CHÍNH PHỦ
---------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 35/NQ-CP
|
Hà Nội, ngày 04
tháng 06 năm 2019
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC CỦA XÃ HỘI ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO GIAI ĐOẠN 2019 - 2025
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức
Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Hội nghị
lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế;
Trên cơ sở xem xét, đánh giá kết quả thực hiện
các chính sách, chỉ đạo của Chính phủ về xã hội hóa các hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, đào tạo và dạy nghề (Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP
ngày 18 tháng 4 năm 2005, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP
ngày 30 tháng 5 năm 2008, Nghị quyết số 40/NQ-CP
ngày 09 tháng 8 năm 2012);
Căn cứ Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2018 ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập;
Căn cứ ý kiến của các Thành viên Chính phủ,
QUYẾT NGHỊ:
Sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương của Đảng và các
chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và đào tạo, công tác
huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước thông qua đóng góp, đầu tư của
các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng và đông đảo nhân dân (gọi chung
là các nguồn lực của xã hội) cho phát triển giáo dục đào tạo đã đạt được những
kết quả nhất định, thu hút đáng kể nguồn lực đầu tư cho phát triển giáo dục và
đào tạo, nhất là phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập. Đến nay, ở các địa
phương đều có loại hình giáo dục đào tạo ngoài công lập với 2.955 cơ sở (chiếm
6,68% trong tổng số 44.228 cơ sở giáo dục đào tạo của cả nước); 1,35 triệu học
sinh, sinh viên (chiếm 6% trong tổng số 22,5 triệu học sinh, sinh viên cả nước);
tạo ra gần 100 nghìn việc làm cho nhà giáo, người lao động.
Đối với giáo dục đại học, hiện có 65 cơ sở giáo dục
đại học ngoài công lập với tổng số 244 nghìn sinh viên, chiếm 13,8% tổng số
sinh viên cả nước; đã có 5 cơ sở giáo dục đại học nước ngoài hoạt động tại Việt
Nam, đào tạo trên 5 nghìn sinh viên mỗi năm. Các cơ sở giáo dục đại học Việt
Nam thực hiện trên 500 chương trình hợp tác và liên kết đào tạo với hơn 200 cơ
sở giáo dục đại học nước ngoài.
Đối với giáo dục nghề nghiệp, đến hết năm 2018, cả
nước có 1.948 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (gồm: 397 trường cao đẳng, 519 trường
trung cấp, 1.032 trung tâm giáo dục nghề nghiệp), trong đó có 677 cơ sở giáo dục
nghề nghiệp tư thục và cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm
34,7%)
Sự phát triển của các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài
công lập từ nguồn lực của xã hội đã góp phần thúc đẩy việc áp dụng những cách
tiếp cận giáo dục tiên tiến của thế giới, nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng
được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc huy
động các nguồn lực của xã hội cho giáo dục và đào tạo trong thực tiễn thời gian
qua vẫn còn khiêm tốn, hạn chế:
- Tổng các nguồn lực của xã hội thu hút vào khối
ngoài công lập còn rất thấp so với tiềm năng. Hiện mới có trên 3.200 dự án đầu
tư theo định hướng xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với số vốn
đăng ký trên 53.000 tỷ đồng. Các nguồn lực của xã hội huy động chủ yếu từ các
cá nhân thông qua học phí và đóng góp thiện nguyện, chưa huy động được sự tham
gia rộng rãi, đóng góp tích cực của các tổ chức, doanh nghiệp và đội ngũ trí thức
Việt kiều.
- Việc thu hút các nguồn lực của xã hội vào các cơ
sở giáo dục và đào tạo công lập tiến triển chậm. Mặc dù đã có nhiều chủ trương,
chính sách theo hướng tăng cường tự chủ và trách nhiệm giải trình (nhất là về
tài chính) của các cơ sở công lập; tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục thông
qua các chính sách ưu đãi về thuế, đất đai, tín dụng... nhưng việc thực hiện cơ
chế tự chủ mới bước đầu triển khai ở lĩnh vực giáo dục đại học; hoạt động đầu
tư, hợp tác của khối tư nhân với các cơ sở giáo dục công lập thông qua các hình
thức liên kết, hợp tác kinh doanh, đối tác công - tư... còn đơn lẻ, không tạo sự
đột phá trong toàn hệ thống.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại nói
trên trước hết thuộc về nhận thức của các cấp quản lý, của người học và xã hội.
