để phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản
xuất, tự tiêu thụ và hệ thống lưu trữ năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đặc
thù phát triển mạnh các hệ thống xử lý rác có thu hồi năng lượng; thúc đẩy
doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ carbon thấp, trung hoà carbon. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Khẩn trương ban hành, công khai danh mục các dự án
năng lượng; thực hiện có chọn lọc cơ chế đấu thầu cạnh tranh kết hợp với giao
thực hiện các dự án năng lượng có quy mô lớn, đầu tư tại khu vực nhạy cảm về an
ninh quốc phòng. Kiểm soát hiệu quả việc ký kết hợp đồng mua bán điện trực tiếp
(PPA). Hoàn thiện cơ chế phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích
nhóm, nhất là trong đầu tư, mua sắm, đấu thầu, triển khai các dự án năng lượng,
nhất là các dự án nguồn điện và lưới điện truyền tải.
Nâng cao chất lượng công tác xây dựng chiến lược,
quy hoạch phát triển năng lượng, đặc biệt trong ngành điện, bảo đảm tính ổn định,
đồng bộ, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và các ngành khác; quy hoạch năng lượng có tính mở, có trọng tâm, trọng
điểm, bảo đảm phục vụ phát triển, phân phối hài hòa cho các ngành, lĩnh vực,
vùng miền (công nghiệp, nông nghiệp, chuyển đổi số, quốc phòng, an ninh, đô thị,
nông thôn, vùng sâu, vùng xa...). Giao trách nhiệm của các bộ, ngành, địa
phương, doanh nghiệp trong tổ chức triển khai thực hiện các quy hoạch phát triển
năng lượng, đặc biệt là Quy hoạch điện VIII điều chỉnh; trong trường hợp cần
thiết, kịp thời rà soát, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Trường hợp
việc lập, thẩm định các dự án năng lượng quan trọng, cấp bách của quốc gia có nội
dung khác với quy hoạch có liên quan thì không phải thực hiện thủ tục điều chỉnh
quy hoạch; sau khi dự án được phê duyệt, các quy hoạch có liên quan phải được kịp
thời rà soát, điều chỉnh, cập nhật và công bố.
Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định về phát triển thị trường năng lượng đồng
bộ, thống nhất, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng lượng
tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Xây dựng giá năng lượng
minh bạch do thị trường quyết định, có sự quản lý của Nhà nước, không thực hiện
bù chéo; Nhà nước điều tiết hợp lý thông qua các công cụ thị trường và thực hiện
hiệu quả chính sách an sinh xã hội. Cải cách triệt để các thủ tục hành chính, cắt
giảm 30 - 50% thời gian thực hiện, chi phí tuân thủ và điều kiện kinh doanh, tạo
môi trường thuận lợi trong đầu tư, kinh doanh, xây dựng, vận hành các dự án
năng lượng. Trong năm 2025, phải hoàn thành việc tháo gỡ các điểm nghẽn về thể
chế cản trở sự phát triển của ngành năng lượng.
3. Phát triển nguồn cung và hạ tầng
năng lượng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng
Xây dựng kịch bản, lộ trình thực hiện cụ thể bảo đảm
năng lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045. Đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, bao gồm cả nguồn trong nước và nhập khẩu.
Có cơ chế ưu tiên cho việc chủ động phát triển năng lượng trong nước, giảm phụ
thuộc nhập khẩu, ưu tiên tăng cường khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng
lượng trong nước. Có giải pháp tổng thể, đồng bộ, khả thi, nâng định mức năng
lượng sơ cấp trên đầu người lên thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN. Triển khai xây
dựng và hình thành Trung tâm công nghiệp năng lượng quốc gia tích hợp khí, khí
hóa lỏng, điện, lọc, hóa dầu, năng lượng tái tạo tại các địa phương có lợi thế,
đồng bộ với chính sách về khai thác, bao tiêu sản lượng, giá khí tự nhiên trong
nước. Khẩn trương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ triển khai các
dự án năng lượng trọng điểm, đặc biệt là các dự án nguồn điện và lưới điện truyền
tải; có chế tài nghiêm khắc đối với các nhà đầu tư đăng ký phát triển các dự án
năng lượng nhưng chậm hoặc không triển khai làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng
quốc gia. Tăng cường công tác chỉ đạo, đôn đốc, thanh tra, kiểm tra, giám sát
quá trình thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng.
