VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 111/QĐ-VKSTC
|
Hà Nội, ngày 17
tháng 4 năm 2020
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC BAN HÀNH QUY CHẾ CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU
TRA VÀ TRUY TỐ
VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TỐI CAO
Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2014;
Căn cứ Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015;
Xét đề nghị của Vụ trưởng Vụ Thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh và Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản
lý khoa học Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban
hành kèm theo Quyết định này Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khởi tố, điều tra và truy tố.
Điều 2. Quyết
định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Quyết định số
03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về
việc ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày 02/5/2018 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế tạm thời công
tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Quyết định số 170/QĐ-VKSTC ngày
02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy
chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định.
Điều 3. Thủ
trưởng đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Lãnh đạo VKSND tối cao;
-
Lưu:
VT, V1, V14.
|
VIỆN TRƯỞNG
Lê Minh Trí
|
QUY
CHẾ
CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT
VIỆC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ
(Ban
hành kèm theo Quyết định số 111 /QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
Chương I
QUY
ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm
vi điều chỉnh
Quy chế này quy định
các hoạt động sau đây:
1. Thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố.
Hoạt động thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm do
người phạm tội tự thú hoặc những thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện cũng được thực hiện theo quy định của Quy
chế này;
2. Thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khởi tố;
3. Thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra;
4. Thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố.
Điều 2. Đối
tượng áp dụng
1. Viện kiểm sát nhân
dân, Viện kiểm sát quân sự các cấp.
2. Người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các
cấp.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có
liên quan đến công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra
và truy tố.
Điều 3. Mục
đích công tác
1. Mọi hành vi phạm
tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
2. Không để người nào
bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái
pháp luật.
3. Việc khởi tố, điều
tra, truy tố phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp
luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố phải
được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh.
Điều 4. Từ
ngữ sử dụng trong Quy chế
1. “Viện kiểm sát”
gồm Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự.
2. “Lãnh đạo Viện” gồm
Viện trưởng Viện kiểm sát, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được Viện trưởng phân
công hoặc ủy quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra
và truy tố.
3. “Lãnh đạo
đơn vị” gồm Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng các vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Trưởng
phòng, Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
và kiểm sát xét xử sơ thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Trưởng phòng,
Phó Trưởng phòng các phòng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
và kiểm sát xét xử thuộc Viện kiểm sát quân sự trung ương, Trưởng ban, Phó
Trưởng ban đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử
thuộc Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.
4. “Cơ quan
có thẩm quyền điều tra” gồm Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
5. “Thủ
trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra” gồm Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra.
6. “Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan
có thẩm quyền điều tra” gồm Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra, Cấp phó cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
7. “Cán bộ điều tra” gồm
Cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra, Cán bộ điều tra của cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Điều 5. Nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên
1. Viện trưởng, Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm theo quy định tại các điều 41, 42, 43, quy
định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định pháp luật khác có
liên quan trong việc khởi tố, điều tra, truy tố.
2. Khi được phân
công thụ lý giải quyết vụ án, vụ việc, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có trách
nhiệm quản lý hồ sơ vụ việc, hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát. Khi báo cáo đề xuất
các vấn đề thuộc công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố,điều tra
và truy tố với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
phải báo cáo trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ nội dung vụ án, vụ việc,
tiến độ giải quyết và đề xuất quan điểm xử lý bằng văn bản.
3. Lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo hoạt động thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; xem xét, quyết định
các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp
luật, Quy chế này và các quy định khác có liên quan.
Sau khi nghe Kiểm sát
viên báo cáo, đề xuất giải quyết vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
phải ghi rõ ý kiến chỉ đạo vào văn bản đề xuất của Kiểm sát viên; nếu thấy cần
thiết thì trực tiếp nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra chứng cứ trong hồ sơ hoặc trực
tiếp tiến hành một số hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố, hoạt động điều tra trước khi cho ý kiến chỉ đạo. Văn
bản đề xuất phải ghi rõ ngày, tháng, năm, ký tên lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện, Kiểm sát viên và lưu hồ sơ kiểm sát.
Trong quá trình giải
quyết vụ án, vụ việc, nếu có ý kiến khác nhau giữa các Kiểm sát viên hoặc giữa
Kiểm sát viên với Phó Viện trưởng, Viện trưởng thì thực hiện theo quy định
tại Điều 83 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. Trường
hợp có ý kiến khác nhau giữa Kiểm sát viên thụ lý chính với lãnh đạo đơn
vị thì phải thực hiện ý kiến của lãnh đạo đơn vị, nhưng có quyền báo cáo với
Phó Viện trưởng phụ trách; nếu có ý kiến khác nhau giữa lãnh đạo đơn vị với Phó
Viện trưởng thì phải thực hiện ý kiến của Phó Viện trưởng, nhưng có quyền báo
cáo với Viện trưởng. Kết luận của Viện trưởng, Phó Viện trưởng được ghi vào báo
cáo của đơn vị và lưu hồ sơ kiểm sát.
Trường hợp vụ án, vụ
việc phức tạp, có khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết, Viện trưởng
có thể đưa ra tập thể lãnh đạo Viện hoặc Ủy ban kiểm sát thảo luận trước khi
kết luận. Đối với vụ án, vụ việc Viện kiểm sát cấp dưới thỉnh thị Viện kiểm
sát cấp trên thì việc thỉnh thị và trả lời thỉnh thị thực hiện theo quy
định của Ngành.
4. Khi phát hiện có sai sót về nghiệp
vụ hoặc vi phạm pháp luật thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải có biện pháp
khắc phục ngay và tổ chức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, xử lý trách nhiệm người
vi phạm theo quy định của pháp luật.
Điều 6. Việc
ban hành văn bản tố tụng của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra và
truy tố
1. Viện trưởng, Phó
Viện trưởng, Kiểm sát viên ban hành văn bản tố tụng trong các giai đoạn khởi
tố, điều tra và truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và
quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Viện trưởng Viện
kiểm sát có quyền ký tất cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát cấp mình.
3. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát được
Viện trưởng phân công phụ trách lĩnh vực công tác hoặc ủy quyền có quyền ký tất
cả các văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát cấp mình trừ văn bản
quy định tại điểm b khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và
văn bản về giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hành vi, quyết định của mình.
4. Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố có quyền ký các
văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 42 Bộ luật Tố tụng hình
sự. Đối với vụ án, vụ việc phức tạp, có quan điểm khác nhau giữa các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát
viên phải báo cáo, đề xuất xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện trước khi ký văn bản tố tụng.
5. Sau khi quyết định việc ban hành
các văn bản tố tụng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 41 Bộ
luật Tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân công
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Kiểm sát viên cao cấp là Vụ
trưởng Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án hình sự ký thừa lệnh
đối với văn bản tố tụng thuộc thẩm quyền của mình, trừ văn bản quy định tại các
điểm b, d và đ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự và
Cáo trạng. Trường hợp đặc biệt, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
thể phân công Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao ký Cáo trạng.
Trường hợp Vụ trưởng vắng mặt mà phát
sinh văn bản cần ký ngay, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét,
quyết định phân công Kiểm sát viên cao cấp là Phó Vụ trưởng được giao phụ trách
việc giải quyết vụ án, vụ việc ký quyết định tố tụng đối với vụ án, vụ việc đó.
Các văn bản tố tụng Kiểm sát viên được
phân công ký thừa lệnh Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện
theo Phụ lục A ban hành kèm theo Quy chế này. Kiểm
sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao về việc ký các văn bản được phân công; sau khi ký văn bản, Kiểm
sát viên phải gửi cho lãnh đạo Viện để theo dõi, chỉ đạo. Khi ký các văn bản tố
tụng được phân công, Kiểm sát viên phải ghi thừa lệnh Viện trưởng, cụ thể như
sau:
TL.VIỆN
TRƯỞNG
KIỂM
SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
(hoặc
KIỂM SÁT VIÊN CAO CẤP)
Chữ
ký
(Ghi
rõ họ và tên)
Điều 7. Phân
công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thụ lý giải quyết vụ án, vụ việc
1. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan
có thẩm quyền điều tra, thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải ra quyết định
phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án, vụ việc. Tùy
theo tính chất của vụ án, vụ việc, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có thể
phân công một hoặc nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cùng giải quyết vụ án, vụ
việc.
Trường hợp Viện
trưởng Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành tố tụng đối với vụ án, vụ việc thì
Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản thông báo gửi cho Cơ quan có thẩm quyền điều
tra.
2. Trường hợp vụ án,
vụ việc có nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên cùng tham gia giải quyết thì
trong quyết định phân công phải ghi rõ phân công Kiểm sát viên thụ lý chính.
Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Kiểm sát
viên thụ lý chính là Kiểm sát viên cao cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, Kiểm sát viên thụ lý chính là
Kiểm sát viên trung cấp trở lên; tại Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện
kiểm sát quân sự khu vực, Kiểm sát viên thụ lý chính là Kiểm sát viên sơ cấp trở
lên.
Kiểm sát viên thụ lý
chính có trách nhiệm xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát việc
khởi tố, điều tra, truy tố, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên và
chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện về việc giải quyết vụ án, vụ việc.
3. Trường hợp vụ án, vụ việc có cả
Kiểm sát viên và Kiểm tra viên tham gia giải quyết thì Kiểm tra viên giúp việc
cho Kiểm sát viên và tuân theo sự phân công, chỉ đạo nghiệp vụ của Kiểm sát
viên. Các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải thực hiện nhiệm vụ theo sự phân
công và chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Kiểm sát viên thụ lý chính. Kiểm sát viên
ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo nghiệp vụ của Kiểm sát
viên ở ngạch cao hơn.
Điều 8. Thay
đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng, Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một
trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Tố
tụng hình sự. Lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi Kiểm
sát viên, Kiểm tra viên và phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thay thế theo
quy định tại khoản 2 Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được kiến nghị của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
hoặc đề nghị của người tham gia tố tụng về việc xem xét thay đổi Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên; nếu thấy có căn cứ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết
định thay đổi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; nếu thấy không có căn cứ thì thông
báo bằng văn bản nêu rõ lý do.
Nếu Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
thì Viện trưởng phân công Phó Viện trưởng khác hoặc Viện trưởng trực tiếp tiến
hành tố tụng đối với vụ án; đồng thời, thông báo bằng văn bản việc thay đổi đó
cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra đang thụ lý vụ án và người tham gia tố
tụng (nếu người tham gia tố tụng đề nghị thay đổi).
Nếu Viện trưởng Viện
kiểm sát thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì báo
cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp ra quyết định phân công một
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nơi Viện trưởng bị thay đổi tiến hành tố tụng đối
với vụ án và thông báo bằng văn bản cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra
đang thụ lý vụ án và người tham gia tố tụng (nếu người tham gia tố tụng đề nghị
thay đổi); trường hợp Viện trưởng và Phó Viện trưởng đều thuộc một trong những
trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Viện kiểm sát,
Cơ quan có thẩm quyền điều tra thống nhất báo cáo Cơ quan có thẩm quyền điều
tra, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để Cơ quan có thẩm quyền điều tra cấp
trên trực tiếp rút vụ án để điều tra.
3. Quyết định thay
đổi và phân công Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng, Viện
trưởng Viện kiểm sát quy định tại Điều này phải gửi cho Cơ quan có
thẩm quyền điều tra đang thụ lý vụ án, đưa vào hồ sơ vụ án và lưu hồ
sơ kiểm sát.
Điều 9. Yêu
cầu thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Thủ trưởng, Cấp trưởng, Phó Thủ
trưởng, Cấp phó của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
1. Khi thấy Điều tra
viên, Cán bộ điều tra thuộc một trong những trường hợp phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 49 và Điều
51 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên trao đổi ngay để Điều tra
viên, Cán bộ điều tra từ chối tiến hành tố tụng, nếu không từ chối thì Kiểm sát
viên có văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ
quan có thẩm quyền điều tra xem xét, thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra
hoặc báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Thủ
trưởng, Cấp trưởng hoặc Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền điều tra
xem xét, thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra.
Trường hợp Phó Thủ
trưởng, Cấp phó Cơ quan có thẩm quyền điều tra thuộc trường hợp phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra
thay đổi.
2. Nếu Thủ trưởng,
Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra thuộc trường hợp phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành thủ tục đề nghị Viện kiểm sát
có thẩm quyền ra quyết định chuyển vụ án đến Cơ quan có thẩm quyền điều tra cấp
trên trực tiếp để tiến hành điều tra. Nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
có văn bản đề nghị thì Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyển vụ án. Viện
kiểm sát cấp dưới phải báo cáo bằng văn bản về việc chuyển vụ án cho Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp để thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án.
Điều 10. Kiểm
sát việc dùng tiếng nói và chữ viết trong tố tụng hình sự
1. Kiểm sát viên kiểm
sát chặt chẽ hành vi, tài liệu tố tụng, bảo đảm nguyên tắc tiếng nói và chữ
viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt theo quy định tại Điều 29 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp tài
liệu tố tụng không thể hiện bằng tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng không
sử dụng được tiếng Việt hoặc người tham gia tố tụng có khuyết tật nghe, nói, nhìn
thì Kiểm sát viên chủ động yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra yêu cầu
cử người dịch thuật, người phiên dịch tham gia tố tụng.
Việc phiên dịch phải
lập biên bản theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 11. Kiểm
sát việc bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
1. Kiểm sát viên kiểm
sát việc thực hiện trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền điều tra
trong việc thông báo, giao, gửi, cấp, chuyển, niêm yết tài liệu, văn bản tố
tụng và việc giải thích, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Việc thông báo, giải thích
phải được ghi vào biên bản.
2. Khi kiểm sát việc
bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội, Kiểm sát viên cần chú ý
các nội dung sau:
a) Kiểm sát chặt
chẽ việc chuyển đơn yêu cầu người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền
đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ; việc thông báo cho
người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc người đại diện hoặc người thân
thích của họ đã có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa theo đúng quy định
tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự; việc bảo đảm quyền từ chối hoặc đề
nghị thay đổi người bào chữa theo quy định tại Điều 77 Bộ
luật Tố tụng hình sự;
b) Trường hợp người
bị buộc tội thuộc diện được chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự mà Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không yêu cầu hoặc đề nghị chỉ định người bào chữa thì Kiểm sát
viên yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra văn bản yêu cầu hoặc đề nghị các
tổ chức có liên quan cử người bào chữa; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu hoặc đề nghị các tổ chức có liên quan cử người bào chữa
theo quy định tại khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người bị buộc tội,
người đại diện hoặc người thân thích của họ có quyền từ chối hoặc đề nghị thay
đổi người bào chữa. Việc thay đổi người bào chữa do cơ quan đã yêu cầu hoặc đề
nghị chỉ định người bào chữa xem xét, giải quyết; việc từ chối người bào chữa
phải được lập biên bản và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chấm dứt việc
chỉ định người bào chữa.
