BỘ
TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 5059/TCT-CS
V/v thuế GTGT.
|
Hà
Nội, ngày 13 tháng 12
năm 2018
|
Kính
gửi: Cục Thuế tỉnh Trà Vinh.
Tổng cục Thuế nhận được công văn số
5120/CT-KKKT ngày 28/12/2017 và công văn số 3127/CT-KKKT ngày 6/11/2018 của Cục
Thuế tỉnh Trà Vinh về khai bổ sung khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Tại Khoản 2 Điều 5 Nghị
định số 83/2013/NĐ-CP ngày 22/7/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế:
“Khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm
quyền đã ban hành kết luận, quyết định xử lý về sau kiểm tra, thanh tra; nếu
người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp và được kiểm tra, thanh tra (liên quan đến thời kỳ, phạm vi kiểm tra, thanh
tra) còn sai sót thì người nộp thuế được tự khai bổ sung, điều chỉnh; việc xử
lý căn cứ chế độ quy định về nguyên nhân khách quan, chủ quan của việc khai
sót, chưa đúng phải điều chỉnh.”
Tại Điểm c Khoản 3 Điều
15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính, quy định:
“c) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả
chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên,
cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa
đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hóa, dịch vụ
mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu
vào, đồng thời ghi rõ thời hạn thanh toán vào phần ghi chú trên bảng kê hóa
đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán
qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc trước ngày 31
tháng 12 hàng năm đối với trường hợp thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn
ngày 31 tháng 12, cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế GTGT đầu
vào.
Đến thời điểm
thanh toán theo hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm đối với trường hợp
thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31 tháng 12, nếu không có chứng
từ thanh toán qua ngân hàng thì không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, cơ sở
kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ của
giá trị hàng hóa không có chứng từ thanh toán qua ngân
hàng. Sau khi cơ sở kinh doanh đã điều chỉnh giảm số thuế GTGT đầu vào đã khấu
trừ tương ứng với giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào không có chứng từ thanh
toán qua ngân hàng, cơ sở kinh doanh mới có được chứng từ chứng minh việc thanh
toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh được khai bổ sung.
Trường hợp đã quá hạn thanh toán chậm
trả theo quy định trong hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm, cơ sở kinh
doanh không thực hiện điều chỉnh giảm theo quy định nhưng trước khi cơ quan thuế,
cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định kiểm tra tại trụ sở, cơ sở kinh doanh
có đầy đủ chứng từ chứng minh đã thanh toán qua ngân hàng
thì nếu việc không điều chỉnh giảm không dẫn đến thiếu số thuế phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn thì cơ sở kinh doanh bị xử phạt
vi phạm về thủ tục thuế, nếu việc không điều chỉnh giảm dẫn đến thiếu số thuế
phải nộp hoặc tăng số thuế được hoàn thì cơ sở kinh doanh bị truy thu, truy
hoàn và xử phạt theo quy định của Luật Quản lý thuế.
Trường hợp cơ quan thuế công bố quyết
định kiểm tra, thanh tra tại trụ sở và có quyết định xử lý không chấp nhận cho
khấu trừ thuế đối với các hóa đơn GTGT không có chứng từ thanh toán qua ngân
hàng, sau khi có quyết định xử lý của cơ quan thuế cơ sở kinh doanh mới có chứng
từ thanh toán qua ngân hàng thì:
- Đối với các hóa đơn GTGT cơ sở kinh
doanh đã điều chỉnh giảm trước khi cơ quan thuế đến thanh tra, kiểm tra thì cơ
sở kinh doanh được khai bổ sung thuế GTGT.
- Đối với các hóa đơn GTGT cơ sở kinh
doanh đã không điều chỉnh giảm trước khi cơ quan thuế đến thanh tra, kiểm tra
thì cơ sở kinh doanh được khai bổ sung nếu có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
trong thời hạn 6 tháng kể từ tháng có Quyết định xử lý của cơ quan thuế.”
Tại Điều 10, Thông tư
151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014, sửa đổi, bổ sung điểm c Khoản
3 Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC; Tại điểm c khoản 10 Điều
1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc
thanh toán hàng hóa trả chậm như sau:
“c) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả
chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên,
cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa
đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hóa, dịch vụ
mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trường
hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán
theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu
trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp khi thanh toán, cơ sở kinh
doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải kê
khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ
tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ
quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh
tra, kiểm tra kỳ tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ).”
Tại điểm c khoản 10 Điều
1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc
thanh toán hàng hóa trả chậm như sau:
“c) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả
chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở lên,
cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản, hóa
đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng
của hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa
đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai,
khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp khi thanh toán, cơ sở kinh
doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải kê
khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối với phần giá trị hàng
hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế phát
sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ quan thuế và các
cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ
tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ).”
Về chính sách thuế đối với mua hàng
trả chậm, Tổng cục Thuế đã có công văn số 1634/TCT-CS ngày 25/4/2017 trả lời Cục
Thuế tỉnh Thanh Hoá, công văn số 1637/TCT-CS ngày 25/4/2017 trả lời Cục Thuế
thành phố Hà Nội (bản photocopy đính kèm).
Về chứng từ thanh toán để hoàn thuế
GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu, Tổng cục Thuế đã có công văn số 28/TCT-CS ngày
3/1/2018 trả lời Cục Thuế tỉnh Long
An (bản photocopy đính kèm).
Tổng cục Thuế trả lời Cục Thuế tỉnh Trà Vinh được biết và căn cứ chế độ quy định, tình hình
thực tế để giải quyết theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- Phó TCT: Cao Anh Tuấn
(để b/c);
- Vụ PC-BTC;
- Vụ PC-TCT;
- Website TCT;
- Lưu: VT, CS(4b).
|
TL.
TỔNG CỤC TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ CHÍNH SÁCH
Lưu Đức Huy
|