- Về dầu khí: Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò nhằm
gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực tiềm năng, nước
sâu, xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia; nâng cao hệ số thu hồi, tận thu
các mỏ nhỏ, khối sót cận biên. Có chiến lược chủ động, hiệu quả trong hợp tác
tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí ở nước ngoài. Đẩy nhanh khai thác các mỏ
khí trong nước gắn với các chuỗi dự án khí điện, bảo đảm lợi ích tổng thể quốc
gia. Phát triển công nghiệp khí; ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập
khẩu, dự trữ và tiêu thụ LNG. Xây dựng chính sách giá khí hợp lý bảo đảm hài
hòa lợi ích của các bên liên quan; phát triển thị trường khí đạt khoảng 30 - 35
tỉ m3/năm. Tiếp tục thu hút đầu tư trong lĩnh vực lọc hóa dầu theo
hướng chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm xăng dầu, đáp ứng nhu cầu
trong nước và hướng đến xuất khẩu phù hợp nhu cầu thị trường và phù hợp lộ
trình dịch chuyển năng lượng. Nghiên cứu, đánh giá tiềm năng dầu khí đá phiến,
khí hydrate; sớm triển khai đánh giá tổng thể, đẩy nhanh khai thác thử nghiệm.
- Về than: Triển khai thực hiện hiệu quả Chiến
lược phát triển ngành than trong bối cảnh mới. Đẩy mạnh khai thác than trong nước
bảo đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên; có cơ chế hợp lý và linh hoạt
trong việc khai thác và nhập khẩu than để phục vụ nhu cầu trong nước. Thúc đẩy
đầu tư ra nước ngoài để thăm dò, khai thác loại than mà Việt Nam có nhu cầu nhập
khẩu. Tăng cường năng lực nhập khẩu và chế biến than quốc gia, bảo đảm có dự trữ
đủ lớn để hạn chế bị động khi thị trường thế giới có biến động. Mở rộng tìm kiếm,
thăm dò, nâng cao chất lượng công tác đánh giá trữ lượng và tài nguyên; khẩn
trương nghiên cứu công nghệ, phương pháp thích hợp để thăm dò bể than Sông Hồng.
Tăng cường cơ giới hóa, hiện đại hóa thiết bị sàng, tuyển và khai thác than. Rà
soát, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch và tối ưu hóa các giải pháp cung cấp
than ổn định cho sản xuất điện phù hợp với cơ chế thị trường. Dự trữ than đáp ứng
yêu cầu sản xuất, nhất là sản xuất điện.
- Về năng lượng tái tạo, năng lượng mới: Ban
hành, thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách về tiêu chuẩn, tỉ lệ năng lượng
tái tạo trong cơ cấu đầu tư và cung cấp năng lượng; triển khai thị trường Chứng
chỉ năng lượng tái tạo (REC). Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng
tái tạo nhằm thay thế tối đa năng lượng hóa thạch. Ưu tiên sử dụng năng lượng
gió và mặt trời; khuyến khích phát triển tại các vùng, địa phương có lợi thế.
Nghiên cứu, đánh giá tổng thể về tiềm năng và xây dựng định hướng phát triển
năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thủy triều, hải lưu...; triển khai một số mô
hình ứng dụng, tiến hành khai thác thử nghiệm để đánh giá hiệu quả. Thử nghiệm
mô hình sản xuất, sử dụng năng lượng hydrogen, các dẫn xuất hydrogen, amoniac;
khai thác điện gió ngoài khơi, điện mặt trời gắn với sản xuất hydrogen,
amoniac.
- Về điện: Đẩy mạnh cơ cấu lại ngành điện,
tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch và bền vững. Phát triển cân đối, hợp lý
giữa các nguồn điện, bảo đảm yêu cầu cao nhất là đủ điện cho phát triển kinh tế
- xã hội, từng bước thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải. Phát triển nguồn
điện cân đối hợp lý theo lợi thế vùng, miền, địa phương hướng tới cân bằng cung
- cầu nội vùng, giảm tối đa tổn thất truyền tải. Ưu tiên phát triển các dự án
nguồn điện có công suất lớn, hiệu quả cao, thân thiện môi trường. Có phương án
mở rộng, khai thác hiệu quả công suất các nhà máy điện, dự án nguồn điện hiện
có theo hướng chọn lọc, ưu tiên các nhà máy có tiềm năng, hoạt động hiệu quả.
