Kính
gửi:
|
- Các Tòa án nhân dân và Tòa án
quân sự;
- Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
|
Ngày 28/3/2022, Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức Hội nghị trực tuyến giải đáp một số vướng mắc
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại,
hành chính và công tác hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Trên cơ sở các vướng mắc và giải đáp của
Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối
cao thông báo kết quả giải đáp một số vướng mắc trong công tác xét xử như sau:
I. HÌNH SỰ
1. Người đủ 18 tuổi phạm tội
nhưng trước đó đã bị kết án khi chưa đủ 16
tuổi thì có thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” hay không?
Theo quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án được coi là không có án
tích. Do vậy, trường hợp người đủ 18 tuổi phạm tội nhưng trước đó đã bị kết án
khi chưa đủ 16 tuổi thì thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu”.
2. Trường hợp vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm thì Tòa án xử lý như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 7
Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 234 về Tội vi phạm
quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều
244 về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ
luật Hình sự thì:
“1. Việc
xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy
cấp, quý, hiếm hoặc sản phẩm của chúng được thực hiện
như sau:
a) Vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm còn sống thì ngay
sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành để trả
về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo
quy định của pháp luật.
b) Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc
giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.
c) Vật chứng khác không thuộc trường
hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này
thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp
luật
Căn cứ vào điểm c khoản
1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP nêu trên, đối với
vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý, hiếm Tòa án sẽ tuyên tịch thu
hoặc tiêu hủy.
3. Người có hành vi hủy hoại
tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa
hoặc danh lam thắng cảnh có giá trị từ 100 triệu đồng
trở lên thì phạm tội “Vi phạm các quy định về
bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng” theo Điều 345 Bộ Luật Hình sự
hay tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 178 Bộ
luật Hình sự hay cả hai tội?
Trường hợp người có hành vi hủy hoại
tài sản thuộc khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc danh lam thắng cảnh mà hành vi
hủy hoại đã làm cho tài sản của khu di tích bị hư hỏng hoặc mất giá trị sử dụng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội
hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
theo quy định tại Điều 178 của Bộ luật Hình sự nếu có đủ các
yếu tố cấu thành tội phạm.
II. TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Bị cáo thực hiện nhiều hành
vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các
hành vi phạm tội này nhưng chỉ truy tố về 01
tội danh. Khi xét xử, Tòa án xét xử các hành vi đã bị truy tố nhưng với 02 tội
danh khác nhau thì có vi phạm quy định về giới
hạn của việc xét xử hay không?
Trường hợp bị cáo thực hiện nhiều
hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đã truy tố các hành vi phạm tội này về 01 tội
danh thì căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố
tụng hình sự, Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Nếu
Viện kiểm sát vẫn giữ quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ án. Khi
xét xử, Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự
chỉ xét xử hành vi theo tội danh mà
Viện kiểm sát truy tố.
2. Bị cáo là đồng phạm trong một
vụ án. Trong giai đoạn xét xử, bị cáo chết. Bị cáo có tài sản riêng để bồi
thường thiệt hại. Tòa án có đưa những người thừa kế tài sản của bị cáo đã chết vào tham gia tố
tụng để giải quyết phần trách nhiệm dân sự không? Nếu có thì xác định tư cách
tham tố tụng của những người này như thế nào? Khi tuyên án về nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại của bị cáo theo hướng buộc những người thừa kế của bị cáo phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
do bị cáo để lại trong phạm vi di sản hay chỉ cần tuyên buộc các đồng phạm còn
lại có trách nhiệm liên đới bồi thường và
tách yêu cầu hoàn trả của các đồng phạm (đã thực hiện nghĩa vụ liên đới thay
cho bị cáo đã chết) đối với những người thừa
kế tài sản của bị cáo để giải quyết thành vụ án dân sự khác?
Trường hợp có thể giải quyết trong
cùng một vụ án thì khi giải quyết phần trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại, Tòa án đưa người thừa kế tài sản của bị cáo tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường, căn cứ Điều 615 Bộ luật Dân
sự, người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi
di sản do người chết để lại.
Trường hợp, không thể giải quyết trong cùng vụ án hình sự thì Tòa án
buộc các đồng phạm còn lại có trách nhiệm liên đới bồi thường
thiệt hại. Căn cứ quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Tòa án tách vụ án dân sự (giải quyết nghĩa vụ bồi thường giữa các bị cáo khác
và người thừa kế của bị cáo) theo thủ tục tố tụng dân sự.
3. Trong cùng một vụ án hình
sự có nhiều bị
can, mỗi bị can bị truy tố theo các khoản khác nhau của cùng một điều luật hoặc bị truy tố theo các tội danh khác nhau. Vậy thời hạn tạm giam các bị can, bị cáo để chuẩn bị xét xử được tính theo thời hạn tạm giam của bị can, bị cáo có thời hạn tạm giam
dài nhất hay tính theo thời hạn tạm giam của từng loại tội phạm tương ứng với từng
bị can, bị cáo?
