Kính
gửi:
|
- Các Bộ: Nông nghiệp và PTNT, Y tế,
Tài chính, Tư pháp, Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh/thành phố trực thuộc TW;
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
- Hiệp hội Lương thực Việt Nam.
|
Để hoàn thiện
hành lang pháp lý, với mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, đáp ứng nhu cầu quản
lý trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới, ngày 15 tháng 8 năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo. Trong quá trình thực thi Nghị định
số 107/2018/NĐ-CP , Bộ Công Thương đã ghi nhận nhiều ý kiến đánh giá, phản ánh từ
các Bộ, ngành, địa phương, VFA và thương nhân xuất khẩu gạo trong hoạt động
kinh doanh xuất khẩu gạo.
Bộ Công Thương đã tổng hợp, xin trao
đổi với quý Cơ quan một số nội dung liên quan đến kết quả
thực thi Nghị định số 107/2018/NĐ-CP và đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung trong
thời gian tới như sau:
1. Kết quả đạt được
trong thực thi Nghị định số 107/2018/NĐ-CP
a) Công tác ban hành văn bản
quy phạm pháp luật
Trong quá trình thực thi Nghị định số
107/2018/NĐ-CP , các Bộ, ngành đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật như
sau:
- Thông tư số 30/2018/TT-BCT ngày 01
tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chi tiết một số điều của
Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 8 năm 2018 của Chính phủ về kinh
doanh xuất khẩu gạo.
- Thông tư số 77/2018/TT-BTC ngày 17
tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về phương pháp điều tra,
xác định chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm thóc hàng hóa các vụ sản xuất
trong năm.
Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp từ báo cáo kết quả điều tra giá thành lúa của các địa phương (chủ yếu từ vùng ĐBSCL) công bố giá mua thóc định hướng từ
đầu vụ để làm cơ sở áp dụng các biện
pháp bình ổn giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường theo quy định.
- Thông tư số 12/2013/TT-BNNPTNT ngày
06 tháng 02 năm 2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về kho chứa thóc và cơ sở xay, xát thóc gạo. Tuy nhiên, căn cứ
để ban hành Thông tư này vẫn thể hiện là Nghị định số
109/2010/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) nhưng chưa được Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn cập nhật, sửa đổi, bổ sung.
b) Công tác điều hành xuất khẩu
gạo
Xét tổng thể trong giai đoạn từ cuối
năm 2018 đến nay, dù phần lớn thời gian chịu ảnh hưởng từ dịch Covid-19, tác động
của giãn cách xã hội trong thời điểm nhất định, giai đoạn, công tác điều hành
xuất khẩu gạo từ khi Nghị định số 107/2018/NĐ-CP có hiệu lực đã bảo đảm được
các mục tiêu, nguyên tắc quy định tại Điều 10 Nghị định số
107/2018/NĐ-CP. Đó là: tiêu thụ hết thóc, gạo hàng hóa cho người nông dân với
giá tốt, qua đó bảo đảm lợi ích của người trồng lúa theo chính sách hiện hành,
cân đối giữa xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; ổn định thị trường - giá cả và
quan trọng nhất, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trong bối cảnh thị trường
gạo thế giới cực kỳ căng thẳng do tác động của dịch Covid-19.
(i) Tiếp
tục đẩy mạnh xuất khẩu gạo và kịp thời giải quyết các khó khăn, ứng phó kịp thời với các động thái chính sách bất lợi tại các thị trường lớn, truyền thống
- Với thị trường Philippines, Bộ Công Thương đã chỉ đạo VFA phối hợp với các thương nhân đầu mối tham
gia đấu thầu nhập khẩu của Philippines; có các biện pháp, ứng phó kịp thời, phù
hợp sau khi Philippines có các động thái chính sách bất lợi với xuất khẩu gạo của
Việt Nam như tự khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với gạo nhập khẩu
(để tăng thuế và hạn chế nhập khẩu gạo), tiến hành
"đánh giá lại hệ thống quản lý an toàn thực phẩm đối
với gạo xay xát nhập khẩu vào Philippines”.
