NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------
|
Số:
78/BC-NHNN
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 05 năm 2008
|
BÁO CÁO
GIẢI TRÌNH CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI (TẠI
KỲ HỌP THỨ 3, QUỐC HỘI KHOÁ XII)
Kính gửi: Các vị Đại biểu Quốc hội.
Tại Kỳ họp này Ngân
hàng Nhà nước đã nhận được chất vấn của 9 Đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn Đại biểu
Quốc hội các tỉnh, thành phố: Hải Dương, Kiên Giang, Bình Dương, Bến Tre, Đồng
Tháp, Hà Nội, Nghệ An, Gia Lai, Yên Bái và một số ý kiến của bà con cử tri cả
nước do Ban Dân nguyện Quốc hội tổng hợp. Nội dung chất vấn của các vị Đại biểu
tập trung vào vấn đề điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng, ngoại tệ, lãi suất
và việc cấp giấy phép thành lập tổ chức tín dụng của Ngân hàng Nhà nước. Ngân
hàng Nhà nước đã có văn bản giải trình gửi Đại biểu chất vấn và Đoàn Đại biểu
Quốc hội có Đại biểu chất vấn. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của các vị Đại
biểu Quốc hội đối với hoạt động ngân hàng.
Thực hiện sự phân
công của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xin báo cáo Quốc hội
một số vấn đề Đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước quan tâm như sau:
1.
Về điều hành chính sách tiền tệ:
Trong bối cảnh nền
kinh tế của Việt Nam nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng phát triển thuận
lợi, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng để góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ năm 2004. Riêng năm 2007, kinh tế thế giới và
trong nước có những biến động phức tạp, khó lường, từ giữa năm 2007, Ngân hàng
Nhà nước đã điều chỉnh chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt nhằm kiểm soát mức
tăng tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng tín dụng, cụ thể: (i) Tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc gấp 2 lần kể từ ngày 28/5/2007; (ii) ban hành Chỉ thị số
03/2007/CT-NHNN ngày 28/5/2007 về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho
vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị số 18/2007/CT-TTg ngày 1/8/2007 về một số biện pháp cấp bách kiềm
chế tốc độ tăng giá thị trường và Chỉ thị số 23/2007/CT-TTg ngày 31/10/2007 về
tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bình ổn thị trường trong
những tháng cuối năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường bán tín phiếu để
thu tiền từ lưu thông về và ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007
về đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. Tuy vậy,
công tác thống kê, dự báo và thanh tra, giám sát ngân hàng còn hạn chế cho nên
những điều chỉnh trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước chưa
theo kịp với diễn biến của nền kinh tế và đạt hiệu quả chưa cao.
2.
Giải pháp để ổn định hoạt động tiền tệ, tín dụng và góp phần kiềm chế lạm phát,
ổn định kinh tế vĩ mô:
Thực hiện chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15/1/2008 về các biện pháp
kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng giá năm 2008, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
các giải pháp: Nới lỏng biên độ điều hành tỷ giá; chủ động thu hút tiền từ lưu
thông về để sử dụng mua ngoại tệ thông qua tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát
hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và từ ngày 19/5/2008, thay đổi cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản cho phù hợp với Luật Ngân hàng Nhà nước, Bộ Luật dân sự và
đáp ứng tính thị trường; kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng thương mại cổ phần vừa
được tái cơ cấu và chuyển đổi từ ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn lên đô
thị, chỉ đạo các ngân hàng thương mại tập trung đầu tư tín dụng vào lĩnh vực sản
xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhất là sản xuất nông nghiệp nông thôn, cho vay
xuất khẩu, cho vay hộ nghèo, cho vay sinh viên và các đối chính sách khác để
góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Những biện pháp này
bước đầu đã đưa các chỉ tiêu tiền tệ biến động theo hướng góp phần kiềm chế lạm
phát: (i) Tổng phương tiện thanh toán đến tháng 5/2008 tăng 3,73% so với cuối
năm 2007, thấp hơn so với mức tăng 17,57% của cùng kỳ năm trước; (ii) Tốc độ
tăng dư nợ tín dụng tăng 18,42%, tuy vẫn còn ở mức cao so với tốc độ tăng
13,36% của cùng kỳ năm trước, nhưng có xu hướng giảm dần (tốc độ tăng dư nợ tín
dụng của tháng 1/2008 là 6,3%, tháng 2/2008 là 2,35%, tháng 3/2008 là 3,78%,
tháng 4/2008 là 3,36% và tháng 5/2008 là 2,25%).