3. Trong giai đoạn
truy tố, Kiểm sát viên có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý đơn yêu cầu bào chữa của
bị can, người đại diện hoặc người thân thích của bị can; đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện tiến hành các thủ tục chỉ định người bào chữa cho bị
can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Khi người bào chữa
đăng ký bào chữa, Kiểm sát viên có trách nhiệm kiểm tra các giấy tờ người bào
chữa xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ
luật Tố tụng hình sự, kiểm tra điều kiện không được tham gia bào chữa của
người bào chữa theo quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 72 Bộ
luật Tố tụng hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận đủ giấy tờ, nếu
đủ điều kiện, Kiểm sát viên vào sổ đăng ký bào chữa và ra văn bản
thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa, cơ sở giam giữ; trường hợp
từ chối việc đăng ký bào chữa phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.
Trường hợp bị can,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, người bào chữa
có yêu cầu đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan
đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào
chữa thì Kiểm sát viên bố trí thời gian, địa điểm và kiểm sát chặt chẽ bị can,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội, người bào chữa
thực hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật.
Điều 12. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc và giữ bí mật kiểm
tra, xác minh, bí mật điều tra
1. Trong quá trình
kiểm tra, xác minh, khởi tố, điều tra và truy tố, tài liệu của Cơ
quan có thẩm quyền điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải
được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc theo đúng trình tự tố tụng.
Kiểm sát viên kiểm
sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án, vụ việc của Điều tra viên, Cán bộ điều
tra, bảo đảm tài liệu trong hồ sơ phải được đóng dấu bút lục của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, Viện kiểm sát kèm theo bản thống kê tài liệu theo quy
định của pháp luật.
Khi nhận được tài
liệu liên quan đến vụ án, vụ việc do Cơ quan có thẩm quyền điều tra
chuyển đến, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính hợp pháp của tài liệu đó.
Trường hợp phát hiện tài liệu thu thập không đúng quy định của pháp
luật hoặc không có giá trị chứng minh thì Kiểm sát viên yêu
cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện đúng
quy định của pháp luật.
Việc giao, nhận,
thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ sơ vụ án trong giai đoạn điều tra,
truy tố được thực hiện theo quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ
luật Tố tụng hình sự, các quy định khác của pháp luật và Điều 66 của Quy
chế này.
2. Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên phải giữ bí mật kiểm tra, xác minh, bí mật điều tra;
yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra, người tham gia tố tụng giữ bí mật
kiểm tra, xác minh, bí mật điều tra; nếu phát hiện vi phạm thì báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét xử lý hoặc kiến
nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 13. Phát
hiện và xử lý vi phạm
1. Kiểm sát viên thụ
lý giải quyết vụ án, vụ việc phải kịp thời phát hiện, theo dõi, tổng hợp vi
phạm pháp luật của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Điều tra
viên, Cán bộ điều tra để yêu cầu khắc phục; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện yêu cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra
xử lý nghiêm minh Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật khi
tiến hành hoạt động kiểm tra, xác minh, điều tra. Nếu vi phạm
của Điều tra viên, Cán bộ điều tra có dấu hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên
báo cáo lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra khởi tố
vụ án hình sự; nếu có dấu hiệu tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp thì báo cáo
lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo Viện kiểm sát quân sự trung
ương để chỉ đạo Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương xem xét, giải quyết
theo thẩm quyền.
Đối với lệnh, quyết
định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Thủ trưởng, Cấp phó Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, thì lãnh đạo Viện ra văn bản yêu
cầu Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết
định thay đổi, hủy bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ. Đối
với lệnh, quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Thủ trưởng, Cấp trưởng
Cơ quan có thẩm quyền điều tra thì lãnh đạo Viện ra quyết định thay
đổi hoặc hủy bỏ.
Đối với lệnh, quyết
định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra đã được Viện kiểm sát phê
chuẩn mà phát hiện không có căn cứ và trái pháp luật thì lãnh đạo Viện kiểm sát
có thẩm quyền ra quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ.
Trường hợp Viện kiểm
sát quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ lệnh, quyết định của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra thì phải gửi ngay cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra
để thực hiện.
2. Quá trình thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, Kiểm
sát viên có trách nhiệm yêu cầu, tổng hợp các vi phạm pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng và những sơ hở, thiếu sót trong lĩnh vực quản lý kinh tế, xã
hội của cơ quan, tổ chức có liên quan, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ban hành văn bản kiến nghị yêu cầu khắc phục và áp dụng các
biện pháp phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 160, khoản 6, khoản 8 Điều 166 và khoản 1 Điều 237 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
Điều 14. Xử
lý, kiến nghị xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự
1. Người bị buộc tội,
người tham gia tố tụng khác có một trong các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình
sự quy định tại Điều 466 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
tùy từng hành vi, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện giải quyết theo thẩm quyền hoặc kiến nghị, yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.
2. Hình thức, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng
hình sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Xử lý vi
phạm hành chính và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Chương II
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG, THAY ĐỔI,
HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
Điều 15. Xét
phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp
1. Ngay sau khi nhận
được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn
cấp, Kiểm sát viên phải tiến hành các hoạt động sau đây:
a) Kiểm tra hồ sơ,
bảo đảm đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 110 Bộ luật
Tố tụng hình sự; trường hợp không đủ tài liệu, chứng cứ thì yêu cầu cơ quan
đề nghị phê chuẩn bổ sung;
b) Xác định thẩm
quyền, căn cứ của việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp qua nghiên
cứu hồ sơ, thấy có dấu hiệu lạm dụng việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp
hoặc chưa đủ căn cứ để giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc người bị giữ
không nhận tội, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, người bị giữ
là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, là nhân sĩ, trí thức,
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số hoặc trong trường hợp cần thiết
khác thì Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi người bị giữ trước khi báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc phê chuẩn. Khi cần
hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Kiểm sát viên thông báo trước cho
Cơ quan có thẩm quyền điều tra để phối hợp trong quá trình hỏi. Biên bản ghi
lời khai của người bị giữ do Kiểm sát viên lập phải thực hiện theo đúng quy
định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự và theo Mẫu do
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, được đưa vào hồ sơ vụ án, vụ việc, lưu
hồ sơ kiểm sát.
2. Trong thời hạn 12
giờ, kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp, lãnh đạo Viện phải quyết định phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn; thời hạn này được tính liên tục, kể cả trong và ngoài giờ làm việc.
Điều 16. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm giữ
1. Ngay sau khi nhận
được quyết định tạm giữ, hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên tiến hành
kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ để báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Nếu thấy việc tạm
giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì ra quyết định hủy bỏ
quyết định tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 4 Điều 117 Bộ
luật Tố tụng hình sự;
b) Nếu thấy việc gia
hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết, thì trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận
được hồ sơ đề nghị phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ, lãnh đạo Viện phải ra
quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ
không có căn cứ hoặc không cần thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết
định gia hạn tạm giữ và yêu cầu cơ quan đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ theo quy định tại khoản 2 Điều 118 Bộ
luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định gia
hạn tạm giữ lần thứ nhất nhưng không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ lần
thứ hai thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do.
2. Hằng ngày, Viện
kiểm sát phải kiểm sát số người bị bắt, bị tạm giữ, gia hạn tạm giữ, số người
chuyển tạm giam, số người được trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác,
số người Viện kiểm sát không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, không phê chuẩn gia hạn tạm giữ, số người bị bắt, bị tạm giữ nhưng
không xử lý hình sự; phát hiện, tổng hợp vi phạm của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
Hằng tuần, Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp bằng văn bản.
Điều 17. Xét
phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, quyết định áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
1. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, văn bản
đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Kiểm sát viên kiểm
tra tài liệu, chứng cứ, đối chiếu với quy định tại các điều
113, 119 và 173 Bộ luật Tố tụng hình sự để xác định thẩm quyền, đối
tượng, căn cứ, điều kiện tạm giam, thời hạn tạm giam đối với từng bị
can; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn và trả hồ sơ cho cơ quan đề nghị phê chuẩn ngay sau
khi kết thúc việc xét phê chuẩn. Đối với trường hợp bị can bị bắt tạm giam sau
khi đã khởi tố vụ án thì thời hạn tạm giam không được quá thời hạn điều tra vụ
án.
Trường hợp chưa rõ
căn cứ thì ra văn bản yêu cầu cơ quan đề nghị phê chuẩn bổ sung tài liệu, chứng
cứ để làm rõ căn cứ xem xét, quyết định việc phê chuẩn. Trong trường hợp này,
thời hạn xét phê chuẩn là 03 ngày, kể từ khi Viện kiểm sát nhận được tài liệu,
chứng cứ bổ sung.
Kiểm sát viên phải
đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào các tài liệu làm căn cứ xét phê chuẩn và
trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc phê chuẩn.
2. Nếu thấy đủ căn cứ
để tạm giam bị can theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố
tụng hình sự và cần thiết phải tạm giam bị can, nhưng Cơ quan điều tra
không ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam, thì Kiểm sát viên thụ lý
giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu
cầu Cơ quan điều tra ra lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam;
nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra lệnh bắt bị
can để tạm giam, lệnh tạm giam và chuyển cho Cơ quan điều tra để thực
hiện.
3. Sau khi phê chuẩn
lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh tạm giam bị can, Kiểm sát viên thụ lý giải
quyết vụ án phải kiểm sát chặt chẽ việc thi hành lệnh và thời hạn tạm giam bị
can để kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải
quyết như sau:
a) Trong giai
đoạn điều tra, trường hợp còn thời hạn tạm giam nhưng xét thấy biện
pháp tạm giam đối với bị can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra
ra văn bản đề nghị Viện kiểm sát quyết định việc hủy bỏ biện pháp tạm
giam hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác;
b) Trước khi hết thời
hạn tạm giam 10 ngày, nếu Cơ quan điều tra chưa có văn bản đề nghị
Viện kiểm sát gia hạn tạm giam bị can thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra
viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra văn bản
đề nghị gia hạn hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam.
Chậm nhất 05 ngày,
trước khi hết thời hạn tạm giam, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định gia hạn tạm giam hoặc thay
đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam.
4. Viện kiểm sát phải
nắm chắc số liệu tạm giam; theo dõi, quản lý chặt chẽ các trường hợp không phê
chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam, không phê chuẩn lệnh tạm giam, không gia hạn
tạm giam, quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giam, các trường hợp
tạm giam nhưng đình chỉ điều tra do bị can không phạm tội hoặc Tòa án
tuyên không phạm tội để báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện. Hằng tháng,
Viện kiểm sát cấp dưới tổng hợp, báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp bằng
văn bản.
Điều 18. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để
bảo đảm
1. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định về việc
đặt tiền để bảo đảm, đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu khác có liên quan về
việc bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm, Kiểm sát viên phải kiểm sát căn
cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm
theo quy định tại Điều 121 hoặc Điều 122 Bộ luật Tố tụng
hình sự và Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
ngày 07/8/2018 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết trình tự, thủ tục, mức
tiền đặt, việc tạm giữ, hoàn trả, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền đã
đặt để bảo đảm, báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết
định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định về việc bảo lĩnh hoặc quyết định
về việc đặt tiền để bảo đảm.
Trường hợp bị can đã
được áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm nhưng vi phạm nghĩa vụ
thì Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can.
2. Trong giai đoạn
truy tố, nếu có căn cứ thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh hoặc
đặt tiền để bảo đảm thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện xem xét, quyết định.
Điều 19. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
1. Sau khi phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can, nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can, Kiểm sát viên phải
kiểm sát căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thời hạn và việc thông báo về
việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra. Nếu phát hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Cơ
quan có thẩm quyền điều tra không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ
quan có thẩm quyền điều tra hủy bỏ lệnh đó. Nếu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ lệnh cấm đi
khỏi nơi cư trú của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
Trường hợp phát hiện
bị can vi phạm việc thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản
2 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và ra lệnh bắt
bị can để tạm giam.
2. Trong giai đoạn
truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định áp dụng biện
pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp nếu bị can
đã được quyết định áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng vi phạm nghĩa
vụ cam đoan thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện xem xét hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và ra lệnh bắt bị can để
tạm giam.
Điều 20. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm hoãn xuất cảnh
1. Ngay sau khi nhận
được thông báo về việc quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan điều tra,
Kiểm sát viên phải kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh.
Trường hợp xét thấy quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan điều tra
không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ quyết định
tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ
quyết định tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan điều tra theo quy định tại Điều 41 và khoản 5 Điều 165 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu có
căn cứ xác định việc bị can có dấu hiệu bỏ trốn ra nước ngoài mà Cơ quan điều
tra không ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Kiểm
sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết
định tạm hoãn xuất cảnh và gửi ngay cho Cơ quan điều tra, Cơ quan quản lý xuất
nhập cảnh.
2. Trong giai đoạn
truy tố, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh
đối với những người quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật
Tố tụng hình sự. Trong trường hợp này, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh không
được quá thời hạn quyết định việc truy tố.
Điều 21. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
hủy bỏ, thay thế biện pháp ngăn chặn theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Khi xem xét các
trường hợp hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát
viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Đối với quyết định
áp dụng biện pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
do Viện kiểm sát phê chuẩn thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm
quyền điều tra hủy bỏ. Nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;
b) Đối với quyết định
áp dụng biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc ban hành thì Viện
kiểm sát ra quyết định hủy bỏ.
3. Khi xem xét các
trường hợp hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn theo quy định
tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như
sau:
a)
Đối với quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không do Viện kiểm sát phê chuẩn; nếu xét thấy không còn cần thiết hoặc có thể
thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác mà Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế thì Viện kiểm sát ra văn bản
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định hủy bỏ
hoặc thay thế.
Nếu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định hủy bỏ hoặc
thay thế nhưng Viện kiểm sát thấy việc hủy bỏ hoặc thay thế đó không
có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều
tra hủy bỏ; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;
b)
Đối với quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc
ban hành thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế.
Trường hợp chưa hết
thời hạn gia hạn tạm giữ mà Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can và xét thấy không cần thiết tạm giữ thì căn cứ khoản 2 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự, Viện kiểm sát yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra có văn bản đề nghị Viện kiểm sát quyết định việc
hủy bỏ biện pháp tạm giữ; nếu cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác
thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra thực hiện, nếu Cơ quan
có thẩm quyền điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát thực hiện.