- Với thị trường Trung Quốc, Bộ Công Thương đã phối hợp: i) các đơn vị liên quan trong và ngoài nước
thực hiện hoạt động kết nối giao thương và tham gia các hoạt động xúc tiến
thương mại gạo trong năm 2019; ii) Bộ Nông nghiệp và PTNT khôi phục được tư
cách xuất khẩu gạo sang Trung Quốc của 03 thương nhân bị dừng xuất khẩu từ đầu
năm 2018.
(ii) Mở rộng, phát triển xuất khẩu
tại các thị trường tiềm năng thông qua công tác đàm
phán song phương, đa phương
Bên cạnh việc tiếp tục xuất khẩu đến
hơn 150 quốc gia, vùng lãnh thổ, Bộ Công Thương đã chủ trì, phối hợp cùng các Bộ,
ngành, Hiệp hội Lương thực Việt Nam tiếp tục thực hiện các công tác đàm phán, mở
cửa thị trường như giành được hạn ngạch 80.000 tấn gạo với thuế suất ưu đãi khi
xuất khẩu gạo vào EU theo Hiệp định EVFTA; hạn ngạch thuế quan mở cửa thị trường
gạo của Hàn Quốc, v.v..
(iii)
Công tác thông tin thị trường
Trong thời gian qua, Bộ Công Thương
đã chủ động cùng Bộ Nông nghiệp và PTNT, VFA cung cấp thêm thông tin về tình
hình cung cầu gạo trong nước và thế giới, cảnh báo tới các doanh nghiệp để các
doanh nghiệp tham dự đấu thầu bảo đảm hiệu quả xuất khẩu gạo.
Thực hiện trách nhiệm được giao tại
Nghị định số 107/2018/NĐ-CP và theo chức năng, nhiệm vụ, Bộ Công Thương đã thường
xuyên phối hợp với các Bộ, ngành để trao đổi với các địa
phương, VFA và hướng dẫn, hỗ trợ thương nhân trong tham gia xúc tiến thương mại,
xây dựng, quảng bá hình ảnh, thương hiệu của sản phẩm và doanh nghiệp ở trong
nước và ngoài nước; cung cấp cho Sở Công Thương các địa phương Bản tin thị trường
nông, lâm, thủy sản hàng tuần trên Cổng thông tin điện tử
của Bộ, khuyến cáo về sự thay đổi trong thực thi chính sách của một số thị trường
lớn như Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU... Bộ Công Thương
cũng đã xuất bản các tài liệu: Sổ tay một số thông tin cần
biết khi xuất khẩu nông thủy sản sang thị trường Trung Quốc, Cẩm nang thông tin thị trường như Cẩm nang hướng dẫn
xuất khẩu nông sản vào thị trường Trung Quốc, Tài liệu phổ biến Tiềm năng xuất
khẩu thủy sản vào thị trường Đông Bắc Á, tài liệu phổ biến thông tin thị trường
Hàn Quốc, Singapore...
c) Đối với công tác phối hợp với
các bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh và cơ quan liên quan tổ chức điều hành xuất khẩu gạo bảo đảm các nguyên tắc
quy định tại Nghị định
Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy định
cụ thể trách nhiệm của các Bộ, ngành, địa phương liên quan trong điều hành xuất
khẩu gạo như: điều tiết giá cả, bình ổn thị trường nội địa, phát triển thị trường
xuất khẩu, ký kết, tổ chức thực hiện các bản ghi nhớ, thỏa thuận về thương mại
gạo với các nước, điều hành thị trường tập trung, xây dựng vùng nguyên liệu,
liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo, bảo đảm chất lượng gạo xuất khẩu.