Để tiếp tục góp phần
tích cực thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo
an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, từ nay đến cuối năm 2008, Ngân hàng Nhà
nước tập trung triển khai một số giải pháp sau: (1) Định hướng kiềm chế tốc độ
tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán năm 2008 không vượt quá 30%
so với cuối năm 2007; (2). Điều hành tỷ giá và lãi suất linh hoạt theo nguyên tắc
thị trường, phù hợp với quan hệ cung cầu; (3). Tăng cường giám sát thị trường
tiền tệ, thiết lập hệ thống thông tin nhanh để kịp thời đánh giá đúng diễn biến
thị trường và có biện pháp can thiệp phù hợp. (4). Tăng cường công tác thanh
tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước và chấn chỉnh toàn điện hoạt động quản trị,
điều hành, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, việc chấp hành các quy định về bảo đảm
an toàn hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
3.
Về vấn đề đưa tiền vào lưu thông và hút tiền về từ lưu thông; các công cụ đã sử
dụng để hút tiền về:
Trong năm 2007 lượng
tiền Ngân hàng Nhà nước cung ứng vào lưu thông bằng 82% chỉ tiêu kế hoạch được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Lượng tiền Ngân hàng Nhà nước rút về từ lưu
thông đạt 80% lượng tiền đã cung ứng để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà
nước.
Các biện pháp chủ yếu
Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng để hút tiền về là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, thu hồi các khoản cho vay tái cấp vốn đến
hạn.
4.
Việc thực hiện hàng loạt biện pháp thắt chặt tiền tệ trong một thời gian rất ngắn,
gây "sốc" cho hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần và các
doanh nghiệp xuất khẩu:
Để hạn chế những tác
động không thuận lợi cho thị trường tiền tệ khi chuyển từ điều hành
chính sách tiền tệ nới lỏng sang thắt chặt theo chỉ đạo của Chính phủ, những biện
pháp hút tiền về trong những tháng đầu năm 2008 của Ngân hàng Nhà nước được áp
dụng có chọn lọc tuỳ theo từng loại hình tổ chức tín dụng: tăng 1% tỷ lệ dự trữ
bắt buộc (không áp dụng đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
và các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn) và theo quyết định,
các tổ chức tín dụng có 45 ngày chuẩn bị trước khi thực hiện; phát hành tín phiếu
Ngân hàng Nhà nước bắt buộc chỉ áp dụng đối với 41/88 ngân hàng thương mại có
quy mô vốn huy động bằng VND trên 1.000 tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương), trong đó tỷ trọng mua
của các ngân hàng thương mại nhà nước chiếm 47,5%, 18/41 ngân hàng mua với mức
thấp từ 100 tỷ đến 150 tỷ và các tổ chức tín dụng có 35 ngày chuẩn bị.
Tuy Ngân hàng Nhà nước
đã triển khai chủ trương, giải pháp điều hành tiền tệ theo hướng thắt chặt ngay
từ cuối năm 2007 và tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngân hàng đầu tháng
1/2008, nhưng hầu hết các tổ chức tín dụng chậm điều chỉnh kế hoạch kinh doanh
cho phù hợp, vẫn tăng nhanh dư nợ tín dụng (dư nợ tín dụng tháng 1/2008 tăng tới
6,3% so với tháng trước) nên nhất thời đã gặp khó khăn về thanh khoản. Về chủ
quan, Ngân hàng Nhà nước đã dự báo trước những tác động của các biện pháp hút
tiền về, nhưng chưa lường hết các phản ứng phụ nảy sinh đối với một số ngân
hàng thương mại sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để tăng dư nợ
tín dụng và chưa thực hiện đầy đủ quy định của Ngân hàng Nhà nước về bảo đảm an
toàn.
Việc các doanh nghiệp
xuất khẩu gặp khó khăn trong việc bán ngoại tệ tại một số thời điểm là do lượng
ngoại tệ dư thừa quá lớn, các ngân hàng thương mại đăng ký bán cho Ngân hàng
Nhà nước có ngày lên đến 739 triệu USD, trong khi Ngân hàng Nhà nước chỉ can
thiệp mua ở mức rất thấp do phải giảm lượng tiền cung ứng để kiềm chế lạm phát.