Vấn đề này, trước đây đã được hướng dẫn
tại Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ ba “xét xử sơ thẩm” Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003. Qua rà soát thấy rằng, nội dung hướng dẫn tại
Nghị quyết này vẫn phù hợp với quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do
đó, trường hợp trong vụ án có nhiều bị can bị truy tố về nhiều tội phạm khác
nhau (tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) thì thời hạn tạm giam đối với từng bị can không được quá thời hạn chuẩn bị
xét xử đối với tội phạm nặng nhất mà bị can đó bị truy tố.
4. Hội đồng xét xử phúc thẩm có
quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi
hơn về phần án phí, áp dụng các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự không đúng. Căn cứ vào quy định nào của pháp luật
để Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa các nội dung này?
Mặc dù khoản 1 Điều
357 Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm về án phí,
áp dụng tình tiết tăng nặng không đúng. Việc sửa 02 nội dung này nếu có lợi cho
bị cáo thì Hội đồng xét xử có thể vận dụng quy định tại Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự về phạm vi xét xử phúc thẩm để
sửa 02 nội dung này của bản án sơ thẩm. Tuy nhiên tại phần quyết
định của bản án cần căn cứ cả Điều 345 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.
5. Khi Tòa án yêu cầu trích xuất
bị can, bị cáo đang chấp hành hình phạt tù trong vụ án khác để phục vụ yêu cầu
xét xử ngoài văn bản yêu cầu trích xuất, Tòa án có còn phải bổ sung Quyết định
tạm giam đối với phạm nhân là bị can, bị cáo trong thời gian trích xuất không?
Trường hợp này, đã được hướng dẫn tại
mục 3 phần II Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của
Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng
mắc trong xét xử: “Đối với bị can, bị cáo đang thi hành án hình phạt tù ở
một vụ án trước thì không ra quyết định tạm giam mà chỉ
ra quyết định trích xuất để phục vụ công tác xét xử vụ án. Vì không có căn cứ
tạm giam theo quy định tại Điều 119 của Bộ luật Tố tụng hình sự”. Mặt khác, Điều 9 của Thông tư liên tịch số
01/2020/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 17/6/2020 của Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối
hợp thực hiện trích xuất phạm nhân, học sinh đang chấp hành biện pháp tư pháp
giáo dục tại trường giáo dưỡng để phục vụ điều tra, truy tố,
xét xử đã quy định chế độ giam giữ đối với trường hợp này,
khi được trích xuất theo Lệnh/Quyết định trích xuất mà không phải Quyết định tạm
giam.
6. Trong vụ án hình sự, bị cáo thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì có được miễn án phí hình sự không?
Điều 12 của Nghị quyết
số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội thuộc Chương quy định chung, do đó khi bị cáo thuộc một trong các
trường hợp này thì cũng được miễn án phí hình sự.
7. Trong vụ án hình sự, tại
phiên tòa lần đầu, bị hại có đơn đề nghị xét
xử vắng mặt, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị hại có đơn đề nghị vắng mặt và đề nghị hoãn phiên
tòa. Trường hợp này, Tòa án hoãn phiên tòa hay tiếp
tục xét xử vụ án?
Đối với trường hợp vắng mặt bị hại thì Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật
Tố tụng hình sự xem xét hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định
việc vắng mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị hại thì Tòa án xem xét hoãn phiên tòa. Do đó, trường hợp
này, Tòa án vẫn mở phiên tòa theo quy định. Tuy nhiên, nếu
việc vắng mặt người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị
hại mà ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án thì Hội đồng
xét xử có thể căn cứ vào Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự, hỏi xem có ai yêu cầu hoãn
phiên tòa hay không, nếu có yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
III. KINH DOANH
THƯƠNG MẠI
1. Trong vụ án
kinh doanh thương mại, sau khi Tòa án thụ lý vụ án thì người thế chấp tài sản
(người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) chết.
Nguyên đơn và Tòa án không xác định được nơi
cư trú của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án căn cứ điểm a khoản 1 Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Như vậy, trường hợp
không thể xác định được nơi cư trú của người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
nêu trên thì Tòa án giải quyết như thế nào?
Theo khoản 1 Điều 74
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng thì trường
hợp đương sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết mà quyền, nghĩa vụ về tài sản
của họ được thừa kế thì người thừa kế của người đó tham
gia tố tụng.
Trường hợp nguyên đơn và Tòa án không
xác định được nơi cư trú của người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án áp dụng điểm a khoản 1
Điều 214 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để tạm đình
chỉ giải quyết vụ án. Đồng thời, Tòa án hướng dẫn nguyên
đơn có quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng
mặt tại nơi cư trú (theo quy định tại chương XXV Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015) hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất tích (theo quy
định tại chương XXVI Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) đối với người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng. Sau khi có kết quả giải
quyết việc tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc có quyết định tuyên bố một
người mất tích đối với người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục
chung.
