Kính gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Ngày 20-6-2017, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây gọi là Luật số 12/2017/QH14) và Nghị
quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được
sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành
của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra
hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau
đây gọi là Nghị quyết số 41). Khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số
41 đã quy định đường lối, chính sách xử lý đối với một số trường hợp cụ thể
được áp dụng kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14 được công bố (ngày 03-7-2017). Để
thi hành đúng, kịp thời các quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị
quyết số 41, Tòa án nhân dân tối cao đề nghị các đồng chí Chánh án Tòa án
nhân dân, Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối
cao quán triệt và thực hiện một số nội dung sau đây:
1. Kể từ ngày 03-7-2017, khi xét xử sơ thẩm,
xét xử phúc thẩm, tiếp tục thực hiện việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với
người phạm tội mà Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một
số điều theo Luật số 12/2017/QH14 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) đã
bỏ hình phạt tử hình, hoặc đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc
khi xét xử (không phân biệt hành vi phạm tội được thực hiện trước hay sau thời
điểm ngày 03-7-2017).
Trường hợp hình phạt tử hình đã tuyên trước ngày
03-7-2017 đối với người được nêu tại điểm a, điểm c khoản 2 Điều
2 của Nghị quyết số 41 và bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Tòa
án đã xét xử sơ thẩm báo cáo ngay cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao để Chánh
án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt
tù chung thân đối với người bị kết án.
2. Kể từ ngày 03-7-2017, tiếp tục thực hiện
việc không xử lý về hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi được
quy định tại các điểm d, e và không xử lý hình sự đối với
người thực hiện một trong các hành vi quy định tại điểm đ khoản
2 Điều 2 của Nghị quyết số 41. Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì thực hiện như
sau:
a) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ
sơ để điều tra bổ sung làm rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Tòa án cấp sơ
thẩm xét thấy có căn cứ, thì Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều
176 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng
điểm b khoản 1 Điều 277 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015)
ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát;
b) Trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết
định) rút quyết định truy tố và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được
phân công làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án đó áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 và Điều 181 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày
01-01-2018 thì áp dụng Điều 285 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015) ra quyết định đình chỉ vụ án;
c) Trường hợp Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định
truy tố, thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa (nếu trong thời hạn
chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà sơ thẩm) áp dụng một
trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41,
khoản 2 Điều 107 và Điều 180 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều 157 và
Điều 282 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) ra quyết định đình chỉ vụ
án;
d) Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử áp dụng
một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số
41, khoản 2 Điều 107 và Điều 251 của Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản 2 Điều
157 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quyết định hủy bản án
sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án;
đ) Trường hợp đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm hoặc xét
xử tái thẩm thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm áp dụng một trong các điểm d, đ hoặc e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, khoản 2 Điều 107 và Điều 286 hoặc khoản 3 Điều 298 của Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 (kể từ ngày 01-01-2018 thì áp dụng khoản
2 Điều 157 và Điều 392 hoặc khoản 3 Điều 402 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015) quyết định hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên người bị kết án
không có tội và đình chỉ vụ án.
e) Việc đình chỉ vụ án đối với các trường hợp được
quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số
41 là đình chỉ về trách nhiệm hình sự. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định
hoặc trong bản án lý do của việc đình chỉ là do chính sách hình sự mới nhân đạo
của Nhà nước, người được đình chỉ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
g) Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra bản án, quyết
định tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án,
quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử
phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định tại Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
3. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại
các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 được
thực hiện như sau:
a) Đối với người đang chấp hành hình phạt tù, thì
Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người
bị kết án đang chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt
còn lại theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù;
b) Đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo
không giam giữ, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người đó chấp hành
hình phạt ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại theo đề nghị của
cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp
giám sát, giáo dục;
c) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm cư
trú hoặc quản chế, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân
sự khu vực nơi người đó chấp hành hình phạt ra quyết định miễn chấp hành thời hạn
cấm cư trú hoặc thời hạn quản chế còn lại theo đề nghị của chính quyền địa
phương nơi người đó chấp hành hình phạt;
d) Đối với người đang chấp hành hình phạt cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền
công dân, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực
nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành thời hạn cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, thời hạn tước một số
quyền công dân còn lại theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm
việc;
đ) Đối với người bị xử phạt tù đang được tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành
hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp
quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần
hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
e) Đối với người bị xử phạt bằng
các hình phạt khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn
chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân
cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra
quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ
hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc;
g) Khi xem xét, quyết định việc miễn chấp hành hình
phạt cần chú ý một số vấn đề sau đây:
g.1) Các điểm d, đ và e khoản 2 Điều
2 của Nghị quyết số 41 chỉ quy định việc miễn chấp hành hình phạt (cả hình
phạt chính và hình phạt bổ sung), đối với các vấn đề khác như trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng.... thì người được miễn chấp
hành hình phạt vẫn phải thi hành;
g.2) Trường hợp một người bị kết án về nhiều tội
(trong cùng một bản án hoặc trong nhiều bản án), trong đó có tội mà Bộ luật
Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình
phạt đối với tội này được thực hiện như sau:
- Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc
đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức
hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp quy định tại
các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41, thì
họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà Bộ luật Hình sự năm
2015 không quy định là tội phạm nữa.
- Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt
hoặc đang chấp hành hình phạt nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt bằng hoặc
vượt quá mức hình phạt mà Tòa án đã xử phạt đối với tội không thuộc trường hợp
quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số
41, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
h) Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ
trong quyết định miễn chấp hành hình phạt lý do của việc miễn chấp hành hình phạt
là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người được miễn chấp hành
hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
4. Đối với các đối tượng được quy định tại
các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 mà
đang bị truy nã, thì Tòa án đã ra quyết định đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành
hình phạt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định (lệnh) truy nã biết
để cơ quan này ra quyết định đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm tội
khác.
5. Người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được
miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo quy định tại
các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số 41 thì
đương nhiên được xóa án tích.
Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu các đồng chí Chánh
án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa
án nhân dân tối cao ngay khi nhận được Công văn này cần tổ chức triển khai,
quán triệt thực hiện nghiêm túc trong cơ quan, đơn vị mình. Trong quá trình thực
hiện nếu có vướng mắc thì báo cáo Tòa án nhân dân tối cao (thông qua Vụ Pháp chế
và Quản lý khoa học) để có sự giải thích, hướng dẫn kịp thời.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo);
- Chánh án TANDTC (để báo cáo);
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Các Phó Chánh án TANDTC;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, PC.
|
KT. CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Trí Tuệ
|