Thực tiễn triển khai cho thấy các Bộ,
ngành, địa phương đã phối hợp trong triển khai thực hiện các trách nhiệm được
giao, cụ thể như:
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xác định,
công bố giá thóc định hướng. Từ đó, các thương nhân có cơ sở tham khảo để giao
dịch trên thị trường; Chính phủ, các Bộ có cơ sở tham khảo để điều hành, góp phần
tiêu thụ thóc, gạo hàng hóa và bảo đảm lợi ích người trồng lúa theo chính sách
hiện hành.
- Trên cơ sở giá thóc định hướng được
công bố, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chủ trì, phối hợp với các Bộ:
Công Thương, Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Hiệp hội Lương thực Việt
Nam thực hiện nhiệm vụ bình ổn giá thóc, gạo hàng hóa trong nước, nhất là trong
giai đoạn dịch Covid-19 bùng phát tại Việt Nam.
- Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính) đã
phối hợp và gửi Bộ Công Thương báo cáo định kỳ hàng tháng và đột xuất về yêu cầu
xuất khẩu gạo, phối hợp với các Bộ, ngành trong công tác thống kê số liệu về
tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam. Tuy nhiên, báo cáo của Tổng cục Hải quan
tại nhiều kỳ báo cáo định kỳ còn chậm, số liệu còn thô,
chưa được xử lý, tổng hợp nên còn gây khó khăn cho công tác theo dõi, tổng hợp,
báo cáo số liệu, tình hình thực thi.
2. Hạn chế, bất cập
trong thực thi Nghị định số 107/2018/NĐ-CP
a) Điều kiện kinh doanh
- Tính đến thời điểm báo cáo, có 205
thương nhân đã được Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
xuất khẩu gạo theo quy định tại Nghị định 107/2018/NĐ-CP (thay thế Nghị định số
109/2010/NĐ-CP) và Nghị định số 109/2010/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) đang hoạt động.
Tuy nhiên, số liệu của Tổng cục Hải
quan thống kê cho thấy 39 thương nhân có trụ sở chính tại 16 tỉnh, thành phố
không xuất khẩu gạo từ tháng 12 năm 2019 cho đến thời điểm báo cáo (thuộc trường
hợp xem xét thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định tại điểm d Khoản
1 Điều 8 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP).
Như vậy, có thể nhận thấy trong thực
tế, nhiều thương nhân được cấp Giấy chứng nhận nhưng không có thị trường, không
có khả năng, năng lực xuất khẩu, cùng với ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên đã
không thể xuất khẩu trong gần 2 năm.
- Nghị định số 107/2018/NĐ-CP hiện
nay không quy định về sức chứa kho chuyên dùng để chứa thóc, gạo và công suất tối
thiểu của cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo. Điều này dẫn đến không có mức chuẩn
tối thiểu đối với cơ sở của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo; dẫn đến sự
không công bằng trong đầu tư tham gia thị trường của các thương nhân, tạo ra sự
cạnh tranh không lành mạnh.
Trong thời gian qua, các thị trường
nhập khẩu ngày càng chú ý đến tiêu chuẩn, chất lượng, truy xuất nguồn gốc và
đang có xu hướng tạo ra nhiều rào cản kỹ thuật dưới hình thức các quy định về đảm
bảo chất lượng, an toàn thực phẩm.
Tiêu chuẩn hóa đối
với việc đầu tư cơ sở hạ tầng đầu vào nhằm đảm bảo sự đồng bộ hóa về năng lực chế biến của cả ngành. Đây là tiền đề để tiến đến mục tiêu
xây dựng thương hiệu gạo quốc gia một cách thực tiễn khi quy trình chế biến và
sản phẩm đầu ra trên quy mô toàn ngành đều đáp ứng được các yêu cầu về rào cản
phi thuế quan, truy xuất nguồn gốc, đảm bảo đồng bộ chất lượng sản phẩm của các
nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới.