Còn phổ biến tâm lý coi trọng, tin tưởng trường công hơn trường tư; tâm lý
trông chờ, ỷ lại vào ngân sách nhà nước cấp vẫn còn phổ biến; việc triển khai,
thực hiện chủ trương xã hội hóa của các cấp chính quyền, các ngành chưa quyết
liệt, thường xuyên và bài bản, trong đó vấn đề quy hoạch phát triển chung của hệ
thống giáo dục (bao gồm cả công lập và ngoài công lập) chưa bảo đảm nguyên tắc
cân đối cung cầu trong dài hạn; công tác phổ biến, tuyên truyền, hướng dẫn chưa
được chú trọng đúng mức.
Các văn bản thể hiện chủ trương xuyên suốt của Đảng
và Chính phủ về huy động các nguồn lực của xã hội đã được ban hành tương đối đầy
đủ với quan điểm, tầm nhìn và định hướng đổi mới trong dài hạn. Tuy nhiên, điểm
nghẽn chính là khâu triển khai thực hiện các chính sách đã ban hành. Chính phủ
thống nhất việc phải có ngay giải pháp khắc phục căn bản những hạn chế, yếu kém
trong thời gian qua, đặc biệt ở khâu triển khai, thực thi các chủ trương, chính
sách, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác huy động các nguồn lực của xã
hội cho giáo dục và đào tạo.
I. QUAN ĐIỂM
1. Các nguồn lực xã hội là rất quan trọng, cần được
thu hút để chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng chi phí toàn xã hội đầu tư
cho phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng. Chính phủ khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các
nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo ở tất cả
các cấp học, trình độ đào tạo.
2. Việc huy động các nguồn lực của xã hội cho giáo
dục và đào tạo không để thay thế mà là nguồn bổ sung quan trọng cho ngân sách
nhà nước, góp phần làm tăng tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo, nâng
cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước tại các cơ sở công lập, tập trung đầu
tư vào những lĩnh vực, địa bàn và đối tượng mà tư nhân không muốn hoặc không có
khả năng đầu tư; khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập hợp tác,
liên doanh, liên kết với các cơ sở ngoài công lập; chuyển đổi một số đơn vị sự
nghiệp công lập sang ngoài công lập ở những nơi có điều kiện phù hợp.
3. Xã hội hóa giáo dục và đào tạo cần được coi là một
chỉ tiêu trong định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tùy thuộc
điều kiện, hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể trong từng thời kỳ, cơ quan quản
lý giáo dục của địa phương tham mưu xác định các chỉ tiêu xã hội hóa cần đạt được
cho địa phương mình, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các cơ sở giáo dục công
lập và ngoài công lập.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu chung:
Tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội, tạo
bước chuyển biến rõ rệt, thực chất trong thu hút, sử dụng và quản lý các nguồn
lực của các cá nhân, tổ chức ở trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển giáo dục
và đào tạo, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của
cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế.
2. Mục tiêu cụ thể:
Đẩy mạnh huy động các nguồn lực của xã hội, thúc đẩy
sự phát triển của các cơ sở giáo dục ngoài công lập đạt tỷ lệ 8,75% số cơ sở và
8,9% người học vào năm 2020 và lần lượt là 13,5% và 16% vào năm 2025. Cụ thể:
- Đối với giáo dục mầm non, đặc biệt là ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất, những khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh hoặc có số
trẻ em trong độ tuổi đi học mầm non, mẫu giáo tăng nhanh do di dân cơ học, phấn
đấu đến năm 2020, số cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập đạt tỷ lệ ít nhất là
20%, tương ứng với số trẻ em theo học đạt khoảng 25%; đến năm 2025, số cơ sở
giáo dục mầm non ngoài công lập đạt 25% với số trẻ em theo học đạt 30%.
- Đối với giáo dục phổ thông, phấn đấu đến năm
2020, tỷ lệ cơ sở và số học sinh theo học tại các trường phổ thông ngoài công lập
đạt lần lượt là 2,3% và 2,6%; đến năm 2025, tỷ lệ cơ sở và số học sinh theo học
tại các cơ sở ngoài công lập là 2,7% và 3%.