Điều 22. Gia
hạn tạm giam để điều tra
1. Việc gia hạn tạm
giam và thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát các cấp được thực hiện
theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp cần
thiết phải gia hạn tạm giam theo quy định tại khoản 5 và
khoản 6 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vụ án đang do Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, thì trên cơ sở đề nghị gia hạn tạm giam của Cơ
quan điều tra cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu phải chuyển hồ sơ vụ án kèm theo văn bản đề nghị gia
hạn, nêu rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lý do đề nghị gia hạn
đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao chậm nhất 10 ngày, trước khi hết thời hạn
tạm giam. Chậm nhất 05 ngày, kể từ khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo
văn bản đề nghị gia hạn, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định gia hạn
hoặc không gia hạn tạm giam; nếu không gia hạn tạm giam thì phải có văn bản nêu
rõ lý do và trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã đề nghị.
Điều 23. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải
1. Trong giai đoạn
khởi tố, điều tra và truy tố, nếu xét thấy cần thiết phải áp dụng
biện pháp áp giải, dẫn giải các đối tượng quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều 127 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trước khi ra quyết định
áp giải, dẫn giải.
2. Khi kiểm sát việc
áp giải, dẫn giải của Điều tra viên, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ đối tượng bị áp giải, dẫn giải; điều kiện áp dụng, thẩm quyền;
nội dung quyết định, trình tự thi hành; cơ quan có trách nhiệm thi hành quyết
định áp giải, quyết định dẫn giải. Nếu phát hiện vi phạm phải báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu khắc phục vi phạm và kiểm sát
việc khắc phục vi phạm.
Điều 24. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản
1. Sau khi nhận được
lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản, Kiểm sát viên phải kiểm
sát chặt chẽ đối tượng bị áp dụng, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền áp
dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản; nội dung biên bản kê
biên tài sản, phong tỏa tài khoản theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong giai đoạn khởi
tố, điều tra, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần
thiết phải áp dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản mà
Cơ quan điều tra chưa áp dụng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
áp dụng; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra
lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản và yêu cầu Cơ quan điều tra
tổ chức, triển khai thực hiện.
Trường hợp Cơ
quan điều tra ra lệnh kê biên tài sản, lệnh phong tỏa tài khoản không
có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra
hủy bỏ lệnh đó; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm
sát ra quyết định hủy bỏ.
2. Trong giai đoạn
truy tố, nếu xét thấy có đủ căn cứ, điều kiện và cần thiết phải áp
dụng biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản thì Kiểm sát viên
báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết định việc kê
biên tài sản, phong tỏa tài khoản, đồng thời yêu cầu Cơ quan điều tra
phối hợp thực hiện.
Điều 25. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp kê biên tài
sản, phong tỏa tài khoản
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ từng trường hợp, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền,
trình tự, thủ tục hủy bỏ, thay thế biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa
tài khoản theo quy định tại Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
2. Trường hợp có đủ
căn cứ hủy bỏ biện pháp kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của
Cơ quan điều tra theo quy định tại khoản
1 Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra không
ra quyết định hủy bỏ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ;
nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì lãnh đạo Viện ra quyết
định hủy bỏ.
Trường hợp xét thấy
không còn cần thiết áp dụng hoặc có thể thay thế biện pháp kê biên tài
sản, phong tỏa tài khoản của Cơ quan điều tra bằng biện
pháp khác theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Bộ luật Tố
tụng hình sự mà Cơ quan điều tra không ban hành quyết
định hủy bỏ hoặc thay thế, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế. Trường hợp Cơ quan điều tra
ra quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp kê biên tài sản,
phong tỏa tài khoản theo quy định tại khoản 2
Điều 130 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng xét thấy quyết
định hủy bỏ hoặc thay thế của Cơ quan điều tra không có căn
cứ và trái pháp luật thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ban hành văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra hủy bỏ
quyết định đó; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát
ra quyết định hủy bỏ.
3. Trong giai đoạn
khởi tố, điều tra, quyết định áp dụng biện pháp kê biên tài sản,
phong tỏa tài khoản do Viện kiểm sát ban hành thì Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ hoặc
thay thế.
Trong giai đoạn truy
tố, Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp kê biên tài sản,
phong tỏa tài khoản khi có đủ căn cứ quy định tại Điều
130 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chương III
THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG, KHÁM NGHIỆM TỬ THI,
THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
Điều 26. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám
định
1. Yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều
tra hoặc những người biết về vụ việc cung cấp các thông tin liên quan đến vụ việc
cần khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
2. Kiểm sát viên phải kiểm sát thành
phần tiến hành, tham gia việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực
nghiệm điều tra bảo đảm đúng thẩm quyền, thành phần theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
3. Yêu cầu Điều tra
viên, Cán bộ điều tra thu giữ, niêm phong, bảo quản vật chứng, tài liệu, đồ vật
hoặc dữ liệu điện tử có liên quan đến vụ việc khám nghiệm; lập biên bản, chụp ảnh,
vẽ sơ đồ và các hoạt động khác theo đúng quy định của pháp luật.
4. Kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định, kịp thời đề
ra các yêu cầu cho Điều tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn,
Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định viên pháp y thu thập, làm rõ các dấu
vết thương tích, giải phẫu tử thi để xác định nguyên nhân chết, sơ bộ kết luận
về nguyên nhân chết của nạn nhân (nếu có thể) để phục vụ công tác truy nguyên
hình sự và truy tìm người phạm tội đối với những vụ án không quả tang.
5. Yêu cầu Điều tra viên,
Cán bộ điều tra, người có chuyên môn, Giám định viên kỹ thuật hình sự, Giám định
viên pháp y xác định chính xác phạm vi hiện trường, bao gồm cả hiện trường
chính, hiện trường phụ, hiện trường giả của vụ án, hiện trường còn nguyên vẹn
hay đã bị thay đổi; mở rộng hiện trường để truy tìm dấu vết và công cụ, phương
tiện phạm tội. Phát hiện, mô tả, thu thập đầy đủ, trung thực, khách quan mọi dấu
vết liên quan đến tội phạm và người phạm tội tại hiện trường. Kiểm sát viên có
thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi để phục vụ cho công tác kiểm sát.
6. Kiểm tra, đối chiếu giữa sơ đồ hiện
trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều
tra và các tài liệu liên quan khác so với thực tế hiện trường, diễn biến quá
trình khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra để bảo
đảm chính xác, khách quan, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật.
7. Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi,
thực nghiệm điều tra phải có mặt từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, ký tên vào sơ
đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và thực
nghiệm điều tra.
8. Mọi trường hợp Kiểm sát viên không
trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám
nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra thì không được ký vào các loại biên bản
trên.
Điều 27. Tiếp nhận, xử
lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện
trường, khám nghiệm tử thi
1. Lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện phân công Kiểm sát viên trực nghiệp vụ 24/24 giờ để tiếp nhận, quản
lý đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến. Kiểm sát viên phải
ghi vào sổ thụ lý; ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm tiếp nhận; nội dung tố giác,
tin báo về tội phạm có liên quan đến khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi; tên, tuổi và địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; kịp thời báo
cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội
phạm kèm theo các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải
quyết. Nếu là thông tin do Cơ quan có thẩm quyền điều tra cung cấp, Kiểm sát
viên được phân công trực phải báo cáo ngay lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trong
ca trực để kịp thời phân công Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên phải giữ bí mật thông tin của cá nhân đã cung cấp tố giác, tin báo có
liên quan đến khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi nếu có yêu cầu.
2. Khi nhận được thông báo của Cơ quan
có thẩm quyền điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đối
với tất cả các vụ việc mà Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành khám nghiệm
theo quy định của pháp luật.
Đối với các vụ việc
phức tạp, các vụ án giết người không quả tang, các vụ tai nạn giao thông, các vụ
tai nạn lao động gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, vụ việc có từ 02 tử thi trở
lên; các vụ án mà người phạm tội là nhân sỹ trí thức hoặc các chức sắc tôn
giáo, người có uy tín cao thuộc các dân tộc ít người, các vụ án được dư luận xã
hội đặc biệt quan tâm hoặc các trường hợp khác khi xét thấy cần thiết thì lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp cùng Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.
Trường hợp cần thiết, Viện trưởng hoặc
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới đề nghị Viện kiểm sát cấp trên phân công
Kiểm sát viên cùng tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trường.
Điều 28. Thẩm quyền
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, thực nghiệm điều tra và giám định
1. Thẩm quyền thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo thẩm quyền giải
quyết các vụ án hình sự và theo lãnh thổ. Các vụ án giết người, nghi giết người;
các vụ tai nạn lao động, tai nạn giao thông; các vụ cháy, nổ đặc biệt nghiêm trọng,
phức tạp hoặc các vụ việc xảy ra có liên quan đến yếu tố nước ngoài; các vụ việc
đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp khác do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều
tra quân sự cấp quân khu tiến hành khám nghiệm thuộc thẩm quyền thực hành quyền
công tố, kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu.
2. Trong trường hợp vụ
việc thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự
cấp quân khu, khi có yêu cầu thì Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi
có dấu vết tội phạm có trách nhiệm phân công Kiểm sát viên phối hợp, tham gia thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi.
Điều 29. Hoạt động của
Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm hiện trường
Trước khi khám nghiệm hiện trường, Kiểm
sát viên phải chủ động nắm tình hình, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra
thông báo nội dung, diễn biến ban đầu của sự việc xảy ra, công tác bảo vệ hiện
trường, để tham gia ý kiến vào việc chuẩn bị khám nghiệm, phương pháp khám nghiệm,
chủ động yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra tiến hành khám nghiệm hiện trường,
kiểm tra đầy đủ thành phần trước khi tiến hành khám nghiệm bảo đảm đúng quy định
tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 30. Hoạt động của
Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm hiện trường
1. Kiểm sát viên phải phối hợp với Điều
tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn để thống nhất nội dung, kế hoạch,
trình tự, phương pháp khám nghiệm hiện trường, bảo đảm khách quan, toàn diện và
đúng pháp luật.
Kiểm sát việc lấy lời khai những người
biết sự việc ngay tại hiện trường, nếu thấy người làm chứng, người bị hại hoặc
đối tượng có thể chết hoặc mất khả năng khai báo, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều
tra viên, Cán bộ điều tra lấy ngay lời khai và ghi âm lời khai của họ.
2. Kiểm sát viên phải chủ động nắm
tình hình về hiện trường qua thông báo của Điều tra viên, Cán bộ điều tra,
thông tin do người dân xung quanh khu vực hiện trường cung cấp; hoặc tự mình
quan sát và phân tích các yếu tố để đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên
vẹn hay đã bị thay đổi, nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi ấy do các yếu tố con
người, thời tiết, động vật qua lại hoặc các yếu tố khách quan khác; xác định phạm
vi cần khám nghiệm và những loại dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu
điện tử cần được xem xét, thu giữ để yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra thực
hiện.
3. Trong quá trình khám nghiệm hiện
trường, Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ các hoạt động khám nghiệm. Yêu cầu
Điều tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn thực hiện đúng trình tự, thủ
tục khám nghiệm; vẽ sơ đồ, chụp ảnh, đo đạc và mô tả thực trạng hiện trường và
thực hiện các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. Yêu cầu biên bản
khám nghiệm hiện trường phải được lập, sơ đồ hiện trường phải được vẽ ngay tại
nơi khám nghiệm.
Kiểm sát viên phải ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng, cụ thể các tình tiết, đặc điểm, vị trí của dấu vết, vật chứng,
đồ vật, tài liệu quan trọng tại hiện trường để có cơ sở xem xét đối chiếu, kiểm
tra với biên bản và sơ đồ khám nghiệm hiện trường. Trường hợp cần thiết, Kiểm
sát viên có thể chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, xem xét tại chỗ
dấu vết, đồ vật, tài liệu có liên quan đến tội phạm, lấy lời khai và ghi âm lời
khai của người bị hại, người làm chứng và những người biết việc,các tài liệu
này được lưu trong hồ sơ kiểm sát.
4. Kiểm sát viên đề ra yêu cầu khám
nghiệm trên cơ sở nghiên cứu cơ chế, quy luật hình thành dấu vết để có thể phát
hiện, xác định được loại dấu vết; dấu vết hình thành đúng hay trái với quy luật
thông thường, sự mâu thuẫn giữa các dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu
điện tử để kịp thời yêu cầu thu thập đầy đủ; tránh trường hợp làm mất, hư hỏng
các dấu vết hoặc làm thay đổi tình trạng hiện trường. Xác định có hay không việc
tạo hiện trường giả sau khi gây án.
5. Kiểm sát viên phối hợp với Điều
tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn phân tích, đánh giá các
dấu vết, vật chứng, đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ được tại hiện
trường để đặt ra các giả thuyết điều tra, định hướng cho việc khám nghiệm, thu
giữ dấu vết được đầy đủ, chính xác, phục vụ công tác truy tìm vật chứng, truy bắt
người thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu thấy việc khám nghiệm hiện
trường chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 201 Bộ luật Tố tụng hình sự thì
Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn bổ sung, khắc
phục; trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì Kiểm sát viên
kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xin ý kiến chỉ đạo; yêu cầu Điều
tra viên ghi ý kiến của mình vào biên bản khám nghiệm.
6. Những dấu vết, vật chứng,
đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử đã thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng
hoặc niêm phong theo quy định của pháp luật, bảo đảm phục vụ cho việc giám định
và sử dụng làm chứng cứ giải quyết vụ án.
7. Kiểm sát viên phải có trách nhiệm phối hợp cùng Điều
tra viên, Cán bộ điều tra phân tích, đánh giá đúng kết quả khám nghiệm hiện trường;
xem xét quyết định kết thúc khám nghiệm hoặc tiếp tục bảo vệ hiện trường để có
thể khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại; xác định rõ những dấu vết, vật chứng,
đồ vật, tài liệu, dữ liệu điện tử cần được trưng cầu giám định, nội dung cần
trưng cầu để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Trường hợp ý kiến giữa Kiểm sát viên
và Điều tra viên không thống nhất thì Kiểm sát viên yêu cầu ghi ý kiến của
mình vào biên bản và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện sau khi kết thúc
khám nghiệm.
8. Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra
viên, Cán bộ điều tra quán triệt những người tham gia khám nghiệm hiện trường
giữ bí mật về kết quả khám nghiệm, tuyệt đối không được tiết lộ, gây khó khăn cho
công tác điều tra,
giải quyết vụ án.