Để kịp thời tháp gỡ
khó khăn cho các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp xuất khẩu, Ngân hàng Nhà
nước đã sử dụng nhiều giải pháp: (i) tăng lượng tiền cho các tổ chức tín dụng
vay ngắn hạn (thời hạn từ 1 -2 tuần) để hỗ trợ vốn thanh khoản; (ii) nới lỏng
biên độ điều hành tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng từ ±0,5%
lên ±1%; (iii) Tiếp tục mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà nước trên cơ sở
lượng tiền rút về từ lưu thông và ưu tiên mua đối với các tổ chức tín dụng đã
mua ngoại tệ của doanh nghiệp xuất khẩu.
5.
Có hay không việc dự trữ ngoại tệ quốc gia tại Bộ Tài chính mà không tập trung
dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước?
Hiện nay, Bộ Tài
chính được Chính phủ giao quản lý một số nguồn ngoại hối thuộc sở hữu Nhà nước,
bao gồm: (1) Quỹ ngoại tệ tập trung được thành lập theo Quyết định
93/2000/QĐ-BTC ngày 06/6/2000 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quỹ này được hình
thành từ các khoản thu bằng ngoại tệ của ngân sách nhà nước (thu từ bán dầu thô
và một số khoản thu quan trọng khác). (2) Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài được
thành lập theo Quyết định số 10/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính để tập trung các khoản thu từ nguồn vốn cho vay, viện trợ nước ngoài, các
khoản thu phí bảo lãnh của Chính phủ để đảm bảo việc hoàn trả nợ nước ngoài.
6.
Việc tổ chức thực hiện chức năng quản lý dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước
như thế nào?
Theo quy định tại Nghị
định số 86/1999/NĐ-CP ngày 30/8/1999 của Chính phủ về quản lý dự trữ ngoại hối
nhà nước, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước nhằm
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm khả năng thanh toán quốc tế, bảo
toàn dự trữ ngoại hối nhà nước.
Dự trữ ngoại hối nhà
nước được chia thành 2 quỹ: (i) Quỹ Dự trữ ngoại hối được sử dụng để đầu tư
trên thị trường quốc tế và đáp ứng cho nhu cầu ngoại hối đột xuất, cấp bách của
Nhà nước theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (ii) Quỹ Bình ổn tỷ giá và
giá vàng được sử dụng để can thiệp thị trường ngoại tệ và thị trường vàng trong
nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Việc tổ chức thực hiện chức
năng quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước của Ngân hàng Nhà nước luôn đảm bảo tuân
thủ đúng các quy định của pháp luật về quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước.
7.
Vấn đề mua hơn 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, cấp quyết định chủ
trương mua đôla? Nguồn tiền mua?
Từ đầu năm 2007, luồng
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng đột biến, Ngân hàng Nhà nước đã mua
hơn 9 tỷ USD tăng dự trữ ngoại hối nhà nước (chủ yếu mua trong 6 tháng đầu năm
2007 với số tiền là 8,1 tỷ USD). Đây là biện pháp cần thiết, vừa để giảm áp lực
dư cung ngoại tệ, hạn chế tình trạng đôla hoá cho nền kinh tế, vừa để tăng dự
trữ ngoại hối nhà nước theo chủ trương của Chính phủ. Để trung hoà lượng tiền
VND đưa ra mua ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng nhiều biện pháp hút tiền
về từ lưu thông như tăng dự trữ bắt buộc lên gấp 2 lần từ ngày 28/5/2007, tăng
khối lượng phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước… Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước
chưa kịp thời dự báo được mức độ tăng của luồng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt
Nam khá lớn để có kế hoạch chủ động điều tiết việc đưa ra mua ngoại tệ và thu hồi
tiền trở lại từ lưu thông.
Về nguồn tiền mua ngoại
tệ, hàng năm, Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chỉ tiêu
lượng tiền cung ứng (tiền phát hành) để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối nhà
nước và tái cấp vốn hỗ trợ khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng; phê
duyệt mức dự trữ ngoại hối nhà nước dự kiến đạt được trong năm. Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt mức dự trữ ngoại hối nhà nước dự kiến đạt được trong năm 2007
tại Quyết định số 922/QĐ-TTg ngày 24/7/2007
8.
