ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NINH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
203/KH-UBND
|
Quảng
Ninh, ngày 21 tháng 10 năm 2021
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ TỈNH QUẢNG NINH NĂM 2022
Căn cứ Chỉ thị số 15-CT/TU ngày
17/3/2017 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ninh về đẩy mạnh thực hiện Kết luận số
56-KL/TW ngày 21/3/2013 của bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại văn
bản số 5035/BKHĐT-HTX ngày 02/8/2021 về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế tập thể, hợp tác xã năm 2022. Theo đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn
bản số 3429/KHĐT-ĐKKD ngày 14/9/2021; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xây dựng
Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2022 với các nội dung cụ thể sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH
HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2020
I. TÌNH HÌNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ
1. Đánh giá dựa
trên các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác
1.1. Về số lượng, doanh thu,
thu nhập của HTX, Liên hiệp HTX, THT
1.1.1. Tổ hợp tác (THT)
Về số lượng: Toàn tỉnh hiện có 201
THT tăng 3,07% so với năm 2020[1].
Ước đến 31/12/2021, toàn tỉnh có 210
THT trong đó: THT hoạt động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp 151 THT, chiếm
71,9%; THT hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và lĩnh
vực khác 59 THT, chiếm 28,1%.
- Về doanh thu và thu nhập: Đối với
THT, doanh thu bình quân 1 THT ước đạt 270 triệu đồng/năm, thu nhập trung bình
của 1 lao động THT đạt 3,3 triệu đồng/người/tháng.
Nhìn chung THT trên địa bàn phát triển
ổn định về số lượng nhưng đa dạng hình thức hoạt động, rất phù hợp với nhu cầu
của người nông dân, lao động nghèo, đặc biệt là người nông dân, lao động nghèo ở
vùng nông thôn và miền núi, mang tính chất thời vụ hoặc vụ việc, hợp tác với
nhau theo hợp đồng hợp tác. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều THT hoạt động không
thường xuyên, chỉ mang tính mùa vụ, tự phát, tổ chức của THT thiếu chặt chẽ,
quan hệ hợp tác lỏng lẻo, không đảm bảo tính ổn định, bền vững. Việc theo dõi,
đánh giá các hoạt động của THT còn hạn chế.
1.1.2. Hợp tác xã
Tổng số HTX trên địa bàn tỉnh hiện có
603 HTX, tăng 3,07% so với năm 2020[2];
Số HTX hoạt động lĩnh vực nông nghiệp là 370 HTX, chiếm 61,4%; công nghiệp; các
HTX phi nông nghiệp 233 HTX, chiếm 38,6%.
Doanh thu bình quân của HTX là 600
triệu; Lãi bình quân của 1 HTX 290 triệu; Thu nhập bình quân của thành viên,
lao động của HTX là 69 triệu đồng.
Trong 06 tháng đầu năm 2021 có 19 HTX
thành lập mới, đạt 31,6% so với chỉ tiêu được giao[3].
Có 01 HTX giải thể và 39 HTX đang tạm ngừng hoạt động.
Khu vực KTTT và HTX là kênh huy động
các nguồn lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, đóng
góp tích cực vào hoàn thành mục tiêu Quốc gia trong chương trình xây dựng nông
thôn mới, tham gia tích cực vào mục tiêu mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP) của
tỉnh. Đến nay toàn tỉnh có 67 HTX tham gia chương trình OCOP, chiếm 37,2%. Nhiều
HTX đã quan tâm hỗ trợ cho thành viên HTX khi khó khăn, đóng góp tích cực trong
phát triển kinh tế - xã hội, nhất là khu vực nông nghiệp, nông thôn.
1.1.3. Liên hiệp Hợp tác xã
Toàn tỉnh hiện có 03 Liên hiệp HTX,
trong đó có 01 LHHTX nông nghiệp và 02 LHHTX phi nông nghiệp, tổng vốn đăng ký
là 66,1 tỷ đồng. Dù mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng LHHTX đã chứng
minh tính hiệu quả, vai trò dẫn dắt KTTT, HTX phát triển theo hướng liên kết bền
vững.
1.2. Về thành viên, lao động của
hợp tác xã, liên hiệp HTX, tổ hợp tác
1.2.1. Tổ hợp tác
- Ước đến 31/12/2021, toàn tỉnh có
210 THT trong đó có 190 tổ hợp tác có đăng ký chứng thực với 628 thành viên
tham gia, tăng 1,1% so với năm 2020[4],
bình quân một tổ hợp tác có 3 thành viên. Trong tổng số tổ hợp tác, có 119 THT
hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, 05 THT hoạt động dịch vụ tổng hợp,
43 THT hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và các lĩnh
vực khác.