Chủ động phương án xuất, nhập nguồn điện tại những địa điểm và thời điểm phù hợp,
bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và hiệu quả kinh tế.
Thực hiện hiệu quả các Chương trình quản lý nhu cầu
điện và điều chỉnh phụ tải; giảm cường độ tiêu thụ và tổn thất điện năng bảo đảm
cạnh tranh so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển. Hiện đại hóa hệ thống
điều độ điện, áp dụng công nghệ giám sát, điều khiển kỹ thuật tự động, thông
minh; bên cạnh truyền tải điện xoay chiều, nghiên cứu ứng dụng truyền tải siêu
cao áp, một chiều, truyền tải ngầm dưới biển.
Đối với thủy điện: Phát huy, mở rộng tối đa
công suất của các nhà máy hiện có. Tiếp tục phát triển có chọn lọc một số thủy
điện nhỏ và vừa, đẩy nhanh tiến độ các dự án thủy điện tích năng. Tăng cường hợp
tác phát triển thủy điện với các nước gắn với nhập khẩu điện dài hạn từ nước
ngoài.
Đối với điện gió và điện mặt trời: Ưu tiên
phát triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện hợp
lý, đặc biệt là các nguồn điện tự sản xuất, tự tiêu thụ, điện mặt trời mái nhà.
Khẩn trương xây dựng chính sách tháo gỡ khó khăn, chính sách pháp lý hỗ trợ và
cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi; nghiên cứu, giao nhiệm vụ
cho một số doanh nghiệp lớn nhà nước, tư nhân có uy tín, thương hiệu, có thực lực
để thực hiện nhiệm vụ phát triển các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Xây dựng cơ chế đặc
thù xử lý dứt điểm những vướng mắc, khó khăn đối với các dự án điện gió, điện mặt
trời để bổ sung nguồn điện quốc gia, tránh lãng phí nguồn lực đầu tư xã hội, bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư trên tinh thần "lợi
ích hài hòa, rủi ro chia sẻ"; xử lý nghiêm các sai phạm theo quy định pháp
luật.
Đối với nhiệt điện: Phát triển nhiệt điện
khí, ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước; khẩn trương rà soát, tháo gỡ khó
khăn để thúc đẩy triển khai các dự án điện khí, LNG, nhất là cơ chế về giá mua
bán điện. Rà soát, lập kế hoạch triển khai nâng cấp công nghệ, nâng cao hiệu suất
để đáp ứng quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường của các nhà máy điện than hiện có.
Có cơ chế khuyến khích chuyển đổi nhiên liệu đối với các nhà máy nhiệt điện
than.
Đối với điện đồng phát, điện tận dụng nhiệt dư,
khí dư, sinh khối, rác thải và chất thải rắn: Khai thác tối đa nguồn điện đồng
phát sinh khối; đẩy mạnh phát triển các nguồn điện từ xử lý rác thải đô thị, chất
thải rắn và sinh khối; khuyến khích phát điện từ thu hồi khí dư, nhiệt dư, nước
dư của các nhà máy; các loại hình nguồn điện này được phát triển không bị giới
hạn bởi quy mô quy hoạch.
Đối với điện hạt nhân: Khẩn trương triển
khai các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với các đối tác phù hợp,
bảo đảm lợi ích cao nhất của Việt Nam có tính đến thỏa thuận trước đây, đưa vào
vận hành trong giai đoạn 2030 - 2035. Xây dựng Chương trình phát triển điện hạt
nhân theo các quy mô linh hoạt và các nhà máy điện hạt nhân lắp ráp module nhỏ;
đẩy mạnh đầu tư cho nghiên cứu, phát triển công nghệ năng lượng nguyên tử, từng
bước làm chủ công nghệ điện hạt nhân, bao gồm công nghệ lò phản ứng hạt nhân; lựa
chọn công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện của Việt Nam, bảo đảm an ninh,
an toàn tuyệt đối và tối ưu hóa hiệu quả tổng thể về kinh tế - xã hội; khuyến
khích doanh nghiệp khu vực nhà nước và tư nhân tham gia phát triển điện hạt
nhân module nhỏ.