2. Trong vụ án tranh chấp hợp
đồng tín dụng có
nguyên đơn là ngân hàng, Tòa án phải xem xét tính hợp pháp của hợp đồng thế
chấp tài sản mà ngân hàng đã thẩm định tài sản trước khi cho vay, để làm
cơ sở giải quyết vụ án. Trường hợp sau khi ngân hàng thẩm định tài sản thế chấp mà có người thứ ba đang sử dụng tài sản này (đang sử
dụng đất hoặc đang ở nhà trên đất) thì khi giải quyết vụ án, Tòa án có phải đưa những người này tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan hay không?
Theo khoản 4 Điều 68
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi
kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương
sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Trường hợp việc giải quyết vụ án
dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai
đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án
phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”
Trường hợp này, Tòa án phải xem xét
việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người thứ ba này
hay không, nếu có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ thì phải đưa họ vào
tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
3. Trong vụ án tranh chấp hợp đồng
tín dụng, bên vay dùng tài sản là quyền sử
dụng đất và nhà trên đất thuộc quyền sở hữu, sử dụng
của mình làm tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, sau đó bên thứ ba đã tháo dỡ nhà cũ để
xây dựng nhà mới trên đất. Bên thứ ba biết rõ quyền sử dụng đất và nhà cũ trên đất dùng được thế chấp cho ngân hàng nhưng không thông báo cho Ngân hàng và Ngân hàng cũng không biết việc bên thứ ba xây
dựng nhà mới trên đất. Bên vay không trả nợ đúng hạn nên bị ngân hàng khởi kiện.
Khi giải quyết tranh chấp, Tòa án có cần phải định giá tài sản
là căn nhà mới phát sinh trên đất hay không và giải quyết như thế nào đối với tài sản phát sinh này?
Căn nhà mới của bên thứ ba xây dựng
trên đất là tài sản phát sinh sau khi bên vay đã thế chấp
quyền sử dụng đất cho Ngân hàng theo hợp đồng thế chấp tài sản đã ký giữa bên vay và Ngân
hàng, nên khi giải quyết vụ án Tòa án phải đưa bên thứ ba vào tham gia tố tụng
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án phải căn cứ vào nội dung thỏa thuận của các bên trong
hợp đồng thế chấp, yêu cầu của các bên đương sự để xem xét
có định giá căn nhà mới này hay không. Nếu việc định giá
tài sản này là cần thiết, kết quả định giá căn nhà mới này
có giá trị sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa án cần tiến hành định
giá tài sản này.
Nếu bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ
thì theo yêu cầu của Ngân hàng, Tòa án tuyên phát mại tài sản là quyền sử
dụng đất và tài sản trên đất để thực hiện
nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Quá trình thi hành án, bên thứ ba được quyền ưu
tiên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và mua tài sản gắn
liền với đất nếu có nhu cầu[1]. Trường hợp bên thứ ba
không nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và không mua
tài sản gắn liền với đất thì sẽ được thanh toán giá trị
tài sản của mình trên đất theo quy định của pháp luật.
4. Theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 thì các đương sự có quyền thỏa thuận mời một tổ chức định giá độc lập, sau khi định
giá sẽ căn cứ vào giá ghi trong chứng thư định giá của tổ chức định giá để giải quyết. Tuy nhiên, trường hợp
chỉ một trong các bên đương sự nhất trí mời
tổ chức định giá, một hoặc các bên còn lại không nhất trí thì trường hợp này xử
lý như thế nào?
Khoản 2 Điều 104 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“2. Các đương sự có quyền thỏa
thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả thẩm định giá cho Tòa án.
Việc thẩm định giá tài sản được thực
hiện theo quy định của pháp luật về thẩm định giá tài sản ”.
Như vậy, theo quy định trên thì các
đương sự trong vụ án có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản
để thực hiện việc thẩm định giá tài sản và cung cấp kết quả
thẩm định giá cho Tòa án để giải quyết tranh chấp, việc thẩm
định giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật
về thẩm định giá tài sản. Tuy nhiên, trường hợp chỉ một trong
các bên nhất trí mời tổ chức thẩm định giá tài sản để thực hiện
việc thẩm định giá tài sản và các bên còn lại không nhất trí là trường hợp các
bên không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản để thực
hiện việc thẩm định giá tài sản. Do đó, Tòa án phải ra quyết
định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015[2] để làm căn cứ giải quyết vụ án.
5. Khi giải quyết các tranh chấp
Hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân
hàng với bị đơn là hộ kinh doanh cá thể,
trong đó chủ hộ kinh doanh là người trên 60 tuổi. Hộ kinh doanh cá thể vay tiền để
thực hiện hoạt động kinh doanh có mục đích lợi
nhuận. Vậy người trên 60 tuổi trong trường hợp này có được miễn án phí theo Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội không?
Theo khoản 1 Điều 79
Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 quy định: “1. Hộ kinh doanh
do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia
đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ
kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân
đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại
diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.” Theo khoản 2 Điều 81 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 thì
chủ hộ kinh doanh đại diện cho hộ kinh doanh với tư cách người yêu cầu giải quyết
việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước
Trọng tài, Tòa án.