- Đối với giáo dục đại học, phấn đấu đến năm 2020,
số cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập đạt 28% và số sinh viên theo học đạt
18%; đến năm 2025, đạt tỷ lệ tương ứng là 30% và 22,5%.
- Đối với giáo dục nghề nghiệp, phấn đấu đến năm
2020, số cơ sở giáo dục nghề nghiệp ngoài công lập đạt 35%; đến năm 2025, đạt tỷ
lệ 40%.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VÀ PHÂN
CÔNG NHIỆM VỤ
1. Giải pháp thực hiện
a) Hoàn thiện thể chế:
- Rà soát hệ thống các văn bản, chính sách về xã hội
hóa đã ban hành, hệ thống hóa các quy định về huy động các nguồn lực xã hội cho
giáo dục theo từng lĩnh vực và nhóm vấn đề cụ thể, phát hiện những quy định còn
chồng chéo, mâu thuẫn và còn thiếu, đề xuất hướng chỉnh sửa, bổ sung, thay thế
hoặc bãi bỏ cho phù hợp; kịp thời cập nhật những chủ trương, định hướng mới về
xã hội hóa và có liên quan;
- Hoàn thiện khung khổ pháp lý về địa vị pháp lý,
quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức đầu tư cho giáo dục và
các cơ sở giáo dục ngoài công lập; về sử dụng các nguồn kinh phí ngoài ngân
sách nhà nước;
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp
phát ngân sách nhà nước theo hướng Nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ sự
nghiệp công cơ bản thiết yếu (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông); chuyển từ
hỗ trợ cho các cơ sở giáo dục sang hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính
sách, chuyển từ hỗ trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt
hàng;
- Xây dựng, ban hành chính sách về quyền lợi của đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được tuyển dụng, làm việc tại các cơ sở
giáo dục ngoài công lập (bao gồm cả các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ngoài công lập),
bảo đảm ít nhất ngang bằng với quyền lợi của đội ngũ nhà giáo làm việc tại các
cơ sở giáo dục công lập.
b) Cải thiện môi trường đầu tư:
- Rà soát các điều kiện đầu tư, các chính sách thuế,
chính sách đất đai trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, cắt giảm các thủ tục không cần thiết, đơn giản hóa quy trình thủ tục
cho nhà đầu tư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm bảo đảm thông tin
thông suốt, minh bạch; giải quyết kịp thời những thắc mắc của nhà đầu tư trong
quá trình thành lập, hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài công lập.
- Bảo đảm đối xử bình đẳng và tạo môi trường cạnh
tranh công bằng, minh bạch; không phân biệt cơ sở giáo dục công lập và cơ sở
giáo dục ngoài công lập, người học đều được tiếp cận cơ hội giáo dục và hưởng lợi
từ các chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước; Đối với vốn viện trợ
ODA: Các cơ sở giáo dục ngoài công lập được tiếp cận, thụ hưởng vốn viện trợ
ODA theo quy định của pháp luật liên quan; Đối với vốn vay nước ngoài (vay ODA,
vay ưu đãi): các cơ sở giáo dục ngoài công lập không thuộc đối tượng được cấp
phát từ nguồn vốn vay; Đối với vốn vay tín dụng trong nước: các cơ sở giáo dục
ngoài công lập được tiếp cận, thụ hưởng nguồn vốn tín dụng trong nước ưu đãi (nếu
có);
- Tạo điều kiện thuận lợi về thị thực, giấy phép
lao động để khuyến khích các nhà trí thức, doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam và
nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ
và tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo.
c) Đẩy mạnh giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục
công lập:
Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công cả về tổ chức
- nhân sự, tài chính - tài sản, phân phối thu nhập, hợp tác, liên doanh, liên kết...