Điều 31. Hoạt động của
Kiểm sát viên sau khi kết thúc việc khám nghiệm hiện trường
Sau khi kết thúc việc khám nghiệm hiện
trường, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm, đồng thời
báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm xử lý với lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện
về kết quả khám nghiệm hiện trường, những yêu cầu của Kiểm sát viên không được Điều tra
viên, Cán bộ điều tra, người có chuyên môn thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
(nếu
có), cần phải khám nghiệm bổ sung, khám nghiệm lại để có ý kiến chỉ đạo.
Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo
cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên
theo quy định của Ngành.
Điều 32. Hoạt động của
Kiểm sát viên trước khi khám nghiệm tử thi
Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp với
Điều tra viên để thống nhất nội dung, kế hoạch khám nghiệm tử thi. Trước khi
khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên thông báo tóm tắt nội
dung vụ việc, thành phần tiến hành, tham gia khám nghiệm, thời gian, địa điểm
tiến hành khám nghiệm.
Điều 33. Hoạt động của
Kiểm sát viên trong quá trình khám nghiệm tử thi
1. Trong quá trình
khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên, Giám định viên
pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự tiến hành chụp ảnh, mô tả đầy đủ dấu vết
để lại trên tử thi, thu thập, bảo quản mẫu vật, phục vụ công tác giám định để
xác định nguyên nhân chết hoặc truy tìm tung tích của nạn nhân.
Kiểm sát viên phải
ghi chép, mô tả đầy đủ, chính xác, rõ ràng, cụ thể các dấu vết để lại trên tử
thi để làm cơ sở xem xét, đối chiếu với biên bản khám nghiệm tử thi.
2. Nếu thấy việc khám nghiệm tử thi
chưa đầy đủ, vi phạm quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng hình
sự, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Giám định viên pháp y, Giám định
viên kỹ thuật hình sự bổ sung, khắc phục; trường hợp không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ thì yêu cầu ghi ý kiến của Kiểm sát viên vào biên bản khám
nghiệm và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.
3. Trường hợp phải khai quật tử thi,
Kiểm sát viên phải kiểm sát về trình tự, thủ tục, bảo đảm việc khai quật tử thi
để khám nghiệm đúng quy định tại Điều 202 Bộ luật Tố tụng
hình sự
và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Điều 34. Hoạt động của
Kiểm sát viên sau khi kết thúc việc khám nghiệm tử thi
Sau khi kết thúc việc
khám nghiệm tử thi, Kiểm sát viên phải ghi thông tin vào sổ thụ lý khám nghiệm,
đồng thời báo cáo ngay bằng văn bản và đề xuất quan điểm với lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện về kết quả khám nghiệm tử thi, những yêu cầu của Kiểm sát viên
không được Điều tra viên, Giám định viên pháp y, Giám định viên kỹ thuật hình sự
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ (nếu có) để có ý kiến chỉ đạo.
Kiểm sát viên phải dự thảo ngay báo
cáo ban đầu trình lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện gửi Viện kiểm sát cấp trên
theo quy định của Ngành.
Điều 35. Thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm điều tra
1. Khi nhận được thông báo của Cơ quan
điều tra về việc thực nghiệm điều tra, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải cử
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm điều tra. Trường hợp
Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện
và thông báo cho Cơ quan điều tra biết để ghi vào biên bản thực nghiệm điều
tra.
Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội
dung, kế hoạch thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc dựng lại hiện trường, diễn lại
hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác phù hợp với thực tế khách quan, theo
đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong trường hợp cần thiết mà Cơ quan điều
tra chưa tổ chức thực nghiệm điều tra, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến
hành thực nghiệm điều tra.
2. Viện kiểm sát tiến hành thực nghiệm
điều tra khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm
sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra nhưng Cơ quan điều tra
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ;
b) Trong giai đoạn truy
tố, mà xét thấy việc thực nghiệm điều tra đơn giản, không cần phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện tự mình hoặc phối hợp với Cơ quan điều tra tổ chức thực nghiệm điều tra.
Việc thực nghiệm điều tra và lập biên
bản thực nghiệm điều tra phải theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ
luật Tố tụng hình sự và quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều
36. Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giám định
1. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc
trưng cầu giám định của Cơ quan có thẩm quyền điều tra nhằm bảo đảm nội dung
trưng cầu giám định cụ thể, rõ ràng, phù hợp với sự việc và những vấn đề cần
yêu cầu kết luận. Trường hợp cần thiết, vụ án, vụ việc cần phải
trưng cầu giám định, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều
tra thống nhất nội dung trưng cầu giám định trước khi trưng cầu; khi có kết luận
giám định cần phối hợp kiểm tra, đánh giá toàn bộ kết quả và lập thành biên bản
lưu hồ sơ kiểm sát.
Kiểm sát viên phải kịp thời nghiên cứu
hồ sơ, tài liệu để phát hiện các nội dung cần giám định, các trường hợp bắt buộc
phải trưng cầu giám định quy định tại Điều 206 Bộ luật Tố tụng
hình sự, các trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định quy định tại
Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP ngày 13/12/2017 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an và Bộ Tư
pháp quy định những trường hợp cần thiết phải trưng cầu giám định tư pháp trong
giải quyết vụ án, vụ việc về tham nhũng, kinh tế nhưng chưa được trưng cầu giám
định để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra quyết định trưng cầu giám định theo quy
định tại Điều 205 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp Kiểm sát viên tham dự giám
định, thì phải thông báo trước cho người giám định biết theo đúng quy định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Nếu thấy nội dung kết luận giám định
chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới cần phải giám định liên
quan đến các tình tiết của vụ án, vụ việc đã được kết luận trước đó, thì Kiểm
sát viên phải kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản
yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra trưng cầu giám định bổ sung theo quy định tại Điều 210 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy nghi ngờ kết luận giám định lần
đầu không chính xác hoặc có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết
luận giám định lại về cùng một nội dung giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền
điều tra trưng cầu giám định lại hoặc giám định lại lần thứ hai theo quy định
tại Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy cần làm sáng tỏ nội dung kết
luận giám định thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra để yêu cầu tổ chức, cá nhân đã tiến hành
giám định giải thích kết luận giám định, hỏi thêm người giám định về những tình
tiết cần thiết theo quy định tại Điều 213 Bộ luật Tố tụng hình
sự.
Nếu phát hiện người giám định thuộc
trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản
5 Điều 68 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
trưng cầu
giám định thay đổi người giám định.
3. Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trưng
cầu giám định khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trong giai đoạn khởi tố, Viện kiểm
sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
b) Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm
sát đã yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định trưng cầu giám định
nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện mà nếu không giám định thì
không đủ chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra;
c) Trong giai đoạn truy
tố, nếu xét thấy cần thiết.
4. Trường hợp Viện kiểm sát đã trưng cầu
giám định mà thấy cần giám định bổ sung, giám định lại, giám định lại lần thứ
hai hoặc cần làm sáng tỏ nội dung kết luận giám định thì thực hiện theo quy định
tại khoản 2 Điều này.
5. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ
thời hạn gửi quyết định trưng cầu giám định, thời hạn giám định và thời hạn gửi
kết luận giám định, bảo đảm đúng theo quy định tại các điều
205, 208 và 213 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 37. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc định giá tài sản
1. Kiểm sát viên chủ
động kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục yêu cầu
định giá tài sản theo quy định tại các điều 215, 216, 217,
218, 219, 220, 221 và 222 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Sau khi nhận
được văn bản yêu cầu định giá tài sản của Cơ quan có thẩm quyền điều tra,
nếu thấy nội dung chưa đầy đủ, rõ ràng thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra sửa đổi, bổ sung.
Trường hợp cần định
giá tài sản nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không yêu cầu định
giá tài sản thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra văn
bản yêu cầu định giá tài sản. Nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ra văn bản yêu cầu định giá tài sản.
Nếu phát hiện người định giá tài sản
thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đổi theo quy định tại khoản
5 Điều 69 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan yêu cầu định giá tài sản thay
đổi người định giá tài sản.
3. Kiểm sát viên
phải kiểm sát chặt chẽ kết luận định giá tài sản, bảo đảm kết luận
định giá tài sản khách quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu
thập trong quá trình điều tra và đáp ứng được yêu cầu định giá tài
sản.
Khi có căn cứ phải
định giá lại tài sản, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra yêu
cầu định giá lại tài sản; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.
Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quyết định việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc
biệt theo quy định tại Điều 220 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Nếu thấy cần làm sáng
tỏ nội dung kết luận định giá thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra để yêu cầu Hội
đồng định giá tài sản giải thích kết luận định giá, hỏi thêm về những tình tiết
cần thiết theo quy định tại Điều 221 Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên
tham dự phiên họp định giá tài sản nhưng phải thông báo trước cho Hội đồng định
giá tài sản. Khi tham dự phiên họp, Kiểm sát viên có quyền đưa ra ý kiến, nếu
được sự đồng ý của Hội đồng định giá tài sản.
Chương IV
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC KHỞI TỐ
Điều 38. Tiếp
nhận, chuyển giao tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện phải phân công Kiểm sát viên tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố do cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến hoặc do
đơn vị kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
tiếp nhận, chuyển đến.
2. Thủ tục tiếp nhận
được thực hiện theo quy định tại Điều 146 Bộ luật Tố tụng
hình sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Sau khi tiếp nhận, Kiểm sát viên phải
vào sổ thụ lý, ghi đầy đủ, chính xác tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố; báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và làm thủ tục chuyển ngay tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên
quan đã tiếp nhận cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra giải quyết.
Điều 39. Kiểm
sát việc tiếp nhận, phân loại, việc chuyển tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố để giải quyết theo thẩm quyền
1. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ
việc tiếp nhận, phân loại của Cơ quan có thẩm quyền điều tra đối với tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Trường hợp phát hiện việc tiếp nhận,
phân loại của Cơ quan có thẩm quyền điều tra chưa chính xác, Kiểm sát viên cần
kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để trao đổi với Cơ quan có thẩm
quyền điều tra khắc phục.
2. Quá trình kiểm sát
việc tiếp nhận, phân loại, kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra mà thấy không thuộc thẩm
quyền, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện có
văn bản yêu cầu cơ quan đã tiếp nhận, đang tiến hành kiểm tra, xác minh chuyển
đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết; đồng thời thông báo đến Viện kiểm sát có
thẩm quyền để thực hiện việc kiểm sát.
3. Việc giải quyết
tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều 150 Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Điều 40. Xử
lý đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã rõ dấu hiệu tội
phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự
Khi kiểm sát việc
tiếp nhận, phân loại tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nếu
thấy đã rõ dấu hiệu tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự (kể cả
trường hợp chưa xác định được đối tượng thực hiện hành vi phạm tội) nhưng Cơ
quan có thẩm quyền điều tra chưa khởi tố vụ án hình sự thì Kiểm sát viên
báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều
tra ra ngay quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà đã rõ dấu hiệu
tội phạm, đủ căn cứ để khởi tố vụ án hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và
chuyển cho Cơ quan điều tra để điều tra theo thẩm quyền.
Điều 41. Đề
ra yêu cầu kiểm tra, xác minh
1. Trong quá
trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, trường hợp thấy cần phải kiểm tra tính
xác thực của nguồn tin về tội phạm; thu thập, củng cố chứng cứ, tài liệu, đồ vật
để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự quy định tại Điều 85 và Điều 441 Bộ luật
Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên phải kịp thời đề ra yêu cầu kiểm tra, xác
minh bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Yêu cầu kiểm tra xác minh có thể được
thực hiện nhiều lần. Văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh phải được đưa vào hồ sơ
vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát.
2. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Điều
tra viên, Cán bộ điều tra, bảo đảm kết quả giải quyết và các yêu cầu kiểm tra,
xác minh được thực hiện đầy đủ, khách quan, đúng pháp luật. Khi thấy có vấn đề
cần phải kiểm tra, xác minh thêm, Kiểm sát viên kịp thời bổ sung yêu cầu kiểm
tra, xác minh; nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra đề nghị, Kiểm sát viên có
trách nhiệm giải thích rõ nội dung những yêu cầu kiểm tra, xác minh. Trường hợp
Điều tra viên, Cán bộ điều tra không nhất trí thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều
tra viên, Cán bộ điều tra nêu rõ lý do và báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ quan có thẩm quyền điều
tra; trường hợp Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện được đầy đủ các
yêu cầu kiểm tra, xác minh vì lý do khách quan thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra nêu rõ lý do
trong văn bản thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm.
Điều 42. Viện
kiểm sát trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Trường hợp phát
hiện Cơ quan có thẩm quyền điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện có văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra khắc phục
vi phạm. Trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều
tra không khắc phục, Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu
cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát để
giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định của pháp
luật khác có liên quan.
2. Khi trực tiếp giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Kiểm sát viên được phân công
phải thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Trước khi tiến
hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch
báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, phê duyệt;
b) Trong quá trình
kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác
minh. Đối với vụ việc phức tạp, Kiểm sát viên có thể phối hợp với Điều tra
viên, Cán bộ điều tra để tiến hành một số hoạt động kiểm tra, xác minh;
c) Kết thúc việc kiểm
tra, xác minh, Kiểm sát viên nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật,
báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kết quả kiểm tra, xác minh và đề xuất
hướng giải quyết theo quy định của pháp luật.
3. Chứng cứ, tài liệu, đồ vật Kiểm sát
viên thu thập được trong quá trình kiểm tra, xác minh phải được đưa vào hồ sơ
vụ việc, lưu hồ sơ kiểm sát theo quy định của pháp luật.
Điều 43. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố
1. Kiểm sát viên phải
chủ động nắm chắc nội dung kiểm tra, xác minh, tiến độ giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra
cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật để kiểm sát; kịp thời nghiên cứu, báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định việc giải quyết.
2. Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt
chẽ kết quả giải quyết của Cơ quan có thẩm quyền điều tra theo quy định của
pháp luật. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
không ra một trong các quyết định quy định tại khoản 1
Điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên phải báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ban
hành một trong các quyết định đó gửi kèm hồ sơ để kiểm sát kết quả giải quyết.
Trong thời hạn 03 ngày (đối với trường hợp khởi tố), 02 ngày (đối với trường
hợp không khởi tố), kể từ ngày nhận được quyết định và các tài liệu có liên
quan, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
hướng giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, các quy định của
pháp luật khác có liên quan.
Trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo hồ sơ vụ việc của Cơ quan có thẩm quyền
điều tra, nếu thấy quyết định tạm đình chỉ có căn cứ thì Viện kiểm sát phải
chuyển trả hồ sơ cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền.
3. Việc gia hạn thời
hạn giải quyết, tạm đình chỉ, phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố phải bảo đảm theo đúng quy định tại các điều 147, 148, 149 Bộ luật Tố tụng hình sự và quy định
của pháp luật khác có liên quan.
Viện kiểm sát phải
theo dõi, quản lý hồ sơ các vụ việc tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố, phối hợp với Cơ quan có thẩm quyền điều tra rà
soát, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kịp thời xử lý khi lý do
tạm đình chỉ không còn.
Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ
việc gửi, thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trường hợp phát hiện vi phạm thì
phải yêu cầu hoặc kiến nghị theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 44. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, việc thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
1. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên
quan, Kiểm sát viên được phân công phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của
quyết định khởi tố vụ án hình sự để xem xét, xử lý như sau:
a) Nếu thấy quyết
định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp thì gửi quyết định phân công
Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi
tố, điều tra và truy tố cho cơ quan ra quyết định;
b) Nếu thấy chưa rõ
căn cứ để khởi tố vụ án thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;
c) Nếu thấy quyết
định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự hủy bỏ quyết định đó; nếu cơ quan đã ra quyết định không
nhất trí thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 1
Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Nếu thấy tội phạm
đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội phạm khác chưa được
khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu cơ quan đã ra quyết định khởi tố ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu cơ quan
đã ra quyết định khởi tố không nhất trí thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung, Kiểm sát viên gửi các quyết định này cho cơ quan đã ra quyết định khởi tố
để tiến hành điều tra theo quy định tại khoản 2
Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Nếu thấy quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra không có căn cứ thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ
án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra hủy bỏ quyết định đó. Nếu cơ quan đã ra
quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự không hủy bỏ
thì lãnh đạo Viện trực tiếp ra quyết định hủy bỏ.
4. Đối với quyết định khởi tố vụ án
hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm
tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hình sự và báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện chuyển quyết định khởi tố vụ án
hình sự và các tài liệu có liên quan đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để tiến hành điều tra; trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình
sự không có căn cứ thì báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện kháng nghị theo
quy định của pháp luật.
Điều 45. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
giải quyết yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử
1. Trong thời
hạn 02 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định không khởi tố vụ án hình sự và các
tài liệu có liên quan của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm
sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đó và báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Nếu thấy chưa đủ
căn cứ thì có văn bản yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình
sự bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ;
b) Nếu thấy không có
căn cứ thì yêu cầu cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự hủy bỏ
quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu cơ quan đó không thực
hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự và ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điểm a
khoản 3 Điều 153, khoản 6 Điều 159 Bộ luật Tố tụng hình sự và gửi cho
Cơ quan có thẩm quyền điều tra để tiến hành điều tra;
c) Nếu thấy đủ căn cứ
thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan đã ra quyết định không khởi tố vụ án
hình sự.
2. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng
xét xử, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm tra các tài liệu, chứng
cứ và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như
sau:
a) Nếu thấy yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử có căn cứ thì ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự và chuyển ngay quyết định đó kèm theo các tài liệu có liên quan
đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiến hành điều tra;
b) Nếu thấy yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì ra quyết định
không khởi tố vụ án hình sự và gửi ngay quyết định đó cho Tòa án nơi Hội đồng
xét xử yêu cầu khởi tố.
Chương V
THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
Điều 46. Xét
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can
1. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án phải kiểm
tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố bị can để xử lý như sau:
a) Nếu thấy quyết định
khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết định phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can và gửi ngay cho cơ quan đã ra quyết định;
b) Nếu thấy chưa rõ
căn cứ xác định bị can phạm tội thì Kiểm sát viên yêu cầu cơ quan đã ra quyết
định khởi tố bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ khởi tố. Trong thời
hạn 03 ngày, kể từ khi nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung, Kiểm sát
viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can.
Kiểm sát viên có thể
phối hợp với Điều tra viên thụ lý vụ án để lấy lời khai người bị khởi tố,
người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước khi báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Đối với những trường
hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố lúc nhận tội, lúc
không nhận tội, tài liệu, chứng cứ có mâu thuẫn hoặc chưa rõ, thì trước khi báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, Kiểm sát viên phải trực tiếp lấy
lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị khởi tố. Biên bản ghi
lời khai những người này được chuyển cho cơ quan đã ra quyết định khởi tố để đưa
vào hồ sơ vụ án;
c) Nếu thấy ngoài bị
can đã bị khởi tố còn có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án
chưa bị khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Nếu Viện kiểm sát
đã yêu cầu nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện thì
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện trực
tiếp ra quyết định khởi tố bị can đối với người đó. Trong thời hạn 24 giờ, kể
từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan có thẩm
quyền điều tra để tiến hành điều tra;
d) Nếu hết thời hạn
tạm giữ mà không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người
đang bị tạm giữ thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh
đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã
ra quyết định khởi tố bị can trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Trường hợp Viện kiểm
sát đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy
bỏ quyết định khởi tố bị can và quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
2. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy quyết định khởi
tố bị can ghi không đúng họ, tên, tuổi, nhân thân của bị can, hành vi phạm tội
của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố mà phạm vào tội khác hoặc còn có
hành vi phạm tội khác với tội danh đã khởi tố thì Kiểm sát viên thụ lý giải
quyết vụ án báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu
Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can; nếu Cơ quan có thẩm quyền điều tra không
thực hiện thì Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can và gửi cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra để tiến
hành điều tra trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can theo quy định tại khoản
3 Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, Kiểm sát viên thụ
lý giải quyết vụ án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ và báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy
bỏ quyết định bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; trường hợp Viện
kiểm sát yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ thì trong thời hạn 03 ngày, kể
từ khi nhận được tài liệu, chứng cứ bổ sung, Viện kiểm sát xem xét, quyết
định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
bị can.
3. Trường hợp phải thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can theo quy định tại khoản 2 Điều này thì lãnh đạo
Viện yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra ra quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu thuộc trường hợp quy định
tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự; trường
hợp Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì Viện kiểm sát ra
quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Điều 47. Đề
ra yêu cầu điều tra
1. Kiểm sát viên
phải kịp thời trao đổi với Điều tra viên, Cán bộ điều tra được phân công điều
tra vụ án về những nội dung điều tra ngay từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ
án hình sự và trong quá trình điều tra. Trường hợp thấy có những vấn đề cần điều
tra mà Điều tra viên chưa thực hiện thì Kiểm sát viên phải đề ra yêu cầu điều
tra.
Yêu cầu điều tra
có thể được thực hiện nhiều lần, bằng lời nói trong trường hợp kiểm sát trực tiếp
hoạt động điều tra hoặc bằng văn bản. Yêu cầu điều tra phải nêu rõ ràng, cụ thể
những vấn đề cần điều tra, chứng cứ, tài liệu cần thu thập. Văn bản yêu cầu điều tra
được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Đối với vụ án thuộc
trường hợp phạm tội quả tang, sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng thì
không cần thiết phải đề ra yêu cầu điều tra bằng văn bản.
Trường hợp vụ án xâm
phạm an ninh quốc gia, trọng điểm, phức tạp; vụ án dư luận xã hội đặc biệt quan
tâm; vụ án có bị can là nhân sỹ, trí thức, chức sắc trong tôn giáo, người có uy
tín thuộc dân tộc thiểu số và trường hợp xét thấy có thể phải thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can thì trước khi ký văn bản
đề ra yêu cầu điều tra, Kiểm sát viên báo cáo, xin ý kiến lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện.
2. Nội dung yêu
cầu điều tra phải cụ thể, rõ ràng, sát với nội dung vụ án, định hướng
thu thập chứng cứ để làm rõ cấu thành tội phạm, những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án theo quy định tại Điều 85 và Điều 441 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Kiểm sát viên chủ
động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra thực hiện đầy đủ nội
dung yêu cầu điều tra. Nếu Điều tra viên, Cán bộ điều tra không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu điều tra, thì
tùy từng trường hợp, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện kiến nghị bằng văn bản với Thủ trưởng, Cấp trưởng Cơ
quan có thẩm quyền điều tra hoặc yêu cầu thay đổi Điều tra viên,
Cán bộ điều tra. Trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được
đầy đủ yêu cầu điều tra thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên,
Cán bộ điều tra giải thích, nêu rõ lý do trong bản kết luận điều tra.
Điều 48. Kế
hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
1. Kiểm sát viên phải
xây dựng kế hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra (trường hợp
áp dụng theo thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên không cần thiết phải xây dựng kế
hoạch thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra), trình lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện phê duyệt. Nội dung kế hoạch dự kiến các nhiệm vụ và hoạt
động cụ thể, phân công thực hiện, cách thức, lực lượng, thời gian thực hiện và
các vấn đề khác có liên quan.
2. Kiểm sát viên chủ
động thực hiện kế hoạch; báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện để bổ sung, điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết; bảo đảm việc
thực hiện kế hoạch đúng hướng, sát thực tế, hiệu quả, đúng thời hạn.
3. Đối với vụ án có
nhiều Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thụ lý giải quyết thì lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện hoặc Kiểm sát viên thụ lý chính trực tiếp tổ chức, chỉ đạo
thực hiện kế hoạch; kiểm tra, đôn đốc các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên tiến
hành các hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kịp
thời quyết định các công việc thuộc thẩm quyền.
4. Đối với vụ án nghiêm trọng, phức
tạp, có nhiều quan điểm khác nhau về đánh giá chứng cứ, đường lối xử
lý, lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải trực tiếp chỉ đạo việc lập kế
hoạch; đồng thời trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
khi xét thấy cần thiết.
Điều 49. Kiểm
sát viên trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra
1. Trong giai đoạn điều tra, khi cần
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ
quan có thẩm quyền điều tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ
lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng
không được khắc phục theo quy định tại khoản 7 Điều 165 Bộ luật
Tố tụng hình sự, thì Kiểm sát viên trực tiếp tiến hành hỏi cung bị can, lấy
lời khai người bị tạm giữ, người bị bắt, bị hại, đương sự, người làm chứng, người
chứng kiến, đối chất, thực nghiệm điều tra và các hoạt động điều tra khác theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên phải thông báo trước cho Điều
tra viên để phối hợp.
2. Biên bản, tài liệu, chứng cứ được
Kiểm sát viên lập, thu thập trong quá trình tiến hành một số hoạt động điều tra
phải được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Điều 50. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc hỏi cung bị can
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can ngay từ lần hỏi cung đầu tiên, bảo đảm
tính có căn cứ, hợp pháp, đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự. Kiểm sát viên có thể trực
tiếp tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Cán bộ điều tra hoặc kiểm sát
biên bản hỏi cung bị can. Trước khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên phối
hợp với Điều tra viên, Cán bộ điều tra tổng hợp, đánh giá kết quả hỏi
cung; tiến hành phúc cung khi thấy cần thiết.
2. Khi nhận được
thông báo của Điều tra viên, Cán bộ điều tra về việc tiến hành hỏi cung bị
can, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp tham gia việc hỏi cung bị
can. Trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, nắm chắc hồ sơ vụ án,
các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bị can, xác định nội dung cần
làm rõ để yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra hỏi; phối hợp với Điều
tra viên, Cán bộ điều tra nghiên cứu, phát hiện mâu thuẫn giữa lời khai của
bị can với lời khai của người tham gia tố tụng khác, với chứng cứ khác nhằm
làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh. Kiểm sát viên chú ý cách đặt câu hỏi
của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, bảo đảm không để xảy ra việc bức cung,
mớm cung, dụ cung; chú ý câu trả lời của bị can để phát hiện tình tiết mới,
những điểm chưa rõ và yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra hỏi làm rõ.
Nếu thấy việc hỏi cung chưa đạt yêu cầu, Kiểm sát viên trực tiếp hỏi để làm rõ.
Khi tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát
viên ký vào biên bản hỏi cung.
3. Kiểm sát
viên phải kiểm sát chặt chẽ biên bản hỏi cung do Điều tra viên, Cán
bộ điều tra thực hiện. Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán
bộ điều tra cung cấp đầy đủ biên bản hỏi cung, các tài liệu khác đã thu
thập được liên quan đến việc hỏi cung bị can; tiến hành phân tích, đối chiếu,
so sánh với các tài liệu khác trong hồ sơ để xác định tính có căn cứ, hợp pháp
và sự phù hợp của lời khai, bảo đảm mọi tình tiết trong lời khai của bị can đều
phải được kiểm tra, xác minh làm rõ.
4. Trong giai
đoạn điều tra, Kiểm sát viên trực tiếp hỏi cung bị can trong các
trường hợp sau:
a) Bị can kêu oan;
b) Bị can khiếu nại
hoạt động điều tra;
c) Có căn cứ xác định
việc điều tra có vi phạm pháp luật;
d) Khi có đề nghị của
Cơ quan có thẩm quyền điều tra; tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn hoặc
chưa rõ; lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối
tội; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai của bị can hoặc
trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng và các trường hợp
khác khi xét thấy cần thiết.
5. Trường hợp quy định tại khoản 4 Điều
này thì trước khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện để xin ý kiến. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều
183 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 51. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương
sự
1. Kiểm sát viên chủ
động phối hợp, yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra cung cấp đầy đủ biên
bản ghi lời khai và các tài liệu liên quan đến việc lấy lời khai người làm
chứng, bị hại, đương sự để kiểm sát. Khi thấy có người làm chứng, bị hại, đương
sự chưa được lấy lời khai, thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ
điều tra kịp thời lấy lời khai.
2. Kiểm sát viên
phải kiểm sát chặt chẽ biên bản ghi lời khai, trình tự, thủ tục lấy lời
khai; việc giải thích quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, bị hại, đương
sự.
Khi phát hiện lời
khai của người làm chứng, bị hại, đương sự chưa rõ, không khách quan, không phù
hợp hoặc mâu thuẫn với lời khai của người tham gia tố tụng khác, với chứng cứ
khác, thì Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra lấy
lời khai bổ sung; nếu phát hiện vi phạm trong việc lấy lời khai, Kiểm sát viên
phải yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra khắc phục ngay.