- Về tăng cường dự trữ năng lượng chiến lược,
lưu trữ năng lượng: Xây dựng và triển khai chiến lược dự trữ năng lượng quốc
gia; chiến lược quản lý, sử dụng, dự trữ và bảo vệ khoáng sản chiến lược phục vụ
phát triển năng lượng. Đầu tư xây dựng hệ thống kho dự trữ dầu thô, xăng dầu,
khí đốt và than phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh năng
lượng quốc gia cả trên đất liền và trên biển. Phát triển hệ thống lưu trữ năng
lượng phù hợp với tỉ lệ năng lượng tái tạo ngày càng cao hơn để nâng cao độ tin
cậy và sự ổn định của hệ thống điện. Đầu tư xây dựng các hệ thống pin lưu trữ
quy mô lớn và các loại hình lưu trữ năng lượng tiên tiến khác.
- Về xây dựng ngành năng lượng và phát triển
công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng: Xây dựng các tập đoàn công nghiệp
năng lượng trong nước có đủ khả năng làm tổng thầu EPC các dự án có quy mô lớn
hiện đại và triển khai chiến lược phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị năng
lượng trong nước. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh
tranh và có thị trường tiêu thụ lớn như sản xuất thiết bị điện, thiết bị năng
lượng tái tạo. Có cơ chế, chính sách đột phá thúc đẩy nghiên cứu và phát triển
công nghiệp năng lượng, tăng nhanh tỉ lệ nội địa hóa và năng lực tự chủ trong
toàn ngành năng lượng.
- Về phát triển hạ tầng năng lượng hiện đại,
thông minh, bền vững, kết nối khu vực và quốc tế hiệu quả: Xây dựng và phát
triển hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu năng lượng quốc gia đáp ứng yêu cầu
phát triển năng lượng bền vững, hiệu quả và an toàn. Thúc đẩy xã hội hóa cơ sở
hạ tầng và dịch vụ năng lượng. Có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng
năng lượng; xây dựng cơ sở hạ tầng xuất nhập khẩu năng lượng đồng bộ; xác định
danh mục hạ tầng năng lượng dùng chung; xác định rõ hạ tầng năng lượng chiến lược
phải do Nhà nước kiểm soát. Đầu tư hiện đại hóa ngành điện từ khâu sản xuất,
truyền tải đến phân phối, sử dụng có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của
thị trường điện; nâng cao khả năng bảo đảm an ninh mạng lưới điện và chất lượng
dịch vụ điện. Phát triển hệ thống lưới điện truyền tải đồng bộ với phát triển
nguồn điện, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng tái tạo, năng lượng
mới... Tiếp tục đầu tư xây dựng các đường dây 500 kV, 220 kV và các trạm biến
áp để bảo đảm khả năng truyền tải điện từ các trung tâm sản xuất điện đến các
trung tâm phụ tải và kết nối liên thông với các nước ASEAN, nhất là Campuchia,
Lào,... góp phần kết nối 3 nền kinh tế. Huy động nguồn vốn từ khu vực tư nhân
tham gia phát triển hạ tầng truyền tải điện theo mô hình hợp tác công tư (PPP).
4. Đẩy mạnh tiết kiệm năng lượng,
bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thực hiện linh hoạt cam kết quốc
tế về giảm phát thải; thiết lập các biện pháp quản trị và ứng phó với rủi ro
Đẩy mạnh thực hiện Chương trình quốc gia về sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn đến năm 2030 và Chương trình quản lý
nhu cầu điện quốc gia. Cơ cấu lại, khuyến khích phát triển các ngành sử dụng hiệu
quả năng lượng, đem lại lợi ích cao nhất về kinh tế - xã hội. Quy định cụ thể
các chỉ tiêu bắt buộc về tiết kiệm năng lượng cho từng ngành, lĩnh vực và địa
phương. Đẩy mạnh cải tiến công nghệ, áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
về hiệu suất năng lượng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện giao thông và
công trình xây dựng; từng bước loại bỏ thiết bị, máy móc, phương tiện hiệu suất
sử dụng năng lượng thấp, phát thải môi trường cao; khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư công nghệ mới, hiệu suất cao. Nghiên cứu, hình thành quỹ về phát triển năng
lượng bền vững để thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi
trường; đẩy mạnh xã hội hóa. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tự sản xuất
và sử dụng năng lượng sạch.