theo tinh thần của Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 16/2015/NĐ-CP
ngày 14 tháng 02 năm 2015 của Chính phủ về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp
công lập và các văn bản pháp luật liên quan nhằm thu hút sự đóng góp, tài trợ của
các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước dưới các hình thức khác
nhau, giúp chia sẻ trách nhiệm cung cấp dịch vụ công của nhà nước trong lĩnh vực
giáo dục, tạo nguồn lực bổ sung để đầu tư, đổi mới cơ sở vật chất, trang thiết
bị, công nghệ dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục tiệm cận trình độ những nền
giáo dục tiên tiến của khu vực và quốc tế. Trong đó, chú trọng các giải pháp
sau:
- Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công trong
lĩnh vực giáo dục theo cơ chế thị trường, trong đó xác định rõ các đơn vị cung
cấp dịch vụ sự nghiệp công trong lĩnh vực giáo dục không sử dụng ngân sách nhà
nước, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp
lý, có tích lũy để thu hút nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước
tham gia cung ứng dịch vụ;
- Đổi mới cơ cấu sử dụng nguồn ngân sách nhà nước
theo hướng tăng đầu tư để bảo đảm cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục, tăng cường
quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục để từng bước tăng
nguồn thu đảm bảo chi thường xuyên. Thúc đẩy áp dụng cơ chế tự chủ của các cơ sở
giáo dục công lập, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Khuyến khích các cơ sở giáo dục công lập tự chủ tài chính;
- Từng bước thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác
công - tư (PPP) trong giáo dục, trước mắt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng
giáo dục.
d) Tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng và
kiểm định chất lượng giáo dục:
- Rà soát, bổ sung, ban hành các quy định về bảo đảm
và kiểm định chất lượng giáo dục, trong đó có cơ chế, chính sách bắt buộc các
cơ sở đào tạo thực hiện công tác kiểm định chất lượng giáo dục và kiểm định các
chương trình đào tạo của đơn vị mình;
- Thực hiện công tác kiểm định chất lượng giáo dục ở
tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, đặc biệt đối với lĩnh vực giáo dục đại
học và giáo dục nghề nghiệp, công khai các điều kiện bảo đảm chất lượng và kết
quả kiểm định chất lượng giáo dục của các cơ sở giáo dục;
- Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, kiểm tra định
kỳ, kiểm tra chuyên đề xã hội hóa đối với các cơ sở giáo dục công lập cũng như
ngoài công lập nhằm sớm phát hiện các bất cập, khó khăn, vướng mắc để kịp thời
có biện pháp hỗ trợ, hướng dẫn hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền tháo gỡ, xử
lý; có chế tài với các cơ sở giáo dục không tuân thủ theo quy định.
đ) Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, truyền thông
- Tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương, chính
sách về xã hội hóa để tất cả các đối tượng liên quan (các cơ quan quản lý, nhà
đầu tư, đơn vị công lập, ngoài công lập và toàn xã hội) nhận thức đúng đắn, đầy
đủ và thực hiện có hiệu quả chủ trương huy động các nguồn lực của xã hội cho
giáo dục, khắc phục và tiến tới xóa bỏ những định kiến, phân biệt đối xử giữa
khối công lập và khối ngoài công lập;
- Phổ biến, tuyên truyền và tập huấn cho các nhà đầu
tư, người quản lý các cơ sở giáo dục ngoài công lập về các chính sách của nhà
nước, quyền và nghĩa vụ của người tham gia tài trợ, đầu tư cho các cơ sở giáo dục;
- Đẩy mạnh xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước; lồng
ghép các nội dung tuyên truyền, động viên, khuyến khích người nước ngoài, người
Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, đóng góp cho giáo dục trong các chương trình, hội
nghị, sự kiện, hoạt động đối ngoại chính thức và ngoại giao nhân dân;
- Chú trọng thực hiện các hình thức ghi nhận, tôn
vinh những cá nhân, tổ chức có đóng góp, tài trợ cho giáo dục, tuyên dương và
phát động nhân rộng những gương điển hình đóng góp cho sự nghiệp giáo dục;
- Tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp lý và chuyên
môn, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan quản lý và cơ
sở giáo dục trong việc thu hút và quản lý các nguồn lực huy động.