Doanh thu bình quân 01 THT năm 2020 đạt
270 triệu đồng. Thu nhập trung bình của 1 lao động THT đạt 3,3 triệu đồng/người/tháng.
Các THT có đăng ký với chính quyền địa phương đều hoạt động ổn định đã mang lại
hiệu quả nhất định, đóng góp đáng kể trong quá trình xây dựng nông thôn mới,
chương trình mỗi xã phường một sản phẩm. Đặc biệt có nhiều mô hình tổ hợp tác của
phụ nữ, nông dân đã tạo điều kiện hỗ trợ phát triển kinh tế cho người nông dân,
giảm dần nhỏ lẻ manh mún.
1.2.2. Hợp tác xã
Ước đến 31/12/2021, số thành viên là
54.790 người, trong đó số thành viên cá nhân là 52.163, hộ gia đình là 2.624,
doanh nghiệp là 3, số lao động làm việc trong khu vực HTX là 71.290 người.
Tổng số vốn hoạt động là 918 tỷ đồng,
giá trị tài sản của HTX là 1.500 tỷ đồng; doanh thu bình quân một HTX là 600
triệu đồng; lãi bình quân một HTX là 290 triệu đồng; thu nhập bình quân một
thành viên, lao động HTX là 69 triệu đồng.
1.2.3. Liên hiệp Hợp tác xã (LHHTX)
Số Liên hiệp HTX trong toàn tỉnh là 3
với 13 HTX tham gia Liên hiệp HTX thu hút hàng trăm lao động làm việc thường
xuyên và thời vụ cho các HTX, Liên hiệp HTX. Ước đến hết năm 2021 số Liên hiệp
HTX trong toàn tỉnh là 04.
1.3. Về trình độ cán bộ quản lý
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác
Tính đến hết tháng 9/2021, tổng số
cán bộ quản lý HTX là 4.802 người, tăng 2,7% so với năm 2020, đạt 95% so với kế
hoạch. Trong đó, cán bộ trình độ sơ cấp, trung cấp đạt 3.537 người, tăng 0.9%,
trình độ cao đẳng, đại học 1.151 người, tăng 7,1% so với năm 2020[5].
2. Đánh giá theo
lĩnh vực
2.1. Lĩnh vực nông nghiệp
Tính đến tháng 9/2021 toàn tỉnh hiện
có 392 HTX nông nghiệp, 01 Liên hiệp HTX; 105 THT. Các HTX lĩnh vực này đóng
vai trò quan trọng trong xây dựng nông thôn mới, chương trình OCOP của tỉnh của
địa phương. Trong đó việc thực hiện tốt các hoạt động dịch vụ nông nghiệp đã tạo
điều kiện cho các thành viên, hộ nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật
nuôi, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất chất
lượng sản phẩm và thu nhập cho người lao động.
Đặc biệt trong diễn biến phức tạp của
dịch bệnh COVID-19 thì vai trò của HTX nông nghiệp đóng góp vào bình ổn giá,
cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho việc ổn định kinh tế xã hội.
Đến nay các HTX nông nghiệp đã phát
huy được vai trò của mình, trong đó thể hiện sự thay đổi cách nghĩ, cách làm và
quản lý hoạt động SXKD hiệu quả, bên cạnh đó còn giúp
thành viên, các hộ gia đình và người dân, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ
trong sản xuất, chế biến, bảo quản sản phẩm và tìm kiếm thị trường đầu ra, tiêu
thụ sản phẩm cho thành viên và nông dân.
Bên cạnh đó, nhiều HTX ở trong tình
trạng khó khăn, yếu kém. Nhiều nơi doanh thu của HTX không đảm bảo được thu nhập
cho cán bộ làm công tác quản lý dẫn đến tình trạng hoạt động của HTX bị xem nhẹ,
cán bộ làm kiêm nhiệm và có xu hướng chuyển đổi sang lĩnh vực khác.
2.2. Lĩnh vực công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, xây dựng
Đến nay, toàn tỉnh có 48 HTX công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng, chiếm 8,1% tổng HTX toàn tỉnh. Các
HTX trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và xây dựng hoạt động
tương đối hiệu quả, chủ yếu tập trung vào một số ngành nghề như: sản xuất, khai
thác vật liệu xây dựng, chế biến thủy sản, nước mắm gốm sứ, thủ công mỹ nghệ...