Triển khai thực hiện đồng bộ, linh hoạt các giải
pháp giảm phát thải khí nhà kính trong ngành năng lượng phù hợp với tình hình
phát triển đất nước và sự hỗ trợ quốc tế. Xây dựng Chương trình chuyển đổi năng
lượng quốc gia; có lộ trình giảm dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất
năng lượng phù hợp với cam kết quốc tế. Có phương án cho các nhà máy nhiệt điện
than chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng khí tự nhiên, nhiên liệu sinh khối,
hydrogen, amoniac,...
Nghiên cứu áp dụng chính sách thuế carbon thích hợp
đối với việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch; quy định tiêu chuẩn hạn mức phát thải
carbon. Xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định phát thải khí nhà kính
theo tiêu chuẩn quốc tế. Khẩn trương xây dựng cơ chế trao đổi tín chỉ carbon,
phát triển thị trường carbon trong nước, kết nối với thị trường quốc tế. Có
chính sách ưu tiên phát triển công nghệ tiên tiến, hiệu quả cao và thân thiện
môi trường. Hoàn thiện khung khổ pháp lý, thúc đẩy phát triển công nghệ thu hồi,
lưu giữ và tái sử dụng carbon, nhất là trong sản xuất điện sử dụng nhiên liệu hóa
thạch. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ carbon thấp và trung hòa carbon
trong ngành năng lượng.
Triển khai rộng rãi mô hình kinh tế tuần hoàn, tận
dụng phế thải từ sản xuất công nghiệp làm nhiên liệu sản xuất năng lượng. Đầu
tư nâng cấp hệ thống xử lý khí thải, nước thải đạt chuẩn quốc tế tại các nhà
máy điện. Phát triển hệ thống quan trắc môi trường tự động, liên tục để giám
sát chặt chẽ các thông số môi trường tại các dự án năng lượng. Tăng cường giám
sát, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm về môi trường trong sản xuất và vận
hành các nhà máy điện.
Thiết lập hệ thống quản trị và ứng phó với rủi ro;
xây dựng và cập nhật thường xuyên kịch bản, thực hiện các giải pháp ứng phó với
biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai ngay từ quá trình lựa chọn vị trí dự
án, thiết kế, xây dựng công trình đến sản xuất, vận hành, bảo đảm an toàn ngành
năng lượng. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng
cường chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ xanh từ các quốc gia tiên tiến.
Chủ động nghiên cứu, đánh giá tác động của các công
trình kênh, hồ, đập ở các quốc gia có chung dòng sông với nước ta đến việc vận
hành của các nguồn điện trong nước; xây dựng kịch bản ứng phó, giải quyết các
tác động cực đoan về hạn hán, thiếu nước. Chú trọng sửa chữa, nâng cấp, sử dụng
lại nguồn nước các đập thủy điện, rà soát quy trình vận hành, hiện đại hóa hệ
thống quan trắc, cảnh báo, bảo đảm tuyệt đối an toàn công trình và vùng hạ du.