Trong trường hợp này, chủ hộ kinh doanh chỉ là người đại diện cho hộ kinh doanh tham gia tố tụng
tại Tòa án, nên hộ kinh doanh là chủ thể phải nộp án phí chứ không phải là chủ
hộ kinh doanh. Vì vậy, nếu chủ hộ kinh doanh là người trên 60 tuổi thì cũng
không được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
IV. DÂN SỰ - TỐ TỤNG
DÂN SỰ
1. Trong vụ án tranh chấp về thừa
kế tài sản, một người thuộc hàng thừa kế đã
có văn bản từ chối nhận di sản thừa kế, Tòa án cấp sơ thẩm đưa họ
vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án đã giải quyết chia toàn bộ di sản thừa kế cho
những đồng thừa kế khác (bao gồm cả ký
phần thừa kế của người từ chối nhận di sản thừa kế). Sau khi xét
xử sơ thẩm, người từ chối nhận di sản kháng
cáo bản án với nội dung yêu cầu giải quyết được chia thừa kế theo pháp luật,
xin được nhận kỷ phần thừa kế mà lẽ ra họ được hưởng. Trong trường hợp này, Tòa
án có chấp nhận yêu cầu của họ về việc chia di sản thừa kế hay không?
Khoản 1 Điều 5 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của
đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu đó”.
Điều 620 Bộ luật Dân
sự năm 2015 quy định:
“1.
Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người
khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải
được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế
khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để
biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải
được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.”
Điểm c khoản 2 Điều
650 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về những trường hợp
thừa kế theo pháp luật như sau: “Phần di sản có liên quan đến người được thừa
kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng
di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết
cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản
theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Như vậy, trong trường hợp nêu trên
thì tùy từng trường hợp mà Tòa án xem xét, quyết định:
- Trường hợp việc từ chối nhận di sản
của người thừa kế là tự nguyện thì Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu của đương
sự về việc chia thừa kế đối với kỷ phần mà họ đã từ chối nhận.
- Trường hợp có căn cứ về việc từ chối
nhận di sản thừa kế của người thừa kế do bị lừa dối, ép buộc, đe dọa... thì Tòa
án sẽ xem xét chấp nhận yêu cầu của đương sự.
2. Tòa án nhận được đơn khởi kiện của vợ/chồng
người Việt Nam kết hôn tại Việt Nam nhưng đang định cư ở nước ngoài; một bên đương sự có yêu cầu giải quyết ly hôn nhưng đề nghị vắng mặt thì Tòa
án giải quyết như thế nào? Tòa án có thể xác minh thu thập tài liệu chứng cứ vắng
mặt đối với cả nguyên đơn và bị đơn định cư ở nước ngoài được không? Chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài như thế nào?
Theo quy định tại Điều
238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục xét xử vắng mặt tất cả
những người tham gia tố tụng thì:
“1. Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng
cứ có trong hồ sơ để xét xử vắng mặt đương sự, người tham gia tố tụng khác theo quy định của pháp
luật khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;
b) Bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; người đại diện hợp pháp của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần
thứ hai mà vẫn vắng mặt;
c) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt”.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cho
phép Tòa án tiến hành xét xử ngay cả khi tất cả người tham gia tố tụng vắng mặt
nếu việc tống đạt văn bản tố tụng là hợp lệ và nguyên đơn, bị đơn có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt hoặc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt.
Do vậy, Tòa án có thể xem xét, giải quyết vụ án ly hôn vắng mặt các bên nếu vẫn
bảo đảm việc tống đạt hợp lệ và nhận được phản hồi bằng văn bản hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật (ví dụ: giấy
tờ, tài liệu gửi từ nước ngoài về cho Tòa án Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự theo đúng quy định...).
Về nghĩa vụ nộp tạm ứng chi phí ủy
thác tư pháp ra nước ngoài và nghĩa vụ chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước
ngoài đã được quy định tại Điều 152 và Điều 153 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 và hướng dẫn tại Công văn số 64/TANDTC-HTQT ngày 09/6/2021 của Tòa án nhân dân tối cao về việc ủy thác tư pháp, tống
đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài.
3. Nguyên đơn là công dân Việt
Nam kết hôn với bị đơn là người nước ngoài, có 01 con chung (việc kết hôn và đăng
ký khai sinh cho con được thực hiện tại Việt
Nam). Sau khi sinh con, cả gia đình sang nước A sinh sống. Sau đó, người vợ đưa
con về Việt Nam sống từ năm 2015 đến nay.
Nay người vợ khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn và con chung. Bị đơn cung
cấp thông tin và tài liệu chứng minh đã có quyết định của Tòa án nước A công nhận
cho bị đơn được nuôi dưỡng con chung; bị đơn chưa cung cấp được chứng cứ xác định
đã được giải quyết về quan hệ hôn nhân. Trong trường hợp này, Tòa án Việt Nam
có thẩm quyền giải quyết việc ly hôn và quan
hệ con chung theo yêu cầu của nguyên đơn
không?
Căn cứ điểm d khoản 1
Điều 469 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn là công dân Việt
Nam, bị đơn là người nước ngoài nên vụ
án thuộc thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam.
