Kính gửi:
Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh
Trả lời công văn số 179/HQTP-NV ngày 12/04/2007
của Cục Hải quan thành phố Hồ Chí Minh về một số vướng mắc khi triển khai thực
hiện Quyết định số 1840/QĐ-TCHQ ngày 28/09/2006 của Tổng cục Hải quan ban hành
Quy trình thủ tục hải quan đối với tàu bay xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, chuyển
cảng; hành lý xuất khẩu, nhập khẩu của người xuất cảnh, nhập cảnh; hành lý ký gửi
bị từ bỏ, thất lạc, nhầm lẫn tại cửa khẩu cảng hàng không dân dụng quốc tế, Tổng
cục Hải quan có ý kiến như sau:
1) Vướng mắc 1: Tại Phần B, QĐ 1840/QĐ/TCHQ:
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu:
a) Bước 1: Tiếp nhận và xử lý thông tin về tàu
bay XC, NC, hàng hóa XK, NK của mỗi chuyến bay mà Tổ chức vận tải cung cấp, chậm
nhất 03 giờ trước khi tàu bay nhập cảnh và trước khi tàu bay xuất cảnh thì theo
Xí nghiệp Dịch vụ mặt đất sân bay Tân Sơn Nhất là không khả thi (có những chuyến
bay đường ngắn).
b) Bước 2: Tiếp nhận hồ sơ và thông quan tàu
bay: việc này hiện nay chưa thực hiện được do phía Cảng Vụ hàng không chưa thực
hiện phối hợp với Hải quan. Trong khi đó tại cảng biển thì việc thực hiện thông
quan tàu biển rất tốt.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Ngày 03/07/2007. Tổng
cục đã có công văn số 3654/TCHQ-GSQL gửi Cục Hàng không Việt Nam đề nghị chỉ đạo
các Đơn vị liên quan khẩn trương phối hợp với Chi cục Hải quan sân bay để thực
hiện tốt các quy định hiện hành (công văn trên Tổng cục có gửi Cục Hải quan TP
Hồ Chí Minh để theo dõi).
2) Vướng mắc 2: Tại điểm 2, mục
I và điểm 2, mục II Phần C QĐ 1840:
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: quy định người
xuất cảnh có hành lý thuộc diện không phải khai hải quan và hành lý của người
nhập cảnh đi cửa xanh không phải khai hải quan trên tờ khai NC/XC nhưng phải chịu
sự giám sát hải quan. Do việc bố trí hệ thống máy soi hiện nay tại sân bay Tân
Sơn Nhất (máy soi nổi) khác với sân bay Nội Bài (máy soi ngầm) và dự báo
07/2007 khi nhà ga mới Tân Sơn Nhất hoàn thành thì sẽ bố trí máy soi ngầm. Do vậy,
Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đề nghị:
02 phương án tại công văn số 179/HQTP-NV dẫn
trên.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Tổng cục chấp thuận
đề xuất phương án 2, cụ thể là "trường hợp có dấu hiệu nghi vấn... thì tiến
hành kiểm tra hành lý" và tổ chức thực hiện kiểm tra như sau:
+ Khi nhận được thông tin nghi vấn tại thời điểm
người xuất cảnh, nhập cảnh làm thủ tục thì tiến hành kiểm tra qua máy soi hoặc
nếu thấy phức tạp thì kiểm tra thủ công.
+ Tiến hành kiểm ngẫu nhiên qua máy soi không
quá 5% đối với người xuất cảnh, nhập cảnh.
3) Vướng mắc 3: Đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất
hoặc tạm xuất tái nhập là đồ dùng nghề nghiệp được quy định tại Điều
31 Nghị định số 154/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ.
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: nếu thực hiện
theo quy định trên thì khách mất rất nhiều thời gian làm thủ tục, khó quản lý,
thanh khoản tờ khai, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đề xuất mở rộng nội hàm của cụm
từ "hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh" phù hợp với mục đích của
chuyến đi theo quy định tại điểm 1, Điều 4 Nghị định số
66/2002/NĐ-CP ngày 01/07/2002 của Chính phủ.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Tổng cục tiếp thu
nội dung đề xuất của Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh để đưa vào nội dung sửa đổi, bổ
sung Nghị định mới thay thế Nghị định số 154/2005/NĐ-CP nêu trên. Đề nghị Cục Hải
quan TP Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện thủ tục đối với hàng hoá tạm nhập tái xuất
hoặc tạm xuất tái nhập có thời hạn là đồ dùng nghề nghiệp theo đúng quy định hiện
hành.
4) Vướng mắc 4: Tại mục 4, phần
D QĐ 1840.