đặc điểm chung của các HTX hoạt động trong lĩnh vực này chủ yếu có quy mô vừa
và nhỏ, hoạt động ổn định và có hiệu quả, đảm bảo việc làm và đời sống của các
thành viên và người lao động.
2.3. Lĩnh vực vận tải
Đến nay có 40 HTX hoạt động trong
lĩnh vực vận tải, chiếm 6,6% tổng HTX trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động của HTX
lĩnh vực này chủ yếu tập trung vào kinh doanh dịch vụ vận tải hành khách tuyến
cố định, vận tải taxi, vận tải hàng hóa trong tỉnh và ngoài tỉnh. Tuy nhiên đứng
trước làn sóng dịch bệnh COVID-19 lần thứ 4 các HTX vận tải thực sự khó khăn, đặc
biệt là các HTX vận chuyển khách.
Thành viên, người lao động làm việc
trong HTX vận tải cơ bản được đóng các chế độ, quyền lợi theo quy định của nhà
nước, bên cạnh đó thu nhập bình quân người lao động tăng, ước đạt 6 triệu đồng/người/tháng.
2.4. Lĩnh vực thương mại, dịch
vụ và lĩnh vực khác
Đến nay toàn tỉnh có 144 HTX hoạt động
trong lĩnh vực khác nhau, cụ thể như: Dịch vụ thương mại, vệ sinh môi trường,
kinh doanh chợ và các dịch vụ tổng hợp khác trong 9 tháng đầu năm 2021, mặc dù
gặp nhiều khó khăn nhưng các HTX đã tìm biện pháp thích ứng với điều kiện của địa
phương, đơn vị như: liên kết kinh doanh giữa thành viên với HTX, mở điểm kinh
doanh để giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động, có tích lũy cho tập
thể. Kết hợp các loại hình dịch vụ, bám sát nhu cầu đa dạng của dân cư địa
phương tổ chức liên kết đào tạo nguồn hàng hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp,
xây dựng cơ bản và tiêu dùng của nhân dân trên địa bàn HTX hoạt động.
Bình quân khoảng 10-20 thành viên/HTX
và thành viên chủ yếu là người lao động trực tiếp trong các HTX. Từ khi Luật
HTX năm 2012 ra đời cho đến nay đã tạo ra những đổi mới đối với các HTX nói
chung và HTX lĩnh vực này nói riêng, trong đó có sự thay đổi trong cách quản
lý, tổ chức, xây dựng phương án SXKD... nhất là thay đổi về quy mô, cơ cấu và sử
dụng nguồn vốn trong các HTX làm dịch vụ thương mại, dịch vụ tổng hợp, các HTX
đã tiến hành đánh giá lại vốn điều lệ, định giá tài sản để phân định rõ chủ sở
hữu của từng thành viên, sở hữu của HTX, nhằm huy động thêm vốn để mở rộng quy
mô hoạt động kinh doanh hiệu quả.
2.5. Lĩnh vực tín dụng
Trên địa bàn tỉnh hiện có 02 Quỹ TDND
đang hoạt động: Quỹ TDND Hưng Đạo và Quỹ TDND cơ sở Mạo Khê (Thị xã Đông Triều).
Tổng số thành viên của 02 Quỹ hiện có 1.519 người, tổng nguồn vốn hoạt động:
194.252 triệu đồng; thu nhập bình quân của người lao động 13,5 triệu đồng/người/tháng.
Hoạt động của 02 Quỹ TDND ổn định; vốn
huy động và dư nợ cho vay tăng trưởng, nợ xấu được kiểm soát ở mức thấp. Công
tác quản trị điều hành đi vào nề nếp. Các Quỹ TDND đã xây dựng và ban hành quy
chế hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban điều hành, quy chế cho
vay, miễn giảm lãi vay, quy chế an toàn kho quỹ, nội quy giao dịch. Bộ máy hoạt
động được củng cố và kiện toàn theo hướng chuyên sâu nghiệp vụ, Các Quỹ đã xây
dựng được trụ sở làm việc kiêm kho quỹ thuận tiện cho việc giao dịch với khách
hàng đảm bảo an toàn tiền mặt và các giấy tờ có giá trị. Hệ thống máy tính được
nối mạng truyền tin đến hệ thống Ngân hàng Nhà nước đáp ứng được yêu cầu của
công việc trong thời kỳ công nghệ.
3. Đánh giá tác động
của HTX, LH HTX, THT tới thành viên, kinh tế hộ thành viên
Thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012,
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định
vai trò của HTX kiểu mới đối với kinh tế hộ, đó là: HTX nông nghiệp không làm
triệt tiêu vai trò của kinh tế hộ mà làm gia tăng hiệu quả của phát triển kinh
tế hộ.