Tòa án nước A đã có bản án công nhận
cho bị đơn được nuôi con chung nên Tòa án Việt Nam cần hướng dẫn đương sự làm thủ tục công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án nước
A.
- Trường hợp đương sự có yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án
nước A thì cần phân biệt:
Trường hợp Tòa án Việt Nam ra quyết định
công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa án Việt Nam chỉ xem xét giải quyết yêu cầu ly hôn của nguyên đơn nếu yêu cầu ly hôn
chưa được Tòa án nước A giải quyết.
Trường hợp Tòa án Việt Nam ra quyết định
không công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa án Việt
Nam xem xét giải quyết cả yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn nếu yêu cầu ly hôn chưa được Tòa án nước A giải quyết.
- Trường hợp đương sự không yêu cầu
Tòa án Việt Nam công nhận hoặc không công nhận bản án của Tòa án nước A thì Tòa
án Việt Nam căn cứ điểm d khoản 1 Điều 472 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 đình chỉ giải quyết
đối với yêu cầu nuôi con chung; Tòa án Việt Nam chỉ
có thẩm quyền giải quyết đối với yêu cầu ly hôn của nguyên đơn
khi Tòa án nước A chưa giải quyết.
4. Trong vụ án yêu cầu chia thừa
kế tài sản, Tòa án có thụ lý yêu cầu độc lập của ông A và xác định tư cách tố tụng
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu đòi tài sản là 50m2 đất nằm trong
diện tích đất yêu cầu chia thừa kế. Như
vậy, Tòa án có giải quyết trong cùng vụ án hay phải
tách ra giải quyết yêu cầu đòi tài sản trước
sau đó mới có căn cứ chia thừa kế sau?
Điều 42 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 quy định:
“1.
Tòa án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đó đã thụ lý riêng biệt thành một vụ
án để giải quyết nếu việc nhập và việc giải quyết trong cùng một vụ án bảo đảm
đúng pháp luật.
Đối với vụ án có nhiều người
có cùng yêu cầu khởi kiện đối với cùng một cá nhân hoặc cùng một cơ quan, tổ chức thì Tòa án có thể nhập các yêu cầu của họ để giải quyết trong cùng một vụ án.
2. Tòa án tách một vụ án có các yêu
cầu khác nhau thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và
việc giải quyết các vụ án được tách bảo đảm đúng pháp
luật ”.
Quan hệ tranh chấp yêu cầu chia thừa
kế tài sản và tranh chấp đòi quyền sử dụng đất là hai quan hệ pháp luật khác
nhau nhưng có liên quan đến nhau trong cùng vụ án. Việc giải quyết quan hệ
tranh chấp đòi tài sản là căn cứ để Tòa án xác định di sản thừa kế khi giải quyết yêu cầu chia thừa kế tài sản. Do vậy, để giải
quyết chính xác, nhanh chóng và đúng pháp luật; trên cơ sở chứng cứ thu thập được và yêu cầu của đương sự thì tùy từng trường hợp
cụ thể mà Tòa án có thể giải quyết trong cùng một vụ án hoặc
tách thành hai vụ án riêng biệt.
5. Trường hợp phiên tòa dân sự
sơ thẩm đang diễn ra không có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp.
Quá trình xét xử, Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa để xác minh,
thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mới có đủ căn cứ giải quyết vụ án. Sau khi
Tòa án tiến hành xác minh, thu thập và bổ sung chứng cứ thì vụ án thuộc trường hợp phải có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng
cấp theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, cụ thể: “Viện kiểm sát tham
gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; phiên tòa sơ thẩm đối với những
vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc...”. Trong trường hợp này, Tòa
án phải thực hiện các thủ tục gì để đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa và phiên tòa có phải bắt đầu lại
từ đầu không hay vẫn tiếp tục của phiên tòa đã tạm ngừng trước đó?
Theo quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 259 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì trong quá trình xét
xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi: “Cần phải
xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không
thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”.
Khoản 2 Điều 259 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Việc tạm ngừng
phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên
tòa. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng
xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên
tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục
thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm
sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”.
Trong trường hợp này, khi hết thời hạn
tạm ngừng phiên tòa và lý do để tạm ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét
xử tiếp tục tiến hành phiên tòa. Để đảm bảo chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng của Viện kiểm
sát thì khi tiếp tục tiến hành phiên tòa, Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa để
gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày và
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
6. Tại phiên tòa phúc thẩm,
nguyên đơn rút đơn khởi kiện, bị đơn chấp nhận việc rút đơn khởi kiện. Hội đồng
xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm
và đình chỉ giải quyết vụ án, nhưng cấp phúc
thẩm thấy phần án phí của bản án sơ thẩm là sai. Vậy, tại Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự cấp phúc thẩm có quyền sửa phần án phí sơ thẩm hay không ?