3. Trong quá
trình điều tra và sau khi kết thúc điều tra, để quyết định
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra hoặc để quyết định việc truy tố, Kiểm sát viên có thể
triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, bị hại, đương sự trong các trường hợp
sau đây:
a) Có căn cứ xác định
việc lấy lời khai của Điều tra viên, Cán bộ điều tra không khách quan hoặc có
vi phạm pháp luật;
b) Trong trường hợp
lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự có mâu thuẫn với nhau hoặc mâu
thuẫn với những chứng cứ khác đã thu thập được;
c) Có nghi ngờ về
tính trung thực, khách quan trong lời khai của người làm chứng, bị hại, đương
sự;
d) Trường hợp cần
thiết khác để làm rõ chứng cứ, tài liệu.
Biên bản ghi lời khai do Kiểm sát viên
lập được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Điều 52. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc đối chất
1. Sau khi nhận được
thông báo của Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để trực tiếp kiểm
sát việc đối chất. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý
của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo kịp thời cho Điều
tra viên để ghi rõ trong biên bản đối chất.
2. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn
trong lời khai giữa các bị can, bị hại, người làm chứng, đương sự mà đã tiến hành
các biện pháp điều tra khác nhưng chưa giải quyết được mâu thuẫn,
Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất.
3. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên trong khi đối chất
theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu
cầu Điều tra viên khắc phục. Trong quá trình đối chất, khi thấy còn những
vấn đề chưa được làm rõ thì yêu cầu Điều tra viên tiếp tục hỏi để làm rõ.
4. Khi đã yêu cầu đối chất mà Điều
tra viên không thực hiện hoặc kết quả đối chất chưa rõ hoặc sau khi kết
thúc điều tra, Viện kiểm sát đã nhận hồ sơ vụ án, nếu thấy có mâu
thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng hoặc trường hợp cần thiết
thì Kiểm sát viên tiến hành đối chất và lập biên bản đối chất theo quy định tại Điều 178 và Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự. Biên bản đối
chất phải được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Điều 53. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói
1. Sau khi nhận được
thông báo của Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để trực tiếp kiểm
sát việc nhận dạng, nhận biết giọng nói. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt phải
được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo kịp
thời cho Điều tra viên để ghi rõ trong biên bản nhận dạng, nhận biết giọng
nói.
2. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ các hoạt động của Điều tra viên khi tiến hành việc nhận
dạng, nhận biết giọng nói theo Điều 190 và Điều 191 Bộ
luật Tố tụng hình sự, nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu Điều tra viên
khắc phục.
3. Trong quá trình thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra, nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên yêu
cầu Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng, nhận biết giọng nói; nếu Điều
tra viên không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện để kiến nghị Cơ quan điều tra khắc phục.
Điều 54. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục khám xét,
thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật theo quy định tại Chương XIII Bộ luật Tố
tụng hình sự.
2. Kiểm sát viên
nghiên cứu hồ sơ đề nghị phê chuẩn lệnh khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc,
địa điểm, phương tiện; lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm,
phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử tại cơ quan, tổ chức, báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn lệnh khám xét, lệnh thu giữ của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
3. Khi nhận được
thông báo của Cơ quan có thẩm quyền điều tra về thời gian, địa
điểm tiến hành khám xét, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Điều tra
viên, Cán bộ điều tra thống nhất kế hoạch khám xét, bảo đảm việc khám xét thực
hiện đúng quy định tại các điều 194, 195 và 198 Bộ luật Tố
tụng hình sự.
Trong quá trình khám
xét, Kiểm sát viên kiểm sát thành phần tham gia, trình tự, thủ tục
thực hiện; việc thu giữ, niêm phong, bảo quản phương tiện, tài liệu, đồ vật
(nếu có); việc lập biên bản khám xét, tạm giữ; kịp thời phát hiện vi phạm để
yêu cầu chấm dứt, khắc phục; khi cần thiết, đề ra yêu cầu điều tra
bằng lời nói; ghi chép nội dung cần thiết; ký biên bản khám xét, tạm giữ theo
quy định. Kết thúc việc khám xét, tạm giữ, Kiểm sát viên chủ động phối hợp
với Điều tra viên, Cán bộ điều tra, đánh giá, sử dụng kết quả khám xét,
tạm giữ để phục vụ giải quyết vụ án.
4. Kiểm sát viên phải
trực tiếp kiểm sát việc khám xét. Trường hợp Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm
sát việc khám xét thì phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện, đồng thời thông báo để Điều tra viên, Cán bộ điều tra ghi rõ trong biên
bản khám xét. Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra
cung cấp biên bản khám xét, biên bản tạm giữ và các tài liệu có liên quan để
kiểm sát. Nếu phát hiện vi phạm, thì tùy trường hợp, Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu khắc phục.
5. Trường hợp khám
xét khẩn cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật Tố
tụng hình sự, thì ngay sau khi nhận được văn bản thông báo của người ra
lệnh khám xét, Kiểm sát viên phải kiểm tra lệnh, các tài liệu có liên quan để
kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của việc khám xét khẩn cấp. Nếu phát hiện
vi phạm thì kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện để yêu cầu khắc phục ngay.
6. Trường hợp thu giữ
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm theo quy định tại khoản
2 Điều 197 Bộ luật Tố tụng hình sự mà sau đó Viện kiểm sát không phê
chuẩn lệnh thu giữ thì Kiểm sát viên phải kiểm sát việc hoàn trả thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm cho cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thông và việc
thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ. Nếu
phát hiện vi phạm thì kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện để yêu cầu khắc phục ngay.
7. Trong quá trình thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, Kiểm sát
viên phải kiểm sát chặt chẽ việc thu giữ, niêm phong, bảo quản, xử lý vật chứng
theo quy định tại các điều 90, 106 và 199 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 55. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc ủy thác điều tra
Khi nhận được quyết định ủy thác điều
tra mà xét thấy hoạt động điều tra được ủy thác phức tạp, kéo dài, Viện kiểm
sát cùng cấp với Cơ quan điều tra được ủy thác phải phân công Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra được ủy
thác. Khi kết thúc hoạt động điều tra được ủy thác thì Viện kiểm sát cùng cấp với
Cơ quan điều tra được ủy thác phải chuyển ngay kết quả thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc ủy thác điều tra cho Viện kiểm sát đã ủy thác thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra.
Điều 56. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều
tra, truy tố; kiểm sát việc thực hiện thẩm quyền điều tra; giải quyết tranh
chấp về thẩm quyền điều tra
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
nhập, tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra theo quy định
tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Ngay sau khi nhận
được quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự của Cơ quan điều tra,
nếu thấy không có căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định nhập hoặc tách vụ án
hình sự và nêu rõ lý do.
Trường hợp có đủ căn
cứ, điều kiện phải nhập hoặc tách vụ án để tiến hành điều tra
nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
ra quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra.
2. Trong giai đoạn
truy tố, Kiểm sát viên kiểm tra chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm
quyền, trình tự, thủ tục để báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện quyết định nhập hoặc tách vụ án theo quy định tại Điều
242 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ việc thực hiện thẩm quyền điều tra của các cơ quan
có thẩm quyền điều tra theo quy định tại Điều
163 và Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự; các điều 16,
17, 19, 20, 21, 23, 24, 26, 27, 28, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38 và 39
Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.
Nếu phát hiện
việc điều tra không đúng thẩm quyền thì thực hiện thủ tục chuyển vụ
án để điều tra đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 57 Quy chế này.
4. Khi có tranh chấp
về thẩm quyền điều tra thì giải quyết như sau:
a) Tranh chấp về thẩm
quyền điều tra giữa các cơ quan điều tra cùng cấp do Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết. Tranh chấp thẩm quyền điều tra
của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do
Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với
vụ án giải quyết;
b) Tranh chấp về thẩm
quyền điều tra giữa các cơ quan điều tra cấp tỉnh, giữa các
cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu do Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương giải quyết.
Tranh chấp về thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan điều tra
cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, giữa các
cơ quan điều tra quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu nơi đầu tiên phát hiện tội phạm giải quyết;
c) Tranh chấp về thẩm quyền điều tra
giữa Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, Cơ quan điều tra
trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân
tối cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải quyết.
Điều 57. Việc
chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền
1. Khi có căn cứ
chuyển vụ án để điều tra theo quy định tại khoản
1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
đang thụ lý giải quyết vụ án có văn bản đề nghị Viện kiểm sát ra quyết định
chuyển vụ án. Viện kiểm sát ra quyết định chuyển vụ án khi có văn bản đề nghị
của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra
đề nghị nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện.
2. Nếu chuyển vụ án
ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân
khu và tương đương thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự
khu vực có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân
sự cấp quân khu ra quyết định chuyển vụ án. Nếu vụ án do Cơ quan điều tra
cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu ra quyết
định chuyển vụ án.
3. Trình tự, thủ tục
chuyển vụ án để điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Kiểm sát viên phải
theo dõi, đôn đốc Cơ quan điều tra chuyển vụ án đúng thời hạn quy định. Nếu có
vi phạm về thời hạn chuyển vụ án, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo
đơn vị, lãnh đạo Viện kiến nghị yêu cầu khắc phục.
4. Hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát phải
được chuyển cho Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có thẩm quyền để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nơi ra
quyết định chuyển vụ án để điều tra phải lưu quyết định chuyển vụ án.
Điều 58. Viện
kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam
1. Khi đề nghị Viện
kiểm sát cấp trên gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, lãnh
đạo Viện kiểm sát cấp dưới phải có văn bản đề nghị gia hạn nêu rõ nội dung vụ
án, căn cứ, lý do gia hạn, kèm theo hồ sơ vụ án gửi đến Viện kiểm sát cấp trên
trước khi hết thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam ít
nhất 10 ngày (thời hạn này tính từ ngày Viện kiểm sát cấp trên nhận được
văn bản đề nghị gia hạn và hồ sơ vụ án); trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát
cấp trên yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới trực tiếp báo cáo căn cứ, lý do gia
hạn.
2. Trong thời hạn 05 ngày, kể từ
khi nhận được văn bản đề nghị gia hạn và hồ sơ vụ án của Viện kiểm sát cấp
dưới, Viện kiểm sát cấp trên phải xem xét, quyết định gia hạn hoặc không gia
hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam; nếu không gia hạn thời hạn
tạm giam phải có văn bản thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới và nêu rõ lý do.
Điều 59. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều
tra bổ sung, điều tra lại
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành thời hạn phục hồi điều tra, điều tra
bổ sung, điều tra lại theo quy định tại Điều 174
Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp phát hiện vi phạm thì Kiểm sát viên yêu
cầu hoặc báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện yêu cầu hoặc
kiến nghị khắc phục, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp cần gia
hạn thời hạn điều tra đối với các vụ án phục hồi điều tra
do tính chất phức tạp của vụ án theo đề nghị của Cơ quan điều tra,
Kiểm sát viên phải kiểm tra căn cứ, điều kiện gia hạn và báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định theo quy định
tại Điều 174 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Trường hợp vụ án điều tra
bổ sung, điều tra lại thì thời hạn điều tra thực hiện theo
quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 174 Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 60. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt
1. Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình
tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt,
việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt theo quy định tại Chương XVI Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp Cơ
quan điều tra đề nghị phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp
đầy đủ hồ sơ, tài liệu gửi kèm văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn quyết
định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Sau khi nghiên cứu,
Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem
xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định áp dụng biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
3. Trường hợp có căn
cứ và xét thấy cần thiết mà Cơ quan điều tra không ra quyết định áp
dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì Kiểm sát viên báo cáo,
đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì lãnh đạo Viện
thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp vụ án do
Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu
vực thụ lý, điều tra mà có căn cứ và cần phải áp dụng biện pháp điều tra
tố tụng đặc biệt, nhưng Thủ trưởng Cơ quan điều tra không đề nghị Thủ
trưởng Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu
vực ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra đang thụ lý, điều tra
đề nghị Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp
dụng; nếu Cơ quan này không thực hiện thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp yêu cầu Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ
quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định.
4. Việc gia hạn thời
hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thực hiện theo quy
định tại khoản 2 Điều 226 Bộ luật Tố tụng hình sự.
5. Khi có căn cứ hủy
bỏ việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt theo quy định
tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định
áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Điều 61. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc tạm đình chỉ điều tra, truy nã bị can
1. Kiểm sát viên kiểm
sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tạm
đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra, bảo đảm
các trường hợp tạm đình chỉ điều tra được thực hiện theo đúng quy
định tại Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu thấy
quyết định tạm đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật
thì báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định hủy
bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra phục hồi điều tra theo quy
định tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Khi phát hiện bị
can trốn hoặc không xác định được bị can ở đâu mà Cơ quan điều tra
chưa ra quyết định truy nã bị can, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra
quyết định truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ điều tra theo quy
định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 62. Theo
dõi, quản lý việc tạm đình chỉ điều tra vụ án, tạm đình chỉ điều tra đối với bị
can
1. Lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện phải phân công Kiểm sát viên thường xuyên theo dõi, quản lý các
vụ án tạm đình chỉ điều tra. Khi thấy lý do tạm đình chỉ không còn
thì Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án phải báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra
phục hồi điều tra để tiến hành điều tra theo quy định
tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự nếu chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khi Kiểm sát viên
được phân công thụ lý giải quyết vụ án đang tạm đình chỉ điều tra
không tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện phải phân công Kiểm sát viên khác tiếp tục theo dõi vụ án.
2. Viện kiểm sát các cấp phải phân
công đầu mối theo dõi, quản lý hồ sơ các vụ án tạm đình chỉ điều tra; mở
sổ quản lý, theo dõi các vụ án tạm đình chỉ và phục hồi điều tra;
kiểm sát việc ra quyết định đình nã của Cơ quan điều tra sau khi bắt
được bị can; định kỳ (hằng tháng, 03 tháng, 06 tháng, 01 năm)
phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp rà soát, đối chiếu, phân loại,
thống nhất đề xuất xử lý các trường hợp tạm đình chỉ điều tra để báo
cáo Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
xem xét, quyết định. Đối với những trường hợp tạm đình chỉ điều tra
nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì phải kịp thời yêu cầu
Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 230 và khoản 5 Điều 157 Bộ
luật Tố tụng hình sự; đồng thời, đưa ra khỏi danh sách theo dõi án tạm đình
chỉ những trường hợp đã có quyết định đình chỉ điều tra và quyết định
phục hồi điều tra.