b) Đối với việc kiểm tra điều
kiện kinh doanh xuất khẩu gạo
Trong quá trình thực thi Nghị định số
107/2018/NĐ-CP , việc hậu kiểm của nhiều Sở Công Thương đã bộc lộ nhiều hạn chế
như: chậm tiến hành hậu kiểm do không xác định được Sở Công Thương tại tỉnh/thành
phố nào chủ trì do thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo có thể kê khai kho chứa,
cơ sở xay xát thóc gạo tại nhiều địa phương để được cấp Giấy chứng nhận; việc
duy trì điều kiện kinh doanh của các thương nhân còn chưa được quan tâm, đáp ứng,
đặc biệt là về vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật dây chuyền sản xuất,
chế biến, thiết bị phòng hộ lao động, phòng cháy chữa cháy, v.v..nhưng chưa được Sở Công Thương các tỉnh kịp thời
giám sát, báo cáo.
Ngày 22 tháng 5 năm 2020, Bộ Công
Thương (Cục Xuất nhập khẩu) đã có công văn số 517/XNK-NS gửi
Sở Công Thương các tỉnh, thành phố liên quan trao đổi về việc thực thi quy định
hậu kiểm (vấn đề này đã từng xảy ra khi bắt
đầu thực thi Nghị định số 109/2010/NĐ-CP). Theo đó, đề
nghị Sở Công Thương có kho chứa của thương nhân được cấp Giấy chứng nhận đủ điều
kiện kinh doanh xuất khẩu gạo nằm trên địa bàn chủ trì, phối hợp với các Sở
Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn liên quan tiến hành hậu kiểm
theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP.
Trong thực tế thi hành Nghị định, Sở
Công Thương các tỉnh/thành phố chưa có sự chủ động trong công tác quản lý nhà
nước kiểm tra, báo cáo về việc duy trì điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, về
việc thay đổi thông tin, năng lực sản xuất của thương nhân trên địa bàn, chủ yếu
thực hiện nhiệm vụ khi Bộ Công Thương phát hiện vấn đề và có văn bản chỉ đạo
triển khai thực hiện.
c) Đối với gạo tăng cường vi chất
dinh dưỡng
- Đến tháng 12 năm 2019 mới phát sinh
xuất khẩu loại gạo này và thương nhân xuất khẩu là Công ty TNHH XNK Đại Dương Xanh,
với số lượng nhỏ. Đối với gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng (Vitamin), hiện chỉ
có Công ty CP TM Gạo Thịnh thực hiện xuất khẩu đối với chủng loại gạo này. Công
ty TNHH Xuất nhập khẩu Đại Dương Xanh và Công ty CP TM Gạo Thịnh đều là các
thương nhân đã được Bộ Công Thương cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
xuất khẩu gạo.
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp
chưa tận dụng được ưu đãi từ Nghị định số 107/2018/NĐ-CP (Khoản
3 Điều 4 Nghị định 107/2018/NĐ-CP quy định mặt hàng gạo hữu cơ, gạo đồ, gạo
tăng cường vi chất dinh dưỡng được tự do xuất khẩu, không hạn chế số lượng,
không cần đáp ứng điều kiện kinh doanh, không cần cấp giấy chứng nhận).
- Qua gần 3 năm thực hiện Nghị định số
107/2018/NĐ-CP , đến thời điểm hiện nay, các Bộ, ngành vẫn chưa có văn bản hướng
dẫn tiêu chí, phương pháp xác định sản phẩm gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng
quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 107/2018/NĐ-CP. Điều
này đã gây lúng túng cho cơ quan hải quan khi thực thi Nghị định số
107/2018/NĐ-CP .
d) Đối với việc ủy thác xuất khẩu
Theo quy định về ủy thác xuất nhập khẩu
tại Luật Quản lý ngoại thương, Luật Thương mại, có thể có trường hợp thương
nhân (có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo - Giấy chứng nhận)
ủy thác cho thương nhân (không có Giấy chứng nhận) thực hiện
kinh doanh xuất khẩu gạo, làm thủ tục xuất khẩu gạo tại cơ quan hải quan. Mặc
dù chưa ghi nhận trường hợp nào xảy ra trong thực tế nhưng đây là một kẽ hở của
pháp luật cần được sửa đổi.