2. Phân công nhiệm vụ
a) Bộ Giáo dục và Đào tạo:
- Thường xuyên rà soát các điều kiện đầu tư và hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo để cắt giảm các điều kiện không cần thiết,
đơn giản hóa thủ tục hành chính;
- Chủ trì nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ ban
hành tiêu chí xác định và cơ chế, chính sách áp dụng đối với các cơ sở giáo dục
ngoài công lập vì lợi nhuận và không vì lợi nhuận;
- Hướng dẫn các địa phương chú trọng phát triển các
cơ sở giáo dục ngoài công lập trong quy hoạch mạng lưới và các chiến lược, kế
hoạch phát triển giáo dục trên địa bàn;
- Ban hành quy định cho phép các cơ sở giáo dục
ngoài công lập chủ động thực hiện chương trình dạy - học trên cơ sở bảo đảm các
yêu cầu về thời lượng và chuẩn đầu ra do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và các
cam kết đã công bố; thực hiện kiểm tra, đánh giá và kiểm định dựa trên kết quả
đầu ra; được tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý;
được hỗ trợ trang thiết bị, đồ dùng dạy học như các cơ sở giáo dục công lập;
- Khuyến khích các trường thu hút chuyên gia trong
và ngoài nước tham gia hợp tác, cộng tác, làm việc tại các cơ sở giáo dục công
lập và ngoài công lập;
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 63/2018/NĐ-CP
ngày 04 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công -
tư trong lĩnh vực giáo dục; đề xuất việc chuyển đổi một số cơ sở giáo dục công
lập sang ngoài công lập ở những nơi có điều kiện phù hợp;
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo rà soát các
điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo;
- Chủ trì thẩm định nguồn vốn, khả năng cân đối vốn
đối với phần vốn đầu tư công tham gia thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức
đối tác công - tư trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo; tổng hợp kế hoạch đầu tư
công để thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công - tư trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm.
c) Bộ Tài chính:
- Rà soát, đề xuất sửa đổi các quy định về thuế nhằm
khuyến khích các cơ sở giáo dục và đào tạo tự chủ tài chính và có tích lũy cho
đầu tư;
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản hiện hành về sử dụng các nguồn kinh phí
ngoài ngân sách nhà nước, đặc biệt là về nguồn vốn tài trợ, viện trợ, đóng góp
thiện nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;
- Rà soát, hoàn thiện chính sách xã hội hóa đối với
các cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông ở các địa bàn có khả năng xã hội hóa
cao;
- Rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách khuyến
khích ưu đãi tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế
thị trường và thúc đẩy xã hội hóa trong việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp
công.
d) Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
- Xây dựng, trình Chính phủ Nghị định quy định
chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp;
- Hướng dẫn các địa phương chú trọng phát triển cơ
sở giáo dục nghề nghiệp ngoài công lập trong quy hoạch mạng lưới giáo dục nghề
nghiệp và chiến lược, kế hoạch phát triển giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn
- Chủ trì xây dựng chính sách về trách nhiệm của
các doanh nghiệp trong đầu tư phát triển đào tạo nhân lực giáo dục nghề nghiệp,
đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, nhân lực ngành nghề mũi nhọn; trách nhiệm
của các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, cộng đồng và gia đình trong việc
đóng góp nguồn lực và tham gia các hoạt động giáo dục nghề nghiệp;
- Thường xuyên rà soát các điều kiện đầu tư và hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp để điều chỉnh, cắt giảm các điều kiện
không cần thiết; Nghiên cứu đơn giản hóa quy trình, thủ tục cấp, gia hạn giấy
phép lao động cho người nước ngoài tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học tại
Việt Nam;
- Tổ chức đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp
dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định cho các cơ sở sự
nghiệp giáo dục nghề nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu;
- Xây dựng, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật
trong đào tạo để làm cơ sở xác định giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân
sách nhà nước trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
- Thực hiện thanh tra, kiểm tra giám sát, hướng dẫn
về xã hội hóa đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
đ) Bộ Tài nguyên và Môi trường:
- Tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính
sách khuyến khích ưu đãi về đất đai tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công theo cơ chế thị trường và thúc đẩy xã hội hóa trong việc cung cấp
các dịch vụ sự nghiệp công;
- Ban hành hướng dẫn cụ thể để các địa phương ưu
tiên bố trí quỹ đất dành cho giáo dục trong quy hoạch đất đai của địa phương;
nghiên cứu đơn giản hóa quy trình, thủ tục giao đất, cho thuê đất phục vụ cho
phát triển giáo dục ngoài công lập.
e) Bộ Ngoại giao:
- Tăng cường hoạt động thông tin đối ngoại, hỗ trợ
xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực giáo dục;
- Động viên, khuyến khích và đề xuất chính sách tạo
điều kiện cho người nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư, hỗ trợ phát
triển giáo dục trong nước.