4. Một số mô hình
hoạt động hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị
Thực hiện Chương trình OCOP, tỉnh Quảng
Ninh đã tập trung phát triển nhóm sản phẩm OCOP cấp tỉnh và định hướng sản phẩm
OCOP cấp quốc gia giai đoạn 2018 - 2020, bao gồm: 12 chuỗi sản phẩm OCOP cấp tỉnh
và 06 chuỗi sản phẩm OCOP cấp Quốc gia. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp, hợp tác
xã đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp khi sử dụng thương hiệu chung trên sẽ
có nhiều thuận lợi trong việc hình thành và phát triển thị trường.
Trong quá trình triển khai thực hiện
và hỗ trợ các dự án phát triển liên kết, tỉnh Quảng Ninh có một số mô hình điển
hình, có hiệu quả của tỉnh như sau:
(1). Mô hình HTX SXKD DVNN Bình Dương
(xã Bình Dương, TX Đông Triều): HTX hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp,
trồng trọt; tổng số thành viên 2.500 người; HTX thực hiện sản xuất và tiêu thụ
củ khoai tây Atlantic sang với Công ty ORION Hàn Quốc, sản lượng 1.200 tấn/năm,
doanh thu đạt trên 8 tỷ đồng.
(2). Chuỗi liên kết hàu và các sản phẩm
từ hàu hiện có 06 chuỗi sản xuất, thu mua và chế biến hàu: Công ty Cổ phần BIM;
Công ty Cổ phần Thủy sản Cái Rồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và
thương mại Thủy sản Quảng Ninh; HTX Nam Trung; HTX Bảo Anh; HTX Hàu sữa Vân Đồn
với diện tích nuôi 445,7 ha, sản lượng 3.120 tấn/năm.
(3). Mô hình HTX DVNN chất lượng cao
Hoa Phong (phường Hồng Phong, TX Đông Triều): HTX hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp tổng hợp; tổng số thành viên 12 người; HTX đã tập trung liên kết sản xuất
nông sản sạch cung cấp ra thị trường, sản phẩm HTX hợp đồng cung cấp cho hơn 10
bếp ăn tập thể cơ quan, nhà hàng, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, mỗi năm
cung cấp 700 - 1.000 tấn rau, củ ra thị trường, doanh thu đạt trên 25 tỷ đồng.
II. KẾT QUẢ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ (KTTT)
1. Kết quả triển
khai Luật và các văn bản hướng dẫn
1.1. Ở cấp Trung ương
Thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của
Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ngày 18/3/2002 “V/v tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, Luật Hợp tác xã năm 2012, Nghị định số
193/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ, với các văn bản của
Trung ương, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh xây dựng chương trình hành
động đảm bảo được tiến độ, thống nhất về nội dung đã đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn để góp phần thực hiện hiệu quả chương trình phát triển kinh tế tập thể của
Tỉnh và cũng là thực hiện thắng lợi các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh là phải
tạo ra những chuyển biến cơ bản, tích cực nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt
động của kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, phấn đấu đưa kinh tế tập thể, kinh tế
HTX đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh[6].
Thông qua việc triển khai luật và các
văn bản hướng dẫn, đại đa đã số các HTX nắm bắt được các chủ trương của Đảng và
chính sách của Nhà nước về hỗ trợ và phát triển kinh tế tập thể, các cấp đã nhận
thức được tầm quan trọng, ý nghĩa thiết thực của Nghị quyết 13-NQ/TW, thống nhất
các quan điểm về phát triển KTTT đồng thời đã nhận thức được mục tiêu phát triển
KTTT là tạo điều kiện cho nhân dân đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp gắn với phát
triển kinh tế hộ gia đình, giảm nghèo nhanh và bền vững.
1.2. Ở cấp địa phương
Xác định vai trò và tầm quan trọng của
KTTT, HTX, trên cơ sở các quy định của Trung ương nhất là từ khi Luật HTX năm
2012 được ban hành với 06 chính sách hỗ trợ: đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường; ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mới; tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển HTX; tạo điều kiện tham gia các
chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội; chính sách hỗ
trợ thành lập mới... Các chính sách này cụ thể hóa trong Chương trình hỗ trợ
phát triển HTX giai đoạn 2015 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014.
Tỉnh Quảng Ninh đã kịp thời ban hành
các chính sách hỗ trợ, tạo động lực thúc đẩy KTTT, HTX phát triển và bước đầu
đã mang lại kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội nhất là Chương
trình xây dựng Nông thôn mới, Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP)
trên địa bàn toàn tỉnh[7].