Điều 63. Kiểm
sát việc kết thúc điều tra
1. Chậm nhất 10 ngày
đối với vụ án ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 15 ngày đối với vụ án rất nghiêm
trọng, 20 ngày đối với vụ án đặc biệt nghiêm trọng trước khi kết thúc điều tra
hoặc hết thời hạn điều tra vụ án, Kiểm sát viên phải chủ động yêu cầu và phối
hợp Điều tra viên đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng
của vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ kết thúc điều tra thì thống nhất để Điều tra
viên báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra kết thúc điều tra vụ
án; nếu thấy cần phải tiếp tục điều tra thì thống nhất các thủ tục báo cáo lãnh
đạo hai bên để đề nghị và quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, tạm giam
bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với vụ án đặc
biệt nghiêm trọng, phức tạp hoặc Kiểm sát viên không thống nhất quan điểm đánh
giá chứng cứ, tội danh, thì Kiểm sát viên phải trao đổi với Điều tra viên để
báo cáo Thủ trưởng hai đơn vị tổ chức họp đánh giá kết quả điều tra vụ án, chỉ
đạo giải quyết những vấn đề chưa thống nhất, khó khăn, vướng mắc, bảo đảm việc
kết thúc điều tra, giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật.
2. Kiểm sát viên, Điều tra viên phải
lập biên bản thống nhất nội dung đánh giá chứng cứ, tài liệu và lưu hồ sơ
nghiệp vụ của Cơ quan điều tra, hồ sơ kiểm sát.
Điều 64. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc đình chỉ điều tra
1.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra
kèm theo hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp
của quyết định đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý
vật chứng và các vấn đề khác có liên quan theo quy định tại Điều
230 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự, báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a)
Nếu quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì ra văn bản Thông báo
về việc kiểm sát quyết định đình chỉ điều tra và trả lại hồ sơ cho Cơ quan có
thẩm quyền điều tra để giải quyết theo thẩm quyền;
b)
Nếu quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ và trái pháp luật
thì ra quyết định hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan có
thẩm quyền điều tra và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra phục
hồi điều tra theo quy định tại Điều 235 Bộ luật
Tố tụng hình sự.
2. Trong
trường hợp nêu tại điểm a khoản 1 Điều này, Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có
thẩm quyền điều tra ra quyết định hủy bỏ ngay biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, trả lại các tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có) cho bị
can hoặc người có liên quan; đối với biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
do Viện kiểm sát phê chuẩn hoặc quyết định thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy
bỏ theo quy định tại Điều 125 và Điều 130 Bộ luật Tố tụng
hình sự;
Điều 65. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc phục hồi điều tra
1. Khi nhận được quyết
định phục hồi điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra,
Kiểm sát viên phải kiểm tra căn cứ phục hồi điều tra theo quy định
tại Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự, báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Nếu quyết định phục
hồi điều tra có căn cứ thì Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải
quyết vụ án bị đình chỉ điều tra hoặc đang tạm đình chỉ điều tra
tiếp tục giải quyết vụ án; nếu Kiểm sát viên đó không tiếp tục thực hiện nhiệm
vụ thì lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện phải phân công Kiểm sát viên
khác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với vụ án;
b) Nếu quyết định
phục hồi điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì ra quyết định
hủy bỏ quyết định phục hồi điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra.
2. Nếu việc đình
chỉ điều tra theo quy định tại khoản 5 và khoản
6 Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự mà bị can không đồng ý và yêu
cầu điều tra lại thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn
vị, lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
ra quyết định phục hồi điều tra hoặc trực tiếp ra quyết định phục
hồi điều tra và gửi quyết định đó cho Cơ quan có thẩm quyền điều tra
để tiến hành điều tra.
3. Kiểm sát viên kiểm sát việc gửi,
thông báo quyết định phục hồi điều tra của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
theo quy định tại khoản 2 Điều 235 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 66.
Chuyển, giao nhận biên bản, tài liệu; thống kê, đóng dấu và đánh số bút lục hồ
sơ vụ án trong giai đoạn điều tra, truy tố
1. Kiểm sát viên phải
có trách nhiệm và thường xuyên đôn đốc Điều tra viên thực hiện nghiêm túc việc
chuyển, giao, nhận biên bản, tài liệu về hoạt động điều tra theo khoản 5 Điều 88, Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 34 và Điều 35 Thông tư liên tịch số
04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và
Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trong giai đoạn điều
tra, khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra chuyển biên bản, tài liệu để Viện kiểm
sát kiểm sát, Kiểm sát viên phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào góc
dưới bên phải của từng trang biên bản, tài liệu, ghi rõ ngày nhận biên bản, tài
liệu và lập biên bản cho từng lần giao nhận biên bản, tài liệu với Điều tra
viên (có thống kê tài liệu, biên bản kèm theo).
Trong trường hợp biên
bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra thì ngay sau
khi thu thập biên bản, tài liệu Kiểm sát viên phải chuyển cho Điều tra viên để
đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát; trước khi chuyển cho Cơ quan điều
tra phải đóng dấu bút lục của Viện kiểm sát vào góc dưới bên phải của từng
trang biên bản, tài liệu. Việc giao nhận biên bản, tài liệu với Điều tra viên
phải lập biên bản và lưu trong hồ sơ vụ án, hồ sơ kiểm sát.
3. Trong giai đoạn
truy tố, biên bản, tài liệu do Kiểm sát viên thu thập phải được đưa vào hồ sơ
vụ án, đóng dấu bút lục ở góc trên bên phải của từng trang biên bản, tài liệu
và đánh số thứ tự tiếp theo số bút lục trong hồ sơ vụ án; không được thay đổi
thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án. Trường hợp có sự nhầm lẫn hoặc tẩy xóa số bút
lục thì phải có bảng tổng hợp, ký xác nhận của Kiểm sát viên, kèm theo báo cáo
giải trình lý do nhầm lẫn, tẩy xóa; bảng tổng hợp và báo cáo giải trình của
Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ vụ án.
Chương VI
THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
Điều 67. Tiếp
nhận hồ sơ vụ án, bản kết luận điều tra và thụ lý vụ án
Khi nhận được bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố và hồ sơ vụ án kèm theo vật chứng (nếu
có) do Cơ quan có thẩm quyền điều tra chuyển đến, người nhận hồ sơ
phải đối chiếu bảng kê tài liệu, vật chứng với các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án và vật chứng (nếu có); kiểm tra việc giao bản kết luận điều tra
cho bị can hoặc người đại diện của bị can theo quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng hình sự và xử lý như sau:
1. Nếu các tài liệu
có trong hồ sơ vụ án và vật chứng (nếu có) chưa đầy đủ so với bảng kê tài liệu
của Cơ quan có thẩm quyền điều tra hoặc bản kết luận điều tra
chưa được giao cho bị can hoặc người đại diện của bị can thì chưa nhận hồ sơ vụ
án và yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra bổ sung tài liệu, vật
chứng; yêu cầu giao bản kết luận điều tra cho bị can hoặc người đại
diện của bị can;
2. Nếu các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án và vật chứng (nếu có) đủ so với bảng kê tài liệu của Cơ quan có thẩm
quyền điều tra và bản kết luận điều tra đã được giao cho bị
can hoặc người đại diện của bị can thì ký nhận và vào sổ thụ lý hồ sơ vụ án,
ghi ngày nhận hồ sơ vào góc trên bên trái bìa hồ sơ và báo cáo ngay
với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để chuyển hồ sơ vụ án cho Kiểm sát
viên được phân công thụ lý giải quyết vụ án. Việc giao, nhận hồ sơ giữa người
nhận hồ sơ với Kiểm sát viên phải ký xác nhận trong sổ thụ lý hồ sơ
vụ án.
Điều 68.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế
1. Sau khi thụ lý hồ
sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra ngay các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng
chế đang áp dụng và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem
xét, quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
2. Việc quyết định áp
dụng, thay đổi biện pháp tạm giam cần lưu ý như sau:
a) Nếu thời hạn tạm
giam để điều tra theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra
hoặc theo quyết định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát vẫn còn mà bằng hoặc
dài hơn thời hạn quyết định việc truy tố quy định tại khoản
1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với tội phạm đang xem xét quyết
định việc truy tố và xét thấy cần thiết phải tiếp tục tạm giam bị can trong
giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát không phải ra lệnh tạm giam mới;
b) Nếu thời hạn tạm
giam để điều tra theo lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra
hoặc theo quyết định gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát vẫn còn, nhưng không đủ
để hoàn thành việc truy tố thì trước khi hết thời hạn tạm giam ít
nhất 05 ngày, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện xem xét, ra lệnh tạm giam mới; thời hạn tạm giam còn lại và thời
hạn tạm giam mới không vượt quá thời hạn quyết định việc truy tố quy định
tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự đối
với tội phạm đang xem xét quyết định việc truy tố. Sau khi ra lệnh tạm giam
mới, Viện kiểm sát giao ngay lệnh tạm giam cho bị can, cơ sở giam
giữ nơi bị can đang bị tạm giam.
3. Trong thời hạn
truy tố, nếu xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét áp dụng hoặc hủy bỏ biện pháp cưỡng chế
theo quy định tại các điều 126, 127, 128, 129 và 130 Bộ
luật Tố tụng hình sự, cụ thể:
a) Khi gia hạn thời
hạn quyết định việc truy tố mà thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất
cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của bị can đã hết thì Viện kiểm sát ra
lệnh, quyết định mới. Thời hạn áp dụng các lệnh, quyết định mới của Viện kiểm
sát đối với bị can không quá thời hạn gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố;
b) Nếu thời hạn cấm
đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của Cơ
quan điều tra vẫn còn mà bằng hoặc dài hơn thời hạn quyết định việc truy tố
theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình
sự, mà xét thấy cần tiếp tục áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó, thì Viện
kiểm sát tiếp tục sử dụng lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra.
Nếu thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú,
tạm hoãn xuất cảnh, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm của Cơ quan điều tra vẫn còn
nhưng không đủ thời hạn để hoàn thành việc truy tố, mà xét thấy cần tiếp tục áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đó, thì chậm nhất 05 ngày, trước khi hết thời hạn
được ghi trong lệnh, quyết định, Viện kiểm sát phải ra lệnh, quyết định mới.
Điều 69. Viện
kiểm sát tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn truy tố
1. Trong giai
đoạn truy tố, Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra
trong các trường hợp sau:
a) Khi phát hiện có
dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu
cầu nhưng Cơ quan có thẩm quyền điều tra không thực hiện;
b) Khi cần kiểm
tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố;
c) Khi Tòa án
yêu cầu điều tra; bổ sung tài liệu, chứng cứ mà Viện kiểm sát xét thấy
không cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ
sung.
2. Khi trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên được phân công thụ lý giải
quyết vụ án phải thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Trước khi tiến
hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên phải xây dựng kế hoạch điều
tra, báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, quyết định
việc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra;
b) Trong quá
trình điều tra, Kiểm sát viên tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều
tra. Đối với vụ việc phức tạp, Kiểm sát viên có thể phối
hợp với Điều tra viên để tiến hành một số hoạt động điều tra;
c) Kết thúc việc tiến
hành hoạt động điều tra, Kiểm sát viên nghiên cứu, đánh giá tài
liệu, chứng cứ, báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện về kết
quả điều tra.
3. Biên bản, tài liệu, chứng cứ
do Kiểm sát viên lập, thu thập trong quá trình tiến hành một số hoạt
động điều tra phải được đưa vào hồ sơ vụ án, lưu hồ sơ kiểm sát.
Điều 70. Thời hạn xem
xét, quyết định việc truy tố
Thời hạn nghiên cứu
hồ sơ vụ án đối với từng loại tội phạm và ra quyết định tố tụng thuộc thẩm
quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố được thực hiện theo quy định
tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chậm nhất 05 ngày, trước khi hết thời
hạn quyết định việc truy tố quy định tại khoản 1 Điều 240
Bộ luật Tố tụng hình sự, nếu vụ án phức tạp, cần có thêm thời
gian nghiên cứu, đánh giá chứng cứ hoặc báo cáo, thỉnh
thị xin ý kiến mà chưa thể đề xuất việc xử lý vụ án thì Kiểm sát viên
phải báo cáo, đề xuất ngay với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện quyết
định gia hạn thời hạn quyết định việc truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
Điều 71.
Quyết định của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố
1. Trong thời hạn
quyết định việc truy tố đối với từng loại tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm sát viên được
phân công thụ lý giải quyết vụ án nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu có căn cứ và cần
thiết phải trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra thì báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để thực hiện trước khi quyết định
việc giải quyết.
2. Kiểm sát viên báo
cáo, đề xuất bằng văn bản cho lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải
quyết như sau:
a) Nếu thấy đủ căn cứ
để quyết định truy tố thì Kiểm sát viên dự thảo bản Cáo trạng trình lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem xét, duyệt ký. Bản Cáo trạng phải phản ánh
đúng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đầy đủ các nội dung theo quy
định tại Điều 243 Bộ luật Tố tụng hình sự và
được lập theo Mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành;
b) Nếu có căn cứ xác
định thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều
245 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên phải báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra để điều tra bổ sung;
c) Nếu có một trong
những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 Bộ
luật Tố tụng hình sự hoặc tại các điều 16, 29 và
khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự thì ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc
đình chỉ vụ án đối với bị can;
d) Nếu có một trong
những căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 247 Bộ luật Tố
tụng hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ vụ án hoặc
tạm đình chỉ vụ án đối với bị can.
3. Việc giao, gửi,
thông báo các quyết định tố tụng trong giai đoạn truy tố nêu tại khoản 2 Điều
này được thực hiện theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều
240 Bộ luật Tố tụng hình sự.
4. Nếu các quyết định nêu tại khoản 2 Điều
này của Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện
trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các
quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới ra quyết định đúng pháp luật.
Điều 72. Việc
chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền; việc phân công thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm
1. Sau khi kết
thúc điều tra vụ án, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của
mình, thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra
quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố theo quy định
tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật Tố tụng hình sự. Viện
kiểm sát có thẩm quyền truy tố nhận được hồ sơ phải phân công Kiểm sát viên
nghiên cứu và báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như
sau:
a) Nếu đồng ý với bản
kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan có thẩm quyền điều tra
thì ban hành Cáo trạng truy tố bị can ra Tòa án có thẩm quyền xét xử. Nếu Tòa
án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát đã
truy tố phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra để làm thủ tục trả hồ sơ cho cơ quan đã điều tra và ra
quyết định chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền;
b) Nếu không đồng ý
với bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan có thẩm quyền điều
tra thì chuyển lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra để làm thủ tục chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền.