g) Bộ Thông tin và Truyền thông:
- Phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo trong công
tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi tầng lớp xã hội về các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về huy động các nguồn lực của xã hội cho giáo dục,
về quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia tài trợ, đầu tư
cho giáo dục; chú trọng phát hiện, tôn vinh và nhân rộng những gương điển hình
về tài trợ, đóng góp cho giáo dục;
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức
cho mọi tầng lớp trong xã hội về quyền bình đẳng và công bằng trong việc tiếp cận
cơ hội giáo dục và hưởng lợi từ các chính sách phát triển giáo dục giữa các cơ
sở giáo dục công lập và các cơ sở giáo dục ngoài công lập, giữa người theo học
tại cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục ngoài công lập.
h) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương
- Xây dựng kế hoạch, lộ trình để thu hút các nguồn
lực xã hội cho phát triển giáo dục tại địa phương; ưu tiên lồng ghép các vấn đề
xã hội hóa, phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập trong các chương
trình, kế hoạch phát triển phù hợp điều kiện, mức độ phát triển kinh tế - xã hội
và khả năng chi trả của người dân tại địa phương;
- Thực hiện và rà soát quy hoạch mạng lưới các cơ sở
giáo dục theo hướng: không tiếp tục phát triển mở rộng các cơ sở giáo dục công
lập mà cần đầu tư có trọng điểm, dành ngân sách nhà nước cho các khu vực có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc một số cơ sở giáo dục trọng điểm; tạo điều
kiện chuyển đổi mô hình các cơ sở giáo dục mầm non, trung học phổ thông từ công
lập ra ngoài công lập ở những nơi có khả năng xã hội hoá cao; đẩy mạnh tự chủ
tài chính của các cơ sở giáo dục công lập với lộ trình phù hợp cho từng cấp học;
chủ động phân luồng và định hướng cho phụ huynh và người học lựa chọn các mô
hình trường không phân biệt công lập hay ngoài công lập;
- Thực hiện việc bố trí quỹ đất dành cho giáo dục,
chú trọng bảo đảm giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng
cho chủ đầu tư; thực hiện bồi hoàn thỏa đáng cho những nhà đầu tư đã ứng trước
kinh phí bồi thường, hỗ trợ tái định cư dự án xã hội hóa theo phương án được cấp
có thẩm quyền phê duyệt; kịp thời xác nhận ưu đãi thuế (kể cả trong và sau thời
gian xây dựng); xử lý nhanh chóng, kịp thời các kiến nghị của nhà đầu tư;
- Có giải pháp cụ thể hỗ trợ lãi suất tín dụng, hỗ
trợ vốn đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, hỗ trợ tài chính, tổ chức
bồi dưỡng quản lý, chuyên môn cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục cho các cơ
sở giáo dục ngoài công lập (đặc biệt là các cơ sở giáo dục mầm non tại các địa
phương đông dân, khu công nghiệp, khu chế xuất) từ nguồn ngân sách địa phương,
phù hợp với khả năng huy động của ngân sách và điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương;
- Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan quản lý nhà nước tại địa phương đối với công tác xã hội hóa trong lĩnh vực
giáo dục;
- Tăng cường kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục
ngoài công lập trên địa bàn, trong đó đặc biệt chú trọng các yêu cầu về công
khai mức học phí, công khai tài chính và cam kết chất lượng.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương theo chức năng, thẩm quyền và nhiệm vụ được giao, chỉ đạo triển khai
thực hiện Nghị quyết này; định kỳ hàng năm gửi báo cáo kết quả thực hiện về Bộ
Giáo dục và Đào tạo trước ngày 10 tháng 12 để tổng hợp, báo cáo Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì theo dõi, kiểm
tra, đánh giá việc triển khai thực hiện Nghị quyết này, tổng hợp báo cáo công
tác huy động các nguồn lực của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư cho
giáo dục và đào tạo, gửi Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
3. Các cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập có
trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương, chính sách, quy định của nhà
nước, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học,
tuân thủ các mục tiêu hoạt động đã nêu trong đề án thành lập và quy chế tổ chức,
hoạt động của cơ sở mình./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán nhà nước;
- Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan trung ương của các đoàn thể;
- VPCP, BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ, Cục, đơn vị trực
thuộc, Công báo;
- Lưu: VT, KGVX (2b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Xuân Phúc
|