5. Tập trung huy động mọi nguồn
lực xã hội, khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia phát triển năng lượng
Có cơ chế, chính sách đột phá thu hút mọi nguồn lực
xã hội tham gia phát triển năng lượng, bảo đảm nguồn vốn thực hiện các quy hoạch
phát triển năng lượng, đặc biệt là quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời
kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Có cơ chế dành nguồn tín dụng ưu đãi hoặc
bảo lãnh Chính phủ cho các dự án năng lượng quan trọng quốc gia, cần ưu tiên đầu
tư, kể cả các dự án BOT điện quy mô lớn, quan trọng, cấp bách. Khuyến khích, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường huy động vốn thông qua phát hành trái
phiếu trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách
nhiệm của doanh nghiệp; rà soát, bổ sung các cơ chế, chính sách đặc thù phù hợp
để tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm đủ vốn cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà
nước triển khai các dự án năng lượng quy mô lớn, quan trọng, cấp bách. Tiếp tục
cơ cấu lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và vai trò dẫn dắt, cạnh tranh
của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; ứng dụng mạnh mẽ khoa
học, công nghệ, chuyển đổi số trong quản trị doanh nghiệp.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài,
tháo gỡ vướng mắc để tận dụng vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, vốn hỗ trợ
quốc tế, nhất là nguồn vốn trong khuôn khổ Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng
công bằng (JETP) cho các dự án năng lượng. Phát triển thị trường trái phiếu
xanh, triển khai tín dụng xanh. Khuyến khích doanh nghiệp, người dân tham gia đầu
tư phát triển các dự án năng lượng tái tạo nhỏ và vừa, các dự án vừa sản xuất,
vừa tiêu thụ năng lượng. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật thực thi hợp
đồng, giải quyết tranh chấp; có cơ chế đặc thù để xử lý dứt điểm các dự án, hợp
đồng phát triển năng lượng tồn đọng kéo dài, gây lãng phí nguồn lực xã hội; chấm
dứt tình trạng doanh nghiệp nhà nước chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo
các hợp đồng đã ký với doanh nghiệp tư nhân.
Phát triển thị trường điện theo hướng tăng cường
tính cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả, đồng bộ với bảo đảm an ninh năng lượng; triển
khai thực hiện hiệu quả cơ chế mua bán điện trực tiếp, đồng thời tăng cường quyền
lựa chọn của khách hàng sử dụng điện trong việc tiếp cận và lựa chọn đơn vị
cung cấp điện phù hợp với nhu cầu. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống giao dịch điện,
bao gồm cơ chế hợp đồng mua bán điện (PPA) minh bạch, ổn định, dài hạn, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà đầu tư. Khuyến khích doanh nghiệp
tư nhân tham gia vào các dự án đầu tư hạ tầng lưu trữ năng lượng như pin tích
trữ, kho LNG, kho xăng, dầu cả trên đất liền và trên biển. Đổi mới cơ chế giá
truyền tải điện để thu hút mạnh mẽ khu vực tư nhân đầu tư phát triển lưới điện
truyền tải.
6. Tạo đột phá trong phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nguồn nhân lực
trong lĩnh vực năng lượng
Triển khai quyết liệt, hiệu quả Nghị quyết số 57 của
Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số trong ngành năng lượng. Tiếp tục rà soát, sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật để thúc đẩy
nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, ưu tiên chuyển giao và ứng dụng
công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường trong lĩnh
vực năng lượng. Tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển với tỉ lệ tối thiểu
2% GDP ngành năng lượng. Tạo cơ chế thuận lợi, đủ mạnh, tự chủ cao để khuyến
khích các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển;
thành lập các trung tâm nghiên cứu, thử nghiệm, đổi mới sáng tạo và phòng thí
nghiệm trọng điểm quốc gia trong lĩnh vực năng lượng; thu hút 60 - 80 dự án
chuyển giao công nghệ tiên tiến. Có cơ chế cho phép các trung tâm đổi mới sáng
tạo được huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân để đầu tư, hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, dự án đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực năng lượng mới, năng lượng sạch.
Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các công nghệ tiên tiến, chuyển đổi
số trong khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối và sử dụng năng lượng;
nghiên cứu, phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng. Phát triển hệ thống lưới
điện thông minh, hệ thống quản lý năng lượng thông minh trong công nghiệp, giao
thông và xây dựng.
Hình thành cơ chế liên kết giữa các nhà khoa học,
cơ sở đào tạo với doanh nghiệp trong lĩnh vực năng lượng thông qua các chương
trình khoa học và công nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu và phát triển trong
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng. Xây dựng đề án đẩy mạnh
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng, đưa vào danh mục
ngành đào tạo trọng điểm. Đào tạo tối thiểu 25.000 - 35.000 kỹ sư, chuyên gia
trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt ưu tiên cho ngành năng lượng hạt nhân. Có
chính sách ưu tiên đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút chuyên gia là người
nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc trong lĩnh vực năng lượng
hạt nhân, năng lượng tái tạo và năng lượng mới.