Hàng năm, các chính sách như tài
chính, tín dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ quản lý,... được các Sở,
ban, ngành và địa phương, Liên minh HTX tỉnh triển khai thực hiện. Nhiều vấn đề
vướng mắc, tồn tại được xem xét giải quyết, tạo được lòng tin của cán bộ thành
viên và người lao động trong HTX đối với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
và của tỉnh.
Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại hạn
chế, một số địa phương chưa chú trọng đến công tác tuyên truyền về các chủ
trương phát triển KTTT và cũng như Luật HTX và các văn bản liên quan, nhiều HTX
vẫn không hiểu rõ về giá trị, nguyên tắc, bản chất hoạt động của tổ chức HTX.
Nguyên nhân do vẫn còn một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và người dân
không thấy hết được vai trò to lớn của khu vực KTTT, HTX trong phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
2. Công tác quản
lý nhà nước về kinh tế tập thể
Hiện nay công tác quản lý về kinh tế
tập thể được tỉnh Quảng Ninh triển khai mạnh mẽ, Tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo
phát triển kinh tế tập thể cấp tỉnh và cấp huyện của 13 huyện thị xã thành phố.
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Liên minh HTX phối hợp với các sở, ngành, địa phương, Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền và
cụ thể hóa các văn bản, Nghị quyết, chương trình, đề án của Trung ương và của Tỉnh
ủy trong phát triển KTTT đồng thời góp ý xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch,
chương trình, chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các HTX, củng cố và kiện toàn bộ
máy nhà nước các cấp về KTTT; kiểm tra, giám sát, xử lý hành vi vi phạm pháp luật
của HTX, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.
Tỉnh Quảng Ninh chưa thành lập phòng
Doanh nghiệp, KTTT và tư nhân theo Thông tư liên tịch số 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV
ngày 11/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ; Sở Kế hoạch và Đầu tư
giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KTTT trên địa
bàn tỉnh. Trong khi đó số cán bộ làm công tác phát triển KTTT đa phần là kiêm
nhiệm từ cấp tỉnh đến địa phương.
3. Kết quả triển
khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi hợp tác xã
3.1. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực
Năm 2021, Ủy ban nhân dân tỉnh giao
Liên minh HTX và Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn mở 18 lớp bồi dưỡng, tập
huấn chuyên môn, nghiệp vụ cho khoảng 600 cán bộ quản lý các HTX trên địa bàn
toàn tỉnh, trong đó tổng kinh phí hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng, tập huấn cán bộ
HTX năm 2021 là 564,350 triệu đồng.
Nội dung các lớp bồi dưỡng, tập huấn:
Phổ biến các cơ chế, chính sách, xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh và
đàm phán, ký kết hợp đồng trong sản xuất kinh doanh. Đối tượng tham gia bồi dưỡng,
tập huấn: Hội đồng quản trị, giám đốc, Phó giám đốc, ban kiểm soát, kế toán,
cán bộ quản lý, cán bộ làm công việc chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ của các
HTX.
3.2. Xúc tiến thương mại, mở rộng
thị trường
Tỉnh Quảng Ninh thường xuyên quan tâm
bố trí kinh phí hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu,
giới thiệu sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng; hỗ trợ tổ chức
các chương trình, hội nghị kết nối cung cầu, xúc tiến tiêu thụ các sản phẩm
nông sản của tỉnh. Hàng năm Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công
thương đã phối hợp với các địa phương lựa chọn, hỗ trợ, hướng dẫn các HTX,
doanh nghiệp có sản phẩm nông nghiệp chủ lực, sản phẩm OCOP tham gia triển lãm,
giới thiệu các sản phẩm tại các Hội chợ, Hội nghị kết nối cung cầu trong và
ngoài tỉnh.
Một số địa phương hỗ trợ kinh phí cho
các HTX thực hiện quảng bá, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu hàng
hóa, tem truy xuất nguồn gốc, in bao bì cho một số sản phẩm như: Na dai, Cam, Vải,
Gạo nếp cái hoa vàng, Chè, Trà Hoa vàng, Ba Kích, Miến dong, Hàu, Chả Mực, Gà
Tiên Yên, Lợn Móng Cái, Củ cải và một số sản phẩm khác.