Vấn đề các tổ chức tín dụng vi phạm quy định về lãi suất tại Bộ Luật dân sự;
Ngân hàng Nhà nước chậm và chưa kịp thời công bố mức trần lãi suất cơ bản theo
quy định của pháp luật.
Quán triệt tinh thần
Nghị quyết Trung ương 5, Khoá IX của Đảng, căn cứ vào điều kiện thực tế về kinh
tế, tiền tệ trong nước và được sự chấp thuận của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
đã ban hành Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002, quy định: lãi suất
cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hành được thực hiện theo cơ chế
thoả thuận; Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản trong từng thời kỳ để định
hướng lãi suất thị trường. Khi Bộ Luật dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2006, các hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng được ký kết từ
sau thời điểm này đã gặp vướng mắc do Khoản 1, Điều 476 quy
định: "lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng".
Để giải quyết vấn đề
này, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng 2 phương án xử lý: (i) Điều chỉnh tăng lãi
suất cơ bản từ 8,25%/năm lên hơn 10%/năm. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất
cơ bản hơn 20% là sự điều chỉnh có tính "đột biến", biến động sẽ gây
xáo trộn thị trường tiền tệ trong nước; (ii) Phối hợp với các Bộ, Ngành liên
quan, trình Chính phủ và Quốc hội xem xét, chỉnh sửa các nội dung bên quan đến
lãi suất quy định tại Điều 474 và 476 Bộ luật Dân sự để đảm
bảo ổn định thị trường tiền tệ trong nước.
Thừa uỷ quyền Thủ tướng
Chính phủ, ngày 22/11/2006, Ngân hàng Nhà nước đã có tờ trình 154/TT-CP kiến nghị
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá XI sửa đổi quy định liên quan đến lãi suất tại Bộ
Luật dân sự. Tại Phiên họp cuối tháng 4/2008, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khoá
XII đã có ý kiến về vấn đề này và tiếp thu ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
ngay Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 có hiệu lực từ ngày 19/5/2008
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản
làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh phù hợp với quy
định của Bộ luật Dân sự và Luật Ngân hàng Nhà nước.
9.
Giải pháp bảo đảm lãi suất dương cho người gửi tiền theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ.
Trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế, lãi suất huy động vốn và cho vay của
các tổ chức tín dụng được hình thành chủ yếu do cung-cầu vốn, mức lạm phát kỳ vọng,
các chi phí kinh doanh của ngân hàng thương mại và tác động của yếu tố tỷ giá,
lãi suất thị trường quốc tế. Ngoài ra, lãi suất tại các tổ chức tín dụng còn phải
tính đến mối quan hệ lợi ích giữa người gửi tiền, tổ chức tín dụng
và người vay tiền. Nếu lãi suất tiền gửi tăng cao sẽ làm cho lãi suất cho vay
tăng theo và làm tăng chi phí đầu vào cho sản xuất, kinh doanh.
Để hướng tới lãi suất
thực dương cho người gửi tiền theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, cùng với việc
thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, từ ngày 19/5/2008, Ngân hàng Nhà nước
đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 8,75%/năm lên 12%/năm. Hiện nay mặt
bằng lãi suất huy động của các tổ chức tín dụng ở mức 13,5%-15%/năm.
10.
Vấn đề cho vay lĩnh vực đầu tư chứng khoán, bất động sản.
Để kiểm soát chặt chẽ
hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và bất động sản của các tổ chức
tín dụng ngày 28/5/2007, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị số
03/2007/CT-NHNN , trong đó khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng
khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ cho vay của các tồ chức tín dụng.
Đến cuối tháng
4/2008, dư nợ cho vay để đầu tư và kinh doanh chứng khoán của hệ thống các tổ
chức tín dụng là 9.754 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 0,78% tổng dư nợ cho vay nền
kinh tế; dư nợ cho vay đối với lĩnh vực bất động sản (gồm cho vay mua nhà ở,
cho các doanh nghiệp vay đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh, cho
vay xây dựng nhà và văn phòng để bán và cho thuê. . .) là 135.000 tỷ đồng, chiếm
10,8% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.
11.
Huy động tiền gửi ngắn hạn của hệ thống ngân hàng trong năm 2007 và sử dụng để
cho vay dài hạn.