đ) Việc thống kê, khai thác
thông tin, dữ liệu và chế độ báo cáo số liệu thống kê hợp đồng xuất khẩu và thực
hiện hợp đồng xuất khẩu gạo
Thương nhân thực hiện báo cáo định kỳ
hàng quý, hàng năm theo mẫu số 04 quy định tại Phụ lục kèm theo Nghị định số
107/2018/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều thương nhân kinh doanh xuất
khẩu gạo chưa thực hiện nghiêm túc trách nhiệm báo cáo theo quy định như: không
báo cáo, báo cáo không đầy đủ nội dung theo quy định, có báo cáo nhưng không
thường xuyên ... Việc này đã gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều hành xuất
khẩu gạo.
Nghị định số 109/2010/NĐ-CP (đã hết
hiệu lực) cho phép áp dụng chế tài tạm ngừng đăng ký hợp đồng xuất khẩu gạo nếu
thương nhân không thực hiện nghĩa vụ của mình. Nghị định số 107/2018/NĐ-CP quy
định chế tài nhẹ hơn, theo đó, các thương nhân vi phạm nghĩa vụ báo cáo chỉ không
được hưởng các chính sách như tham gia các chương trình xúc tiến, xây dựng,
quảng bá hình ảnh, thương hiệu ở trong nước và ngoài nước, không được phân bổ
chỉ tiêu thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung hay tham gia chương
trình mua thóc, gạo tạm trữ của Nhà nước. Do các hợp đồng xuất khẩu gạo tập
trung và chương trình tạm trữ hầu như không có, kinh phí quảng bá hình ảnh, xúc
tiến thương mại lại không đáng kể nên quy định của Nghị
định 107/2018/NĐ-CP khó có thể coi là
"chế tài" để buộc các thương nhân phải thực
hiện nghĩa vụ báo cáo. Cơ quan quản lý chỉ có thể kêu
gọi và khuyến khích các thương nhân tự giác chấp hành. Các thông tin, số liệu
liên quan (diện tích gieo trồng, sản lượng từng chủng loại lúa, lượng thóc, gạo
hàng hóa tồn kho, xuất khẩu...) thường không đầy đủ, xác thực, kịp thời, không
phản ánh đúng thực tế, từ đó gây rất nhiều khó khăn cho công tác quản lý, tham
mưu về điều hành sản xuất, xuất khẩu gạo.
e) Công tác xúc tiến thương mại
(XTTM) gạo theo cơ chế đặc thù
Giai đoạn 2016 - 2018, các chương
trình XTTM đặc thù đối với mặt hàng gạo triển khai theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại văn bản số 8023/VPCP-KTTH ngày 06 tháng 10 năm 2016. Theo đó, Bộ
Công Thương chủ động lựa chọn thị trường và quyết định thành phần tham gia đoàn
bảo đảm tính thiết thực, hiệu quả. Đối tượng hỗ trợ gồm: cơ quan quản lý nhà nước
(cán bộ, công chức) và doanh nghiệp. Cán bộ, công chức được hỗ trợ công tác phí
khi đi công tác ngắn hạn nước ngoài thực hiện theo quy định hiện hành; hỗ trợ
doanh nghiệp tham gia theo quy định tại theo Quyết định số 72/2010/QĐ-TTg ngày
15 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn có liên
quan. Kết quả mang lại từ các chương trình đã góp phần tăng trưởng sự hiện diện
của mặt hàng gạo Việt Nam trên bản đồ thị trường thương mại gạo thế giới. Thông
qua Chương trình XTTM đặc thù mặt hàng gạo, Bộ Công Thương đã hỗ trợ cơ quan quản
lý nhà nước tại địa phương nhận định thị trường, tìm hiểu
thực tế quá trình phân phối tại nước sở tại cũng như nhu cầu của mỗi nước từ đó
giúp định hướng sản xuất theo nhu cầu thị trường; đồng thời, các chương trình