Điểm b khoản 1 Điều
299 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về việc
nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm
như sau:
“Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và
phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật. ”
Như vậy, trường hợp Tòa án cấp phúc
thẩm phát hiện án phí trong bản án sơ thẩm bị sai thì Tòa án cấp phúc thẩm sẽ
tuyên án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm trong quyết định hủy bản án sơ thẩm và
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
V. HÀNH CHÍNH, TỐ
TỤNG HÀNH CHÍNH
1. Hộ gia đình ông A và hộ
gia đình ông B có tranh chấp ranh giới thửa đất giữa
hai gia đình. Quá trình giải quyết, Chủ tịch UBND quận C ra quyết định xử phạt hành chính đối
với hành vi lấn chiếm đất tranh chấp của ông A. Ông A khởi kiện yêu cầu hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất UBND quận C
đã cấp cho ông B và quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND quận C
đối với ông A. Tòa án đã thụ lý thành hai vụ án khác nhau. Trong trường hợp này thì Tòa án có
nhập hai vụ án thành một vụ án để giải quyết
không?
Theo quy định tại khoản
1 Điều 35 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì:
“1. Tòa
án nhập hai hoặc nhiều vụ án mà Tòa án đã thụ lý riêng biệt
thành một vụ án để giải quyết bằng một vụ án hành
chính khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ
có một người khởi kiện đối với nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính
đều do một cơ quan, tổ chức hoặc một người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức
ban hành, thực hiện và có mối liên hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý
riêng biệt có nhiều người khởi kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính:
b. Việc nhập hai hay nhiều
vụ án hành chính thành một vụ án hành chính phải bảo đảm việc xét xử được nhanh
chóng, hiệu quả, triệt để và không vi phạm thời hạn chuẩn bị xét xử. ”
Trong trường hợp này người khởi kiện
khởi kiện 01 Quyết định của Ủy ban nhân dân quận C và 01 Quyết định của người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân quận C. Hai quyết định này có mối liên hệ mật thiết với nhau và do cùng một
cơ quan, chỉ khác về thẩm quyền ban hành (Một quyết định của
cơ quan và một quyết định của người đứng đầu cơ quan đó ban hành). Hai quyết định này đều liên quan đến diện tích đất mà các bên đang tranh
chấp (một quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông B bao gồm cả
diện tích đất tranh chấp, một quyết định liên quan đến diện tích đất ông A lấn
chiếm của ông B đã được Ủy ban nhân
dân quận C cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất). Do vậy, trong trường hợp này để việc xét xử được nhanh chóng, hiệu
quả, triệt để thì Tòa án có thể nhập vụ án để giải quyết.
2. Ông Trần Văn H nộp hồ sơ xin
chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã B theo đúng quy định, nhưng bà Nguyễn Thị N là
cán bộ của Ủy ban nhân dân xã B được phân
công tiếp nhận hồ sơ đăng ký di biến động đất đai đã nhận hồ sơ đất nhưng trả
lại hồ sơ cho ông H và không nêu lý do của việc trả
lại hồ sơ đó. Không đồng ý với việc trả lại hồ sơ này, ông H
có quyền khởi kiện không? Nếu có thì đối tượng khởi
kiện trong trường hợp này là gì?
Tại đoạn 2 khoản 2 Điều
60 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định: “... Trường hợp hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ
tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ
sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất
đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai”. Như vậy,
theo quy định nêu trên thì trong trường hợp này ông H có quyền khởi kiện do Ủy
ban nhân dân xã B không làm đúng quy định về việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả
thực hiện thủ tục hành chính về đất đai.
Khoản 5 Điều 60 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai quy định:
“5. Việc trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính được thực
hiện như sau:
a) Kết quả giải quyết thủ tục hành
chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong
thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả giải quyết, trừ trường
hợp quy định tại Điểm b Khoản này;
b) Trường hợp phải thực hiện nghĩa
vụ tài chính liên quan đến thủ tục hành chính thì
việc trao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực
hiện sau khi người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nộp chứng từ hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định;
trường hợp thuê đất trả tiền hàng năm thì trả kết quả sau khi người sử dụng đất đã ký hợp đồng thuê đất; trường hợp được miễn nghĩa vụ tài chính liên quan đến thủ
tục hành chính thì trả kết quả sau khi nhận được
văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định được miễn nghĩa vụ tài chính;
c) Trường hợp hồ sơ không đủ điều
kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết. ”
Theo quy định tại khoản
3 và khoản 4 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì hành vi hành chính
là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý
hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định
của pháp luật. Hành vi hành chính bị kiện là hành vi nêu trên mà hành vi đó làm
ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Như vậy, việc tiếp nhận hồ sơ và
trả kết quả thủ tục hành chính về đất đai thuộc chức năng, nhiệm
vụ của Ủy ban nhân dân xã B. Việc bà N là cán bộ của Ủy
ban nhân dân xã B được phân công tiếp nhận hồ sơ đã trả lại hồ sơ mà không nêu rõ lý do là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Đây
là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã B mà không phải
là hành vi hành chính của bà N. Đối tượng khởi kiện trong
trường hợp này là hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã B.