Tính đến cuối năm
2007, số dư tiền gửi ngắn hạn tại hệ thống ngân hàng là 776.018 tỷ đồng, dư nợ
cho vay trung, dài hạn là 456.751 tỷ đồng, trong đó các ngân hàng thương mại đã
sử dụng 75.550 tỷ đồng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (chiếm tỷ
trọng 9,7%, thấp hơn mức tối đa 40% được sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay
trung, dài hạn theo quy định hiện hành).
12.
Sự thay đổi về thị phần của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam tính từ đầu
năm 2008 đến cuối tháng 4/2008.
Thị phần cho vay của
các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong hệ thống các tổ chức tín dụng Việt
Nam đang có xu hướng tăng, trong khi thị phần nguồn vốn huy động lại có xu hướng
giảm; tốc độ tăng thị phần cho vay bằng ngoại tệ nhanh hơn tốc độ tăng thị phần
tổng dư nợ (số liệu cụ thể Ngân hàng Nhà nước đã gửi trực tiếp cho Đại biểu chất
vấn).
Nhằm đảm bảo cơ chế
cho vay bằng ngoại tệ thống nhất với các quy định của pháp luật về ngoại hối,
góp phần hạn chế tình trạng đô hoá nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
mới Quyết định về cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
vay là người cư trú (số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/4/2008), tập trung cho vay 3
lĩnh vực nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; trả nợ nước ngoài và đầu tư ra nước
ngoài.
13.
Việc triển khai trả lương qua tài khoản ở những nơi chưa đủ điều kiện, gây bức
xúc cho người hưởng lương:
Theo quy định tại Chỉ
thị 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ, lộ trình trả lương
qua tài khoản cho đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước gồm 2 giai đoạn:
(i) Giai đoạn I triển khai từ 1/1/2008 tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh và một số thành phố, thị xã, khu chế xuất, khu công nghiệp; (ii) Giai đoạn
II triển khai từ 1/1/2009 trên phạm vi cả nước, nơi các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán có khả năng đáp ứng việc trả lương qua tài khoản.
Mặc dù, Ngân hàng Nhà
nước đã ban hành Chỉ thị 05/2007/CT-NHNN yêu cầu các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà
nước, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai các nội dung liên quan
theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhưng do (i) việc tham mưu của Ngân
hàng Nhà nước chi nhánh một số tỉnh, thành phố chưa phù hợp; (ii) một số tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán phát hành số lượng thẻ vượt quá khả năng cung ứng
nên từ 1/1/2008 đến nay, một số địa phương không thuộc lộ trình triển khai giai
đoạn 1 và chưa đáp ứng đủ điều kiện vẫn thực hiện trả lương qua tài khoản, gây
bức xúc cho người hưởng lương.
Trong tháng 4/2008,
Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức sơ kết, chỉ đạo, uốn nắn và phấn đấu triển khai
quyết liệt, hiệu quả hơn chủ trương này.
14.
Thành lập mới các ngân hàng thương mại:
Đến cuối tháng
5/2008, hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam gồm 5 ngân hàng thương mại nhà
nước (trong đó Ngân hàng Ngoại thương đã cổ phần hoá), Ngân hàng chính sách xã
hội, Ngân hàng phát triển, 6 ngân hàng liên doanh, 36 ngân hàng thương mại cổ
phần, 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 10 Công ty tài chính, 13 Công ty cho
thuê tài chính và 998 quỹ tín dụng nhân dân.
Từ năm 2006 đến nay,
Ngân hàng Nhà nước nhận được 25 hồ sơ xin thành lập ngân hàng thương mại cổ phần
trong nước, 33 hồ sơ xin thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép
thành lập và hoạt động cho 2 ngân hàng là Liên Việt (có trụ sở chính tại Hậu Giang)
và Tiên Phong (có trụ sở chính tại Hà Nội); cấp giấy phép thành lập và hoạt động
cho 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các hồ sơ còn lại đang được Ngân hàng Nhà
nước thẩm định.
Việc cấp giấy phép
thành lập và hoạt động cho các ngân hàng thương mại cổ phần được thực hiện theo
Quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN ngày 7/6/2007 của Ngân hàng Nhà nước; cấp giấy
phép thành lập và hoạt động cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện
theo Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 của Chính phủ.
Xin cảm ơn Quốc hội!
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Quốc hội (600 bản);
- Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP;
- Thống đốc và các PTĐ;
- Lưu VP NHNN (TH, TK, HC).
|
THỐNG
ĐỐC
Nguyễn Văn Giàu
|