cũng hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu gạo tiếp cận, nghiên cứu, tìm hiểu thị trường
(đặc tính thói quen tiêu dùng, thị hiếu, khẩu vị, cách thức tiêu dùng) để từng
bước chuyển đổi sản phẩm theo nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hoạt động XTTM
chưa nhấn vào hoạt động quảng bá, truyền thông thương hiệu, chưa có nội dung
XTTM riêng cho từng chủng loại gạo tại từng thị trường
Từ năm 2019 trở đi, thực hiện theo ý
kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng tại văn bản số 3571/VPCP-KTTH
ngày 02 tháng 5 năm 2019 của Văn phòng Chính phủ, chương trình XTTM mặt hàng gạo
thực hiện quy định tại Nghị định số 28/2018/NĐ-CP ngày 01 tháng 03 năm 2018 của
Chính phủ quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về một số biện pháp phát
triển ngoại thương. Như vậy, các chương trình XTTM gạo chỉ dừng lại ở hỗ trợ
doanh nghiệp theo cách thức truyền thống hiện nay, các cơ quan quản lý nhà nước
không được hỗ trợ khi tham dự, do vậy, hoạt động tiếp xúc với cơ quan quản lý
nhà nước phía Bạn không thể diễn ra gây khó khăn tiếp cận cơ chế, chính sách nhập
khẩu gạo của các nước. Hoạt động XTTM chỉ dừng lại ở hoạt động giao thương giữa
doanh nghiệp 2 bên. Mặt khác, do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, hoạt động XTTM gạo
chưa thể triển khai được.
Thực hiện Nghị quyết số 28/NQ-CP ngày
11 tháng 10 năm 2021 của Chính phủ về quy định tạm thời “thích ứng an toàn,
linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, xuất khẩu các mặt hàng nông, thủy
sản nói chung đã bước vào giai đoạn khôi phục sản xuất, chế biến, xuất khẩu
trong trạng thái “bình thường mới”, để thúc đẩy xuất khẩu rất cần thiết triển
khai các chương trình XTTM. Mặc dù vậy, với quy trình xây dựng, xem xét, phê
duyệt đề án như hiện nay của chương trình XTTM quốc gia và trong bối cảnh dịch
Covid-19 vẫn đang tác động như hiện nay, các hoạt động XTTM gạo theo cơ chế đặc
thù sẽ khó triển khai có hiệu quả khi các nước có động thái thay đổi chính sách
và các thành phần liên quan trong chuỗi giá trị gạo không có cơ hội, cơ chế để
tham gia các hoạt động.
g) Chế tài đối với các trường hợp
vi phạm quy định, vi phạm chỉ đạo của cơ quan quản lý nhà nước
Trong quá trình thực thi, thực tế đã
phát sinh nhiều trường hợp vi phạm quy định tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP ,
tác động đến công tác điều hành của cơ quan quản lý nhà nước như: thay đổi trụ
sở chính, thay đổi cơ sở sản xuất để phục vụ công tác kinh doanh, nâng cấp cơ sở
cũ, thay đổi thông tin trên Giấy chứng nhận nhưng không hoặc chưa kịp thời báo
cáo hoặc điều chỉnh Giấy chứng nhận dẫn đến nhiều chỉ đạo, văn bản của cơ quan
quản lý nhà nước không được tiếp nhận, gây khó khăn trong quá trình triển khai
các chỉ đạo điều hành; thương nhân báo cáo không đúng sự thật hoặc không thực hiện chế độ báo cáo theo quy định.
Tuy nhiên, hiện chưa có đầy đủ chế
tài hoặc chế tài chưa đủ sức răn đe áp dụng đối với các hành vi vi phạm về chế
độ báo cáo và các trách nhiệm khác của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo.