3. Người khởi kiện khởi kiện
quyết định thu hồi đất liên quan đến dự án
quốc phòng thì Tòa án có được thụ lý không?
Theo quy định tại điểm
a khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì khiếu kiện không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
“a) Quyết định hành chính, hành vi
hành chính thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật. ”
Do vậy, Tòa án cần phải xem xét đánh
giá tài liệu chứng cứ để xác định việc thu hồi đất của dự
án đó có thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng hay không. Nếu không thuộc lĩnh vực trên thì vẫn thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án.
4. Khoản 2 Điều
149 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được
đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản
án, quyết định giải quyết vụ, việc”. Vậy Tòa án có áp dụng quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015 khi giải quyết các vụ án hành chính hay không?
Khoản 2 Điều 184 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“2. Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một
bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp
sơ thẩm ra bản án, quyết
định giải quyết vụ việc.
Người được hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu có quyền từ
chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện
nghĩa vụ”.
Điểm e khoản 1 Điều
217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây: ...
e) Đương sự có yêu cầu áp dụng thời
hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết”.
Điểm g khoản 1 Điều
143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định:
“1.
Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong các trường hợp sau đây:...
g) Thời hiệu khởi kiện đã hết ”.
Như vậy, theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 khi
thời hiệu khởi kiện đã hết thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án hành chính mà không đưa ra điều kiện đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Do đó, trong tố tụng hành chính Tòa
án không áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 149 của Bộ luật Dân
sự năm 2015 để xác định có áp dụng thời hiệu hay không.
5. Người chồng sử dụng xe ô tô khách của gia đình vận chuyển bao thuốc lá điếu nhập lậu, bị xử lý vi phạm hành chính và tịch thu toàn bộ chiếc xe;
người chồng trình bày vận chuyển số hàng trên là để kiếm thu nhập cho gia đình. Người
vợ (có đăng ký kết hôn) có yêu cầu được nhận 1/2 giá trị của chiếc xe, yêu cầu này có được chấp nhận hay không?
Điều 26 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2020 quy định: “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc
sung vào ngân sách nhà nước vật, tiền, hàng
hóa, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính, được áp dụng đối
với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của
cá nhân, tổ chức ”.
Điểm c khoản 11 Điều
8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính
phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng quy định:
“Tịch thu phương tiện vận tải được
sử dụng để vận chuyển hàng cấm đối với hành vi vi
phạm quy định tại Điều này trong trường hợp hàng cấm
có số lượng, khối lượng, trị giá hoặc số thu lợi bất chính được quy định tại
khoản 6, 7 và 8 Điều này hoặc trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm”
Khoản 2 Điều 27 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng
chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”.
Khoản 2 Điều 37 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Nghĩa vụ
do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”.
Khoản 1 Điều 13 Nghị
định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 quy định: “... Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập,
thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 35 của Luật Hôn nhân và gia đình”.
Theo các quy định nêu trên, nếu người
chồng dùng xe ô tô vận chuyển số lượng
bao thuốc lá nhập lậu tới mức phải bị tịch thu phương tiện vận chuyển theo quy định của pháp luật và nguồn lợi thu được là để đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của gia đình thì người vợ không được quyền đòi lại 1/2 giá trị của chiếc xe ôtô.
6. Luật Tố tụng hành chính
không quy định về thời hạn có hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Vậy, khi nào thì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hết
hiệu lực thi hành?
Khoản 1 Điều 75 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 quy định: “Quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay”.
Khoản 1, 2 Điều 74 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về các trường hợp
thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Như vậy, quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời chỉ hết hiệu lực khi có quyết định thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Luật Tố tụng hành chính năm 2015 chưa
có quy định cụ thể về trường hợp đã có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật thì việc giải quyết yêu cầu hủy quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời được thực hiện như thế nào; cho nên, trong trường hợp này có thể tham khảo quy định tại khoản 3 Điều
138 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐTP ngày 24/9/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm
thời của Bộ luật Tố tụng dân sự, cụ thể là sẽ do một Thẩm
phán được Chánh án của Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời phân công giải quyết.
7. Người được thi hành án gửi đơn yêu cầu thi hành án nhưng hết thời hạn yêu cầu
ra quyết định buộc thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều
312 Luật tố tụng hành chính năm 2015. Trường hợp này Tòa án có quyền trả lại
đơn yêu cầu thi hành án hay không?
Khoản 1 Điều 312 Luật
Tố tụng hành chính năm 2015 thì: “Trong thời
hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hạn quy định tại điểm b khoản
2 Điều 311 của Luật này mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì
người được thi hành án có quyền gửi đơn kèm theo bản sao bản án, quyết định của
Tòa án, tài liệu khác có liên quan đề nghị Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định
buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Trường hợp người yêu cầu thi hành
án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà
không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời
gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn
yêu cầu thi hành án”.