- Cục hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: Quy định về
hành lý thất lạc, từ bỏ, nhầm lẫn thì "đối với hành lý xuất khẩu ... lãnh
đạo Chi cục có văn bản chấp thuận..." nếu thực hiện mất nhiều thời gian. Cần
phân định trách nhiệm và để đơn giản thủ tục, nên có mẫu "văn bản xác nhận
hành lý thất lạc, nhầm lẫn tuyến" của cơ quan Hàng không kèm Điện xác nhận
của nước gửi hành lý. Nếu hành lý thất lạc đã được kiểm tra qua máy soi của
Hàng không và của Hải quan đều có xác nhận không phát hiện hàng cấm NK, hàng NK
có điều kiện, quản lý chuyên ngành thì giao cho công chức thừa hành nhiệm vụ kiểm
tra và ký xác nhận mẫu này để cơ quan Hàng không làm thủ tục xuất trả hành lý
thất lạc, nhầm lẫn.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Tổng cục thống nhất
nội dung đề xuất của Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh, cụ thể đối với hành lý xuất
khẩu, nếu không có nghi vấn thì công chức thừa hành kiểm tra thực hiện xác nhận
chấp thuận để Tổ chức Vận tải Hàng không được vận chuyển hành lý đó đến đích hoặc
trả lại nơi khởi hành.
5) Vướng mắc 5: Quyết định số 30/2004/QĐ-BTC
ngày 06/04/2004 của Bộ Tài chính ban hành quy định về thủ tục hải quan đối với
NK xăng dầu và tạm nhập tái xuất xăng dầu thì Hải quan làm thủ tục tái xuất có
nhiệm vụ kiểm tra tình trạng bên ngoài bồn bể, khoang chứa xăng dầu của phương
tiện vận tải. Sau khi bơm xăng, niêm phong các bồn bề chứa, khoang chứa của
phương tiện vận tải..."
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: Hiện nay tần
suất các chuyến bay xuất cảnh, nhập cảnh ngày càng tăng, số lượng tàu bay tiếp
nhiên liệu tại sân bay cũng tăng, số lượng công chức hải quan làm nhiệm vụ tại
sân đỗ có hạn (hiện tại có 2 công chức/ca/12 giờ) không đủ để thực hiện theo
quy định, Do vậy, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đề nghị:
+ Cơ trưởng tàu bay phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về số lượng xăng dầu thực nhận. Trên cơ sở ký xác nhận của Cơ trưởng
tàu bay trên "Phiếu tiếp nhận nhiên liệu" Hải quan sẽ làm thủ tục
thanh lý tờ khai tạm nhập.
+ Trên cơ sở xử lý, phân tích thông tin, Hải
quan sẽ tiến hành kiểm tra xác suất trọng điểm việc tiếp nhiên liệu tại tàu
bay.
+ Tăng cường giám sát bằng phương tiện kỹ thuật
(camera).
- Tổng cục có ý kiến như sau: Yêu cầu Cục Hải
quan TP Hồ Chí Minh báo cáo cụ thể việc thực hiện nội dung quy định tại QĐ
30/2004/QĐ-BTC kể từ khi Quyết định có hiệu lực đến nay. Nếu nội dung đề xuất
là hợp lý và các Đơn vị Hải quan khác cũng bị vướng mắc tương tự thì Tổng cục sẽ
kiến nghị Bộ để xin chỉ đạo.
6) Vướng mắc 6:
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: Hiện nay,
theo quy định công chức giám sát hải quan phải ký xác nhận trên Phiếu theo từng
chuyến cung ứng suất ăn máy bay mà đối tượng nhận cung ứng suất ăn là hãng Hàng
hàng không Việt Nam bay quốc tế hoặc kết hợp quốc tế nội địa và các hãng Hàng
không quốc tế với số lượng chuyến bay ngày càng tăng. Vì vậy, quy định này
không còn phù hợp, số lượng công chức không đủ để thực hiện theo quy định này.
Do vậy, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đề nghị:
+ Cơ trưởng tàu bay / người đại diện phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về số lượng suất ăn thực nhận. Trên cơ sở ký xác nhận
của cơ trưởng tàu bay trên "Phiếu nhận suất ăn" Hải quan sẽ làm thủ tục
thanh khoản.
+ Trên cơ sở xử lý, phân tích thông tin, Hải
quan sẽ tiến hành kiểm tra xác suất, trọng điểm việc giao nhận suất ăn tại tàu
bay.
+ Tăng cường giám sát bằng phương tiện kỹ thuật
(camera).