Hiện nay toàn tỉnh có 65 HTX tham gia
Chương trình OCOP. Các sản phẩm, hàng hóa tham gia[8]
đã được xây dựng thương hiệu và quản lý chất lượng, đã phát huy được hiệu quả,
tạo sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu thụ nông sản đảm bảo tiêu chuẩn
và trở thành hàng hóa bán ra thị trường trong và ngoài tỉnh, góp phần sản xuất
phát triển đóng góp thiết thực trong Chương trình “Mỗi xã phường một sản phẩm”,
Chương trình xây dựng Nông thôn mới của tỉnh. Tuy nhiên trong đầu năm 2021, do
khó khăn của đại dịch COVID-19 nên công tác hỗ trợ các HTX tham gia quảng bá và
giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ trong tỉnh và ngoài tỉnh không thực hiện được.
Tỉnh đã tập trung hỗ trợ cho các HTX kết nối trực tiếp với các tập đoàn bán lẻ
lớn qua cổng thông tin kết nối cung - cầu của Liên minh HTX Việt Nam
(lmhtxvnmart.com.vn); trực tiếp kết nối sản phẩm của các HTX với tập đoàn Công
nghiệp - Than khoáng sản Việt Nam (cụ thể: công ty Khe Chàm, công ty than Mông
Dương, công ty môi trường TKV...), hỗ trợ HTX tiêu thụ sản phẩm.
3.3. Chính sách ứng dụng khoa học,
kỹ thuật và công nghệ mới
Trong năm hỗ trợ 4 HTX trong ứng dụng
và chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới, gồm: 01 nhiệm vụ thuộc Chương trình Nông
thôn miền núi[9], 02 nhiệm vụ khoa học
và công nghệ cấp tỉnh[10], 01 nhiệm vụ
khoa học và công nghệ cấp cơ sở[11].
3.4. Chính sách về tiếp cận vốn
và quỹ hỗ trợ phát triển HTX
Thực hiện Quyết định số 1071/QĐ-UBND
ngày 10/4/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về ban hành Quy định cho vay từ nguồn vốn
tín dụng hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và Hướng dẫn số
2993/HDLN-TC-LMHTX-NHCS ngày 28/6/2017 của Liên ngành: Sở Tài chính, Liên minh
HTX, Ngân hàng chính sách tỉnh về hướng dẫn nghiệp vụ cho vay từ nguồn tín dụng
Hỗ trợ phát triển HTX trên địa bàn tỉnh. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh
thường xuyên phối hợp với Liên minh Hợp tác xã tỉnh để kịp thời cho vay và quản
lý nguồn vốn đúng quy định. Đến 31/7/2021, căn cứ nguồn vốn được giao, NHCSXH tỉnh
đang quản lý và cho vay 02 HTX với số tiền dư nợ là 1.295 tỷ đồng, không có nợ
quá hạn. Tổng nguồn vốn cho vay ngân sách tỉnh ủy thác cho Chi nhánh NHCSXH tỉnh
để thực hiện cho vay hỗ trợ phát triển HTX là 20.93 tỷ đồng. Tổng dư nợ đạt
19,14 tỷ đồng, với 27 HTX còn dư nợ, bình quân 1 HTX còn dư nợ 709 triệu đồng.
3.5. Chính sách hỗ trợ thành lập
mới HTX
Tính đến 9/2021 các địa phương đã hỗ
trợ cho 18 HTX nông nghiệp thành lập mới, với kinh phí hỗ trợ: 4500 triệu đồng
(25 triệu đồng/HTX). Từ việc hỗ trợ trên cho thấy chính
sách đã góp phần giải quyết khó khăn ban đầu khi giúp HTX thành lập về tìm hiểu
thông tin, tư vấn tuyên truyền chính sách, pháp luật, mua sắm trang thiết bị
văn phòng ban đầu phục vụ cho hoạt động của HTX.