3. Kiến nghị
Trên cơ sở tổng hợp ý kiến sơ kết của
các Bộ, ngành, địa phương, VFA và các thương nhân xuất khẩu gạo, Bộ Công Thương
trân trọng đề nghị quý Cơ quan cho ý kiến đối với một số vấn đề chính cần sửa đổi,
bổ sung tại Nghị định số 107/2018-NĐ-CP như sau:
a) Phạm vi điều chỉnh
Trong bối cảnh chịu tác động ngày
càng sâu sắc của các yếu tố khách quan như thời tiết, dịch bệnh, v.v.., sản xuất,
thương mại gạo của thế giới nói chung và của Việt Nam nói
riêng đang có sự thay đổi. Bên cạnh đó, với tiến trình hội nhập sâu rộng vào thị
trường thế giới, việc xuất khẩu, nhập khẩu gạo được vận hành trong nền kinh tế
thị trường, với giá nhập khẩu thấp hơn trong nước hoặc các loại gạo trong nước
sản xuất được nhưng không đáp ứng nhu cầu thị trường đang diễn ra.
Với thực tế xuất hiện nhập khẩu gạo,
việc theo dõi sát tình hình nhập khẩu gạo, quản lý được lượng
gạo nhập khẩu sẽ giúp dự báo, đánh giá tác động đến xuất khẩu gạo, đến thị trường
trong nước và các hoạt động sản xuất trong nước liên quan. Do vậy, cần bổ sung
quy định về quản lý hoạt động nhập khẩu gạo.
b) Quy định liên quan đến kinh
doanh xuất khẩu gạo
- Để thống nhất cách hiểu, tránh hiểu
lầm và lách luật khi thực hiện ủy thác trong xuất khẩu gạo, cần bổ sung quy định
về quyền kinh doanh xuất khẩu theo hướng chỉ thương nhân
được cấp Giấy chứng nhận và thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu gạo theo
quy định tại Nghị định mới được nhận ủy thác xuất khẩu gạo.
- Đối với điều kiện kinh doanh xuất
khẩu gạo
Đối với điều kiện về kho chứa, cơ
sở xay xát, với mục tiêu tiêu chuẩn hóa đối với việc đầu tư cơ sở hạ tầng đầu vào nhằm đảm
bảo sự đồng bộ hóa về năng lực chế biến của cả ngành; tạo
tiền đề thực hiện và đảm bảo duy trì tốt thương hiệu gạo quốc gia một cách thực
tiễn; tạo cơ sở cho các thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo sẵn sàng đáp ứng
các quy định về đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc của
các thị trường nhập khẩu, cần sửa đổi quy định về điều kinh kinh doanh xuất khẩu
gạo theo hướng quy định về sức chứa tối thiểu của kho chuyên dùng để chứa thóc,
gạo và công suất tối thiểu của cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo; có thể cân
nhắc việc quy định như Nghị định số 109/2010/NĐ-CP (đã hết hiệu lực) để tận dụng
nguồn lực xã hội, cơ sở vật chất đã được xây dựng khi thực thi Nghị định số
109/2010/NĐ-CP , tránh phát sinh thêm chi phí cho các thương nhân, gây lãng phí
nguồn lực xã hội.
Đối với việc xác định “gạo tăng cường
vi chất dinh dưỡng”, cần
xem xét, điều chỉnh Cơ quan chủ trì ban hành quy định về việc xác định gạo tăng
cường vi chất dinh dưỡng để sớm đưa vào thực hiện, tháo gỡ khó khăn trong công
tác thực thi.
- Đối với việc kiểm tra điều kiện
kinh doanh xuất khẩu gạo
Để tăng cường hiệu
quả, hiệu lực, trách nhiệm của cơ quan quản lý địa phương trong công tác thực
thi Nghị định, khắc phục tình trạng quản lý còn có thời điểm chưa sát thực tế tại
địa phương trong thời gian qua, cần sửa đổi, bổ sung quy định về kiểm tra điều
kiện kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng cơ quan quản lý nhà nước tại địa
phương có kho chứa của thương nhân được cấp Giấy chứng nhận tăng cường kiểm tra
công tác duy trì đáp ứng các điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo của thương nhân
sau khi thương nhân được cấp Giấy chứng nhận và kiểm tra theo chỉ đạo của Bộ
Công Thương trong trường hợp cần xác minh, làm rõ thông tin tại hồ sơ đề nghị cấp
Giấy chứng nhận.