2. Đối với những vụ án do Viện kiểm
sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát
cấp trên quyết định việc truy tố. Việc phân công Viện kiểm sát cấp dưới thực
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 239 Bộ luật Tố tụng hình sự, Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới trong việc
giải quyết vụ án hình sự do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm
sát điều tra và truy tố, phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm ban hành kèm theo Quyết định số 314/QĐ-VKSTC
ngày 05/7/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quy định khác
có liên quan.
Chương VII
THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC ÁP DỤNG THỦ TỤC ĐẶC BIỆT
Điều 73. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với người dưới 18
tuổi
1. Khi thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục tố tụng đối với người bị buộc tội,
người bị hại, người làm chứng là người dưới 18 tuổi, Kiểm sát viên phải kiểm
sát chặt chẽ, bảo đảm thực hiện đúng quy định tại Chương XXVIII, các quy
định khác của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi, quy định của pháp luật có liên quan và Quy chế này.
2. Trong vụ án hình
sự có người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, nếu phát hiện Điều tra viên
chưa thực hiện việc xác định rõ tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh
thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội, điều kiện sinh sống và giáo
dục, có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục, nguyên nhân, điều
kiện, hoàn cảnh phạm tội của người dưới 18 tuổi thì Kiểm sát viên yêu cầu Điều
tra viên phải thực hiện theo đúng quy định tại Điều 416
Bộ luật Tố tụng hình sự.
3. Nếu thấy có đủ căn
cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Kiểm sát
viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; xem xét việc phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn
tạm giữ, lệnh tạm giam của Cơ quan có thẩm quyền điều tra theo quy định
tại Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự; nếu thấy không đủ căn cứ thì báo
cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện không phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can và các quyết định tố tụng khác.
4. Nếu phát hiện
người dưới 18 tuổi có đủ căn cứ, điều kiện và thuộc trường hợp có thể được
miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục theo quy
định tại khoản 2 Điều 91, các điều 92, 93, 94 và 95 Bộ
luật Hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện giải quyết như sau:
a) Nếu vụ án chưa kết
thúc điều tra thì ra văn bản yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền điều tra
ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ điều tra đối với bị
can, miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục theo
quy định tại các điều 230, 427, 428 và 429 Bộ luật Tố
tụng hình sự;
b) Nếu vụ án đang trong giai đoạn truy
tố thì ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn
trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục theo quy định
tại các điều 248, 427, 428 và 429 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 74. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Khi có sự nghi ngờ
người bị buộc tội mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi, Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Trong giai
đoạn điều tra, nếu Cơ quan điều tra không trưng cầu giám định pháp y
tâm thần thì ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định pháp
y tâm thần;
b) Trong giai đoạn
truy tố, Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần.
2. Trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được văn bản đề nghị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
của Cơ quan điều tra cùng kết luận giám định pháp y tâm thần, nếu thấy đủ
căn cứ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải
quyết như sau:
a) Ra quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can và yêu cầu Cơ quan điều
tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra
đối với bị can nếu kết luận giám định pháp y tâm thần xác định được tại thời điểm
thực hiện hành vi phạm tội, bị can không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm
mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi;
b) Ra quyết định áp
dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với bị can và ra văn bản yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ điều
tra đối với bị can nếu kết luận giám định pháp y tâm thần xác định được tại
thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị can mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi.
3. Trong giai đoạn
truy tố, nếu Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này thì sau khi nhận được kết luận giám
định pháp y tâm thần, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện xem xét, giải quyết theo quy định tại Điều 450 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
4. Nếu nội dung kết
luận giám định pháp y tâm thần chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi có nghi ngờ kết
luận giám định pháp y tâm thần không chính xác thì việc giám định bổ sung, giám
định lại được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Giám định tư pháp, hướng dẫn của liên ngành và các quy định khác về trưng cầu
giám định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Trường hợp Viện
kiểm sát nhận được thông báo của Thủ trưởng cơ sở bắt buộc chữa bệnh về việc
người bị bắt buộc chữa bệnh đã khỏi bệnh, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Nếu vụ án đang
trong giai đoạn điều tra thì ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra
quyết định trưng cầu giám định về tình trạng bệnh hiện tại của người bị bắt
buộc chữa bệnh;
b) Nếu vụ án đang
trong giai đoạn truy tố thì Viện kiểm sát ra quyết định trưng cầu giám định về
tình trạng bệnh hiện tại của người bị bắt buộc chữa bệnh.
Trong các trường hợp nêu tại điểm a và
điểm b khoản này, nếu kết quả giám định kết luận người bị bắt buộc chữa bệnh đã
khỏi bệnh thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc
chữa bệnh. Sau khi đình chỉ thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh, các hoạt
động tố tụng đã bị tạm đình chỉ có thể được phục hồi theo quy định tại Điều 454 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 75. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng thủ tục rút gọn
1. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và truy tố, Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng
thủ tục rút gọn theo quy định tại Chương XXXI Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trường hợp vụ án
có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 456 Bộ luật
Tố tụng hình sự mà Cơ quan điều tra không ra quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn thì Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo
Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn; nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì lãnh đạo Viện ra quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại khoản 9 Điều
165 Bộ luật Tố tụng hình sự và gửi ngay quyết định đó cho Cơ
quan điều tra, đồng thời giao, gửi cho người tham gia tố tụng theo quy
định tại khoản 2 Điều 457 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp Cơ
quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn nhưng không có căn cứ
và trái pháp luật, thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn, Kiểm sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh
đạo Viện ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ
quan điều tra.
3. Trường hợp vụ án
không áp dụng thủ tục rút gọn ở giai đoạn điều tra nhưng sang giai đoạn
truy tố có căn cứ để áp dụng thủ tục rút gọn, thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi xác định đủ căn cứ, điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định
tại khoản 1 Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình sự, Kiểm
sát viên phải báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện ra quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn và giao, gửi quyết định đó cho người tham gia tố tụng theo
quy định tại khoản 2 Điều 457 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trường hợp quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn của Viện kiểm sát bị khiếu nại thì trong thời hạn 03
ngày, kể từ khi nhận được khiếu nại, lãnh đạo Viện có trách nhiệm giải quyết
khiếu nại; nếu khiếu nại đó có căn cứ thì lãnh đạo Viện ra quyết
định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và vụ án được tiến
hành theo thủ tục chung; trường hợp khiếu nại không có căn cứ thì lãnh đạo Viện
ra văn bản trả lời cho người khiếu nại biết.
4. Trong thời hạn 05
ngày, kể từ khi nhận được quyết định đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra
và hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện
ra quyết định xử lý vụ án theo quy định tại Điều 461 Bộ
luật Tố tụng hình sự.
5. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và truy tố theo thủ tục rút
gọn, nếu thấy không còn một trong các căn cứ, điều kiện quy định tại
các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 Bộ luật Tố tụng hình
sự hoặc vụ án, bị can được tạm đình chỉ thì Kiểm sát viên báo cáo, đề
xuất lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện giải quyết như sau:
a) Yêu cầu Cơ
quan điều tra ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hủy bỏ quyết định đó;
nếu Cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết
định hủy bỏ;
b) Trường hợp ở giai
đoạn điều tra mà Viện kiểm sát đã ra quyết định áp
dụng thủ tục rút gọn
thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ;
c) Trường hợp ở giai
đoạn truy tố, Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút
gọn.
6. Trường hợp Viện kiểm sát ra quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì lãnh đạo Viện ra quyết
định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Việc giải quyết vụ án
được tiến hành theo thủ tục chung.
Điều 76. Thực
hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố đối với pháp
nhân thương mại bị buộc tội
Nhiệm vụ, quyền hạn,
trách nhiệm, trình tự, thủ tục khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi
tố, điều tra và truy tố đối với pháp nhân thương mại bị buộc tội thực hiện theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định của pháp luật khác có liên quan
và các quy định tương ứng của Quy chế này.
Điều 77. Đề
nghị Cơ quan điều tra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ người tham gia tố
tụng
Trong quá trình thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, khi nhận được đề nghị của
người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại hoặc người thân thích của họ
hoặc xét thấy có căn cứ xác định cần phải áp dụng biện pháp bảo vệ đối với
những người này, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện ra văn bản đề nghị Cơ quan điều tra trực tiếp thụ lý giải
quyết vụ việc, vụ án xem xét ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ.
Chương VIII
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VÀ TRUY TỐ
Điều 78.
Nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong giai đoạn khởi tố,
điều tra và truy tố
Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
Viện kiểm sát; phạm vi, trình tự, thủ tục hợp tác quốc tế trong giai đoạn khởi
tố, điều tra và truy tố thực hiện theo quy định của điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên
tắc có đi có lại, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, pháp luật về tương
trợ tư pháp, quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan, Quy chế này và
quy định khác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 79. Yêu
cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về hình sự
Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, nếu thấy cần thiết, Viện kiểm sát đang thụ lý vụ án tự
mình hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra lập hồ sơ ủy thác tư pháp về hình sự,
chuyển cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đề nghị thực hiện.
Hồ sơ ủy thác tư pháp gửi đến Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (qua Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp về hình
sự) để kiểm tra tính hợp lệ và xem xét, quyết định việc chuyển cho cơ quan có
thẩm quyền của nước ngoài để thực hiện.
Điều 80. Giải
quyết yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài
1. Yêu cầu tương trợ
tư pháp về hình sự của nước ngoài được chuyển đến Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (qua Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp về hình sự) để kiểm tra tính
hợp lệ và xem xét quyết định việc thực hiện, từ chối hoặc hoãn thực hiện.
Trường hợp quyết định việc thực hiện, Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp
về hình sự chuyển yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài cho cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền để thực hiện.
2. Trường hợp xét
thấy cần thiết, cơ quan thực hiện tương trợ tư pháp hình sự đề nghị nước ngoài
bổ sung hoặc làm rõ thông tin liên quan đến yêu cầu tương trợ tư pháp về hình
sự. Văn bản đề nghị bổ sung hoặc làm rõ thông tin và kết quả trả lời được gửi
đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao (qua Vụ Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp
về hình sự).
3. Cơ quan thực hiện yêu cầu chuyển
kết quả tương trợ tư pháp hình sự cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao (qua Vụ
Hợp tác quốc tế và Tương trợ tư pháp về hình sự) để làm thủ tục chuyển cho nước
ngoài.
Chương IX
CHẾ ĐỘ BÁO CÁO VÀ QUAN HỆ CÔNG TÁC
Điều 81. Thực
hiện chế độ báo cáo trong quá trình thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi
tố, điều tra và truy tố
1. Trong quá trình
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố, Kiểm sát
viên phải
thực hiện việc báo cáo thường kỳ ít nhất 01 tháng/lần, đề xuất việc giải quyết
vụ án, vụ việc với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để xem xét chỉ đạo.
Khi có vấn đề phát sinh hoặc xét thấy
cần thiết trong quá trình giải quyết vụ án, vụ việc hoặc theo yêu cầu của lãnh
đạo đơn vị, lãnh đạo Viện thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án thực hiện việc báo cáo
đột xuất đối với vụ án, vụ việc.
Đối với các vụ án, vụ việc
thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, Ban Nội chính
Trung ương, Thường trực Thành ủy, Tỉnh ủy, Ban Nội chính Thành ủy, Tỉnh ủy theo
dõi, chỉ đạo; các vụ án, vụ việc xâm phạm an
ninh quốc gia; các vụ án có bị can, bị cáo là người có uy tín, ảnh hưởng lớn
trong tôn giáo, trong dân tộc ít người, là nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ có
danh tiếng lớn; các vụ án có yếu tố nước ngoài mà khi xử lý có tác động đến
chính trị, đối ngoại và các vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp khác mà dư
luận xã hội quan tâm thì Kiểm sát viên phải thường xuyên báo cáo việc giải
quyết vụ án, vụ việc với lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kịp thời chỉ đạo.
2. Kiểm sát viên phải báo cáo trung thực,
chính xác, đầy đủ nội dung vụ án, vụ việc, tiến độ giải quyết và đề xuất quan điểm
xử lý. Báo cáo của Kiểm sát viên phải bằng văn bản và theo Mẫu quy định tại Phụ lục B ban hành kèm theo Quy chế này.
3. Lãnh đạo đơn vị,
lãnh đạo Viện phải
thường xuyên rà soát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của Kiểm
sát viên.
Điều 82. Quan
hệ giữa công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố với công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
1. Đơn vị thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố thường xuyên
phối hợp với đơn vị kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự để
nắm tình hình người bị tạm giữ, tạm giam; khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh của họ đối với quyết định, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, kịp thời phát hiện vi phạm trong hoạt động khởi tố, điều tra và truy
tố để khắc phục hoặc kiến nghị khắc phục.
2. Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố phải sao gửi ngay lệnh,
quyết định cho Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
và thi hành án hình sự những trường hợp từ chối phê chuẩn việc gia hạn tạm giữ,
tạm giam, gia hạn tạm giam, hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp tạm giữ,
tạm giam để theo dõi và phối hợp thực hiện.
Điều 83. Quan
hệ giữa công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố với công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1. Ở Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Kiểm sát viên được phân công thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án đồng thời thực hiện nhiệm vụ thực
hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm.
2. Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp
trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và phân công cho Viện kiểm
sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm thì việc phối hợp
được thực hiện theo quy định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 84. Quan
hệ giữa công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và
truy tố với công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong hoạt động tư pháp
Kiểm sát viên được
phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy
tố phải phối hợp với đơn vị kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp để nắm và kịp thời báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện xem
xét, giải quyết các khiếu nại, tố cáo về quyết định và hành vi tố tụng trong
giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự, quy định của pháp luật khác có liên quan, Quy chế này và các
quy định khác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Kết quả giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi
tố, điều tra và truy tố phải thông báo cho đơn vị kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp để theo dõi và phối hợp trả lời, giải
thích cho người khiếu nại, tố cáo.
Chương X
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH
Điều 85. Hiệu
lực thi hành
Quy chế này có hiệu lực thi hành kể từ
ký, thay thế Quyết
định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao về việc ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày
02/5/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy
chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Quyết định số 170/QĐ-VKSTC
ngày 02/5/2018 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc ban hành Quy chế tạm
thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra và giám định.
Điều 86. Trách nhiệm
thực hiện
1. Thủ trưởng đơn vị
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện Quy chế này.
2. Giao cho Vụ Thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án an ninh chủ trì, phối hợp với
Văn phòng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các đơn vị có liên quan theo dõi,
đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện Quy chế này.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có
khó khăn, vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung thì
kịp thời báo cáo Viện kiểm sát nhân dân tối cao (qua Vụ Thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra án an ninh) để tổng hợp, báo cáo Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, quyết định./.