3.6. Chính sách ưu đãi về tín dụng
Hằng năm, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện để HTX tiếp cận được
nguồn vốn tín dụng của Nhà nước. Về tín dụng thương mại,
đa số HTX đều chưa được vay bằng thế chấp tài sản của HTX, do HTX chưa được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc một số nơi không chấp nhận HTX vay vì thiếu
tài sản thế chấp. So với các thành phần kinh tế khác, HTX rất khó khăn trong việc
tiếp cận nguồn vốn nay để mở rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Ngày
24/4/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Quyết định số
3121/QĐ-UBND về việc quy định trình tự, thủ tục cho vay từ nguồn tín dụng hỗ trợ
phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, bố trí 20 tỷ đồng ngân sách tỉnh
giao Ngân hàng CSXH cho các HTX vay vốn. Tuy nhiên, đối với công tác tín dụng
ưu đãi cũng gặp nhiều khó khăn do tài sản thể chấp lớn nhưng số tiền được vay lại
quá ít, thủ tục lại phức tạp, khó khăn nên hạn chế đến làm thủ tục vay vốn cho
các dự án. Nhìn chung, các HTX rất khó vay vốn từ các tổ chức tín dụng do tâm
lý ngân hàng còn dè dặt khi cho HTX vay do không có tài sản thế chấp nên phần lớn
các HTX không có cơ hội để tiếp cận các nguồn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
3.8. Hỗ trợ vốn, giống khi gặp
khó khăn, thiên tai, dịch bệnh
Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã
ban hành Quyết định số 1568/2017/QĐ-UBND ngày 18/5/2017 về Chính sách hỗ trợ
khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh theo Nghị định số 02/2017/NĐ-CP ngày 09/01/2017 của Chính phủ; Liên
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Tài chính ban hành Hướng dẫn[12] để thực hiện chính sách. Thực tế
khi thực hiện chính sách, hầu như các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh không được hỗ
trợ, nhà nước thực hiện hỗ trợ trực tiếp đến hộ nông dân, ngư dân, trong đó có
hộ dân là thành viên của hợp tác xã.
3.9. Hỗ trợ chế biến sản phẩm
Thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia xây dựng nông thôn mới, chương trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chương
trình “Mỗi xã phường một sản phẩm”, tỉnh Quảng Ninh luôn tạo mọi điều kiện để
các HTX tham gia chương trình, đặc biệt tỉnh xây dựng các chính sách đặc thù để
hỗ trợ phát triển hợp tác xã: thành lập mới, đất đai, tín dụng, thiết bị sản xuất,
xúc tiến thương mại, đào tạo, bồi dưỡng..., các đơn vị HTX đã được hỗ trợ về kỹ
thuật phục vụ chuyển đổi cơ cấu giống, mùa vụ, đưa các giống lúa, rau màu có
năng suất cao chất lượng tốt vào sản xuất; có 02 HTX được phê duyệt hỗ trợ mua
con giống phục vụ dự án PTSX với kinh phí ngân sách phê duyệt hỗ trợ là 161,5
triệu đồng, 01 HTX được hỗ trợ cấp giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm là
10 triệu đồng; có 10 HTX được hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, tem truy xuất
nguồn gốc, in bao bì cho một số sản phẩm với kinh phí 1.429,3 triệu đồng; có 10
HTX được hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ, thiết bị, công nghệ mới cho 10 HTX
với tổng kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ 5.032,7 triệu đồng[13]. Các dự án tiêu biểu như: hỗ trợ dây truyền sản xuất
lá tắm người dao cho HTX Quế Sơn và mua máy móc dây truyền sản xuất cho HTX
Nông dược xanh tinh hoa; dự án dây truyền sản xuất mật ong cho HTX mật ong Thống
Nhất (Hoành Bồ); dự án ứng dụng sản xuất nông nghiệp tốt cho HTX SXKD DVNN chất
lượng cao Hoa Phong, dự án hỗ trợ lắp đặt dây truyền sản xuất nước giải khát Ba
Kích cho HTX Dược liệu xanh Đông Triều (Đông Triều); dự án hỗ trợ dây truyền tỏi
đen cho HTX SXKD TMDV nông lâm ngư nghiệp Thái An (Móng Cái); dự án hỗ trợ máy
làm đất, máy cấy, máy gặt đập liên hợp HTX SXKD DVNN Yên Đức (Đông Triều) với sản
phẩm lúa nếp cái hoa vàng.
Các HTX đã góp phần tích cực vào việc
thực hiện quy hoạch vùng trọng điểm lúa năng suất cao, vùng trồng cây ăn quả,
cây công nghiệp, vùng rau màu và rau an toàn. Đẩy mạnh việc kiên cố hóa kênh
mương phục vụ sản xuất và đóng góp đáng kể vào việc xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn: đường, điện, trường học, trạm xá....
3.10. Chính sách hỗ trợ chế biến
sản phẩm của HTX với doanh nghiệp
Ngày 30/7/2019, Hội đồng nhân dân tỉnh
thông qua Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND về việc ban hành chính sách khuyến
khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
tỉnh Quảng Ninh. Theo đó nhiều HTX đã mạnh dạn đầu tư, ứng dụng khoa học kỹ thuật
trong sản xuất, thực hiện liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong việc sản
xuất sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao và có thị trường tiêu thụ bền vững
tiêu biểu[14].