- Đối với thời hạn Giấy chứng nhận, cần
sửa đổi quy định về thời hạn của Giấy chứng nhận để phù hợp với thời hạn của hợp
đồng thuê kho chứa, cơ sở xay, xát, chế biến thóc, gạo của
thương nhân tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận.
c) Đối với công tác xúc tiến thương
mại đối với mặt hàng gạo theo cơ chế đặc thù
Ngoài chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia, cần sửa đổi, bổ sung các quy định để có cơ chế, kinh phí thực hiện
phù hợp, đảm bảo sự tham gia của các thành phần trong chuỗi giá trị gạo trong
các hoạt động xúc tiến thương mại theo cơ chế đặc thù đối với mặt hàng gạo.
d) Quy định về quản lý nhập khẩu gạo
Bổ sung các quy định về quản lý nhập
khẩu gạo, cho phép áp dụng biện pháp quản lý hành chính bổ sung để góp phần điều
tiết thị trường, đảm bảo điều hành xuất khẩu gạo, quản lý nhập khẩu gạo linh hoạt,
đảm bảo sự ổn định của thị trường, của người sản xuất trong nước.
đ) Quy định về các trường hợp thu
hồi Giấy chứng nhận
Sửa đổi, bổ sung các trường hợp thu hồi
Giấy chứng nhận cho phù hợp với hoạt động thực thi trong thực tế như: không xuất
khẩu liên tục trong thời gian quy định, thay đổi nội dung trên Giấy nhận đủ điều
kiện kinh doanh xuất khẩu gạo đã được cấp quá 3 tháng nhưng không đề nghị điều
chỉnh, không thực hiện hoặc thực hiện không đúng chỉ đạo, điều hành của cơ quan
có thẩm quyền theo quy định.
e) Bổ sung chế tài đối với trường
hợp thương nhân không báo cáo hoặc báo cáo không đúng, đầy đủ theo quy định
Bổ sung điều khoản quy định chế tài tạm
dừng thực hiện thủ tục hải quan đối với các lô gạo xuất khẩu, nhập khẩu của
thương nhân thuộc trường hợp thực hiện không đúng, không đầy đủ chế độ báo cáo
theo quy định.
g) Tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong việc thu thập, khai báo, báo cáo số liệu trên nền tảng trực tuyến
Bổ sung quy định về việc xây dựng nền
tảng thu thập, khai báo trực tuyến đối với số liệu xuất khẩu, nhập khẩu gạo để
phục vụ công tác điều hành, quản lý; trách nhiệm trong việc thống kê, khai thác
thông tin, dữ liệu và chế độ báo cáo số liệu thống kê.
Bộ Công Thương trân trọng đề nghị quý
Cơ quan cho ý kiến đối với: i) Các nội dung đề xuất sửa đổi, bổ sung tại Nghị định
số 107/2018/NĐ-CP nêu trên; ii) Đề xuất các nội dung khác cần sửa đổi, bổ sung
tại Nghị định số 107/2018/NĐ-CP (nêu rõ lý do).
Văn bản góp ý của quý Cơ quan đề nghị
gửi về Bộ Công Thương trước ngày 10 tháng 12 năm 2021, bản mềm gửi về địa
chỉ e-mail: xuatkhaugao@moit.gov.vn và phuongpn@moit.gov.vn để tổng hợp, báo
cáo Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Công Thương trân trọng cảm ơn sự
phối hợp của quý Cơ quan./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Các đơn vị: PC, XTTM, KH, TTTN, AP, AM (để tham gia ý
kiến);
- Lưu: VT, XNK.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Trần Quốc Khánh
|