Trường hợp người được thi hành án gửi đơn yêu cầu thi hành án sau thời hạn 01 năm thì Tòa án yêu cầu họ phải
chứng minh do trở ngại khách quan (theo Khoản 13 Điều 3 Luật Tố
tụng hành chính năm 2015) hoặc sự kiện bất khả kháng (theo Khoản
14 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015) dẫn đến việc nộp đơn yêu cầu
thi hành án chậm hơn thời hạn luật định. Nếu họ chứng minh
được việc đề nghị thi hành án quá hạn là do trở ngại khách
quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì thời gian có trở ngại
khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn yêu cầu thi hành
án.
Trường hợp họ không chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì Tòa án trả lại đơn
yêu cầu.
VI. HÒA GIẢI, ĐỐI
THOẠI TẠI TÒA ÁN
1. Trong vụ việc
hôn nhân và gia đình các bên có yêu cầu hòa giải về quan
hệ hôn nhân (hai hên không có con chung và không có tài sản chung). Hòa giải
viên đã hòa giải thành (hai hên thuận tình
ly hôn). Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành được lập theo quy định của pháp luật. Nhưng các bên
không đề nghị Tòa án ra Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn. Vậy Biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành có giá trị pháp lý không? Có được coi là hai hên đã ly hôn và chấm
dứt quan hệ hôn nhân không?
Theo quy định tại khoản
14 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì: “14. Ly hôn là việc chấm
dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
”
Khoản 1 Điều 57 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1.
Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết
định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật ”.
Khoản 1 Điều 32 Luật
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định:
“1. Sau khi lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả đối
thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra quyết định
công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có
yêu cầu”.
Theo quy định tại khoản
1 Điều 35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì “Quyết định công nhận
kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có
hiệu lực pháp luật”.
Theo các quy định trên đây thì biên bản
ghi nhận kết quả hòa giải thành (thuận tình ly hôn) có giá
trị pháp lý là cơ sở để Tòa án có thẩm quyền xem xét, ra
quyết định thuận tình ly hôn (công nhận kết quả hòa giải thành). Trường hợp
này, Hòa giải viên cần giải thích và hướng dẫn các bên yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn. Quan hệ hôn nhân chấm
dứt kể từ ngày quyết định thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật. Nếu các bên
không yêu cầu Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly
hôn thì về pháp lý, quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt.
2. Điều 35 Luật
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định: “Quyết định công nhận kết quả hòa
giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật và không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng
hành chính”. Điều 36 của Luật này quy định: “Quyết công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại theo đề nghị của các
bên, người đại diện hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến Quyết định của Tòa án, kiến nghị của Viện kiểm sát nếu có căn cứ cho rằng nội dung
thỏa thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều kiện quy định tại Điều 33 của Luật này. Thời
hạn để các bên đề nghị và Viện kiểm sát kiến nghị
là 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định”. Theo quy định này thì Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ký không? Hay sau thời gian quy định tại Điều 36
của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án mới
có hiệu lực pháp luật?
Theo quy định tại Điều
35 Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án thì quyết định
công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày ký. Đây cũng là đặc điểm đặc thù của hòa giải, đối thoại
với kết quả giải quyết tranh chấp, khiếu kiện là do sự thỏa thuận, thống nhất
giữa các bên tranh chấp, khiếu kiện. Quyết định công nhận kết quả hòa giải
thành, đối thoại thành có thể bị xem xét lại nếu có căn cứ cho rằng nội dung thỏa
thuận, thống nhất của các bên vi phạm một trong các điều
kiện công nhận quy định tại Điều 33 của Luật này.
3. Theo quy định của Luật Hòa
giải, đối thoại tại Tòa án thì “Sau khi lập
biên bản ghi nhận kết quả hòa giải, biên bản ghi nhận kết quả
đối thoại, Hòa giải viên chuyển biên bản cùng tài liệu
kèm theo cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết
vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính để ra
quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong trường hợp các bên có yêu cầu”. Như vậy, người yêu cầu
công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành có phải
thực hiện nghĩa
vụ nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án hay không?
Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành không quy định về nghĩa vụ
nộp lệ phí đối với người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại
thành. Do đó, người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án không phải nộp lệ phí đối với thủ tục xét công
nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Nơi nhận:
- Như
kính gửi;
- Chánh án TANDTC (để b/c);
- Các Phó Chánh án TANDTC;
- Các Thẩm phán TANDTC;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam;
- Văn phòng
Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
- Bộ Công an;
- Bộ Quốc phòng;
- Bộ Tư pháp;
- Cổng TTĐT TANDTC (để
đăng tải);
- Lưu: VT (VP, Vụ PC&QLKH).
|
KT.
CHÁNH ÁN
PHÓ CHÁNH ÁN
Nguyễn Văn Tiến
|
[1]
Áp dụng tương tự Án lệ số 11/2017/AL về công nhận hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất mà trên đất có
tài sản không
thuộc sở hữu của bên thế chấp.
[2] “Điều 104.
Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
…
3. Tòa án ra quyết định định giá tài sản và thành lập Hội đồng định giá khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
…
b) Các đương sự không thỏa thuận lựa
chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đưa ra giá tài sản
khác nhau hoặc không thỏa thuận được giá tài sản;
…”