III. ĐÁNH GIÁ
CHUNG
1. Kết quả đạt
được
Luật HTX năm 2012 được ban hành đã tạo
hành lang pháp lý thông thoáng cho việc thành lập và tổ chức hoạt động của các
HTX, đồng thời định hướng cho các HTX hiện đang hoạt động theo đúng bản chất
HTX. Bên cạnh đó là sự quan tâm của Đảng, Chính phủ trong đẩy mạnh phát triển
KTTT[15] với mục đích là hỗ trợ về
chính sách đất đai, cơ sở hạ tầng, KHCN, thuế, đầu tư, vốn, xúc tiến thương mại,
đào tạo... cho KTTT mà nòng cốt là các HTX phát triển. Bên cạnh đó công tác quản
lý nhà nước đối với KTTT đã được các cấp, các ngành địa phương quan tâm thực hiện.
Số lượng HTX, tổ hợp tác tăng và đa dạng,
phù hợp và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế hộ. Công tác tổ chức, quản lý HTX
bước đầu được củng cố, khắc phục tình trạng thua lỗ kéo dài; quản lý HTX đã có
những thay đổi tiến bộ theo hướng dẫn chủ và minh bạch hơn.
Nhiều HTX mới được thành lập, hoạt động
đa dạng hóa về ngành nghề, lĩnh vực, một số liên hiệp HTX được thành lập để tạo
liên kết và mở rộng quy mô sản xuất theo hướng tập trung, quy mô lớn, chuyên
canh; các HTX hoàn thành việc chuyển đổi theo quy định của pháp luật, được củng
cố, từng bước đổi mới về tổ chức hoạt động, thích ứng ngày càng tốt hơn với cơ
chế thị trường; khẳng định rõ hơn vai trò, vị trí của HTX trong nền kinh tế,
góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị cơ sở và đóng góp tích cực
vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong các hoạt động của HTX đã có sự
liên kết, liên doanh với nhau và liên kết hợp tác với các doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế khác để cùng phát triển, do vậy số HTX làm ăn hiệu quả
được duy trì và tăng lên.
Các cơ chế, chính sách của Trung
ương, của tỉnh bước đầu đã tác động tích cực, khuyến khích phát triển kinh tế tập
thể với nòng cốt là HTX. Tạo môi trường thuận lợi, phát huy tiềm lực, lợi thế sẵn
có của kinh tế tập thể, tăng cường năng lực cạnh tranh của kinh tế tập thể
trong điều kiện mới.
2. Tồn tại, hạn
chế
Quy mô hoạt động của các HTX còn nhỏ,
năng lực của một số ít HTX còn bộc lộ nhiều hạn chế, như: Cán bộ lãnh đạo với
trình độ quản lý còn hạn chế, đôi khi làm việc theo kinh nghiệm; việc xây dựng
chiến lược sản xuất kinh doanh đa ngành nghề chưa thực sự hiệu quả, để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của thành viên và của thị trường; nguồn vốn hoạt động còn
thiếu, trong đó việc huy động nguồn lực trong thành viên và ngoài xã hội còn hạn
chế; công tác quản lý tài chính, kế toán của một số HTX còn thiếu chặt chẽ; chất
lượng sản phẩm hàng hóa của HTX chưa được cao, do đó sức cạnh tranh trên thị
trường còn thiếu.
HTX thành lập mới trên địa bàn tỉnh
tuy tăng về số lượng, nhưng chưa đa dạng, chủ yếu vẫn là các HTX hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc tổ chức thực hiện các chính sách khuyến khích
phát triển KTTT ở một số địa phương còn mang tính hình thức, chưa hiệu quả hoặc
chưa được quan tâm đúng mức.
3. Nguyên nhân
- Công tác tuyên truyền chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KTTT chưa thường xuyên, hiệu quả
chưa cao. Đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành HTX trong nền
kinh tế thị trường.
- Việc thể chế hóa các Nghị quyết,
các chính sách để đưa vào thực tiễn tạo điều kiện cho THT, HTX phát triển và
nâng cao hiệu quả hoạt động còn chậm. Một số chính sách, quy định hướng dẫn
chưa sát với thực tế đối với lĩnh vực KTTT như chính sách đất đai, thuế, tín dụng,
đào tạo...
- Các HTX chưa thực sự khắc phục khó
khăn, phát huy nội lực để vươn lên, còn chịu nhiều ảnh hưởng của tư duy cũ của
thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp, tư tưởng trông chờ sự hỗ trợ, giúp đỡ của
Nhà nước; các giải pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thiếu năng động, sáng tạo
trong