- Tổng cục có ý kiến như sau: Yêu cầu Cục Hải
quan TP Hồ Chí Minh báo cáo cụ thể việc thực hiện công tác giám sát đối với việc
cung ứng suất ăn cho tàu bay kể từ khi Quyết định số 1840/QĐ-TCHQ ngày
28/09/2006 có hiệu lực đến nay. Nếu nội dung đề xuất là hợp lý và các Đơn vị Hải
quan khác cũng bị vướng mắc tương tự thì Tổng cục sẽ có ý kiến chỉ đạo.
7) Vướng mắc 7:
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: Theo sơ đồ mặt
bằng sân bay và thông báo của lực lượng An ninh hàng không thì hiện tại Khu vực
sân bay Tân Sơn Nhất có 22 cổng, cửa, đường liên thông (số lượng này sẽ thay đổi
khi nhà ga mới hoàn thành) đang được An ninh hàng không chốt giữ, trong đó cổng
số 5 là cổng dành riêng cho phương tiện vận tải, hàng hóa, trang thiết bị của
các Đơn vị hoạt động tại sân đỗ tàu bay và cổng dành cho kho hàng TCS là cổng
xuất, nhập hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ tàu bay. Do vậy, Cục Hải quan TP Hồ
Chí Minh đề nghị:
+ Hải quan bố trí giám sát thường xuyên tại 2 cổng
nêu trên. Số cổng, cửa còn lại giao Chi cục HQ SB Tân Sơn Nhất có văn bản thỏa
thuận là cơ quan Hàng không chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cơ quan quản
lý. Hải quan và được quy định rõ "tất cả hàng hóa, hành lý, trang thiết bị,
vật tư XNK, thực phẩm cung ứng cho tàu bay; phương tiện vận tải các loại khi ra
vào sân đỗ tàu bay phải qua 2 cổng nêu trên".
+ Sớm trang bị phương tiện kỹ thuật giám sát tại
sân đỗ tàu bay, tại 2 cổng trọng điểm nêu trên.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Trên cơ sở nội
dung quy định tại Điều 6 Nghị định số 107/2002/NĐ-CP ngày
23/12/2002 của Chính phủ, đề nghị Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh chủ động tổ chức,
triển khai công tác giám sát, tuần tra, kiểm soát theo thẩm quyền quy định.
Riêng về trang bị phương tiện kỹ thuật giám sát tại sân đỗ tàu bay, tại 2 cổng
trọng điểm, đề nghị Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh có trách nhiệm đề xuất cụ thể.
8) Vướng mắc 8: Về tờ khai nhập cảnh / xuất cảnh.
- Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh nêu: Theo Quyết định
số 1840/QĐ-TCHQ thì người xuất nhập cảnh có hành lý thuộc diện không phải khai
hải quan trên tờ khai. Tuy nhiên, tại Quyết định số 29/2006/QĐ-BTC (hướng dẫn sử
dụng tờ khai nhập cảnh/xuất cảnh....) ngày 08/05/2006 của Bộ Tài chính thì Hải
quan phải lưu trữ trang 1, 2, 3, 6 tờ khai. Như vậy, việc quy định tại QĐ
1840/QĐ-TCHQ người xuất nhập cảnh thuộc diện không phải khai thì không lưu tờ
khai, nhưng QĐ 29/2006/QĐ-BTC lại quy định khách phải xuất trình trang 1,2,3,6
tờ khai cho Hải quan và hải quan phải tổ chức bố trí người thu tờ khai của
khách. Do vậy, Cục Hải quan TP Hồ Chí Minh đề nghị:
Trên trang 1,2,3,6 tờ khai nhập cảnh / xuất cảnh
không có nội dung liên quan đến khai báo hải quan (chỉ có trang 4,5) nên Hải
quan không phải thu trang này, chỉ thu trang 4, 5 nếu khách có khai báo hải
quan.
- Tổng cục có ý kiến như sau: Tại Quyết định số
1840/QĐ-TCHQ không quy định người xuất nhập cảnh thuộc diện không phải khai hải
quan thì không lưu tờ khai. Mặt khác, nội dung đề nghị của Cục Hải quan TP Hồ
Chí Minh sẽ gây khó khăn cho người xuất nhập cảnh trong các trường hợp cụ thể
sau đây: trường hợp người xuất nhập cảnh phải khai báo hải quan về ngoại tệ,
vàng, tiền đồng VN; về hành lý gửi không cùng chuyến đi ... tại trang 4, 5
trong khi Cục Hải quan TP đề nghị Hải quan thu trang 4, 5 thì người xuất Nhập cảnh
sẽ không có tờ khai (trang 4, 5) để làm các thủ tục tiếp theo. Đề nghị Cục Hải
quan TP Hồ Chí Minh thực hiện đúng theo quy định hiện hành.
Tổng cục Hải quan trả lời để Cục Hải quan TP Hồ
Chí Minh biết và thực hiện./.