7. Tăng cường hợp tác quốc tế,
góp phần thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững ngành năng lượng và bảo đảm an
ninh năng lượng quốc gia
Mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác quốc tế
về năng lượng với các đối tác quan trọng trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực.
Đẩy mạnh hợp tác trong nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ và đào tạo
nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực cho phát triển điện hạt nhân và năng lượng
mới. Tích cực tham gia các sáng kiến, cam kết quốc tế về chuyển dịch năng lượng,
giảm phát thải khí nhà kính theo hướng linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế
của đất nước. Triển khai tích cực hiệu quả Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng
công bằng (JETP). Khẩn trương tháo gỡ các điểm nghẽn về cơ chế, chính sách
trong triển khai các dự án hợp tác quốc tế liên quan đến việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng, phát triển năng lượng sạch và ứng
phó biến đổi khí hậu, gắn với việc bảo vệ các lợi ích và an ninh quốc gia.
Chủ động kế hoạch nhập khẩu điện từ các quốc gia
láng giềng đáp ứng nhu cầu trong nước; có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích doanh
nghiệp trong nước đầu tư vào các dự án năng lượng ở nước ngoài, khai thác tài
nguyên năng lượng để nhập khẩu về Việt Nam. Mở rộng quan hệ đối tác với các
công ty đầu tư năng lượng, phát triển công nghệ tiên tiến. Chú trọng hợp tác
phát triển năng lượng với các nước láng giềng, các quốc gia tiểu vùng Mê Công mở
rộng và khu vực Đông Nam Á, các nước là bạn bè truyền thống, đối tác của Việt
Nam. Đẩy mạnh triển khai các cơ chế trao đổi, phối hợp với các nước trong khu vực,
nhất là các nước ASEAN về an ninh năng lượng; thúc đẩy hợp tác, kết nối lưới điện
ASEAN và miền Nam Trung Quốc. Đẩy mạnh phát triển các dự án xuất khẩu điện năng
lượng tái tạo sang các nước ASEAN và hợp tác quốc tế về điện hạt nhân với các
nước có công nghệ tiên tiến. Chủ động, tích cực tham gia các tổ chức quốc tế về
năng lượng hạt nhân, đặc biệt là IAEA. Triển khai các cam kết quốc tế trong việc
nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hòa bình.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc
Trung ương, các ban đảng tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết tới cán bộ, đảng
viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Các cấp ủy,
chính quyền địa phương chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát các dự án đầu tư
năng lượng trên địa bàn theo quy định.
2. Đảng ủy Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo thuận lợi cho phát triển
năng lượng quốc gia theo tinh thần của Nghị quyết; tăng cường giám sát việc xây
dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch và các chính sách phát triển
năng lượng quốc gia; bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.
3. Đảng ủy Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo triển
khai thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và các chiến lược phát
triển các phân ngành năng lượng, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch
điện VIII điều chỉnh phù hợp với tinh thần của Nghị quyết; trình Quốc hội sửa đổi,
ban hành các luật có liên quan tạo môi trường thuận lợi cho phát triển, bảo đảm
an ninh năng lượng quốc gia; trường hợp cần thiết, trình Quốc hội ban hành Nghị
quyết chuyên đề về các cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng
quốc gia giai đoạn 2026 - 2030; ưu tiên bố trí đủ nguồn lực thực hiện các nhiệm
vụ đã nêu trong Nghị quyết.
4. Đảng ủy Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham
gia xây dựng pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo đảm an ninh năng lượng quốc
gia.
5. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương chủ
trì, phối hợp với Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và các cơ quan liên
quan hướng dẫn việc quán triệt thực hiện Nghị quyết.
6. Ban Chính sách, chiến lược Trung ương chủ
trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, hướng dẫn kiểm
tra, giám sát, đôn đốc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết
việc thực hiện, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
|
Nơi nhận:
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư,
- Các tỉnh ủy, thành ủy,
- Các ban đảng, đảng ủy trực thuộc Trung ương,
- Đảng ủy các bộ, ngành ở Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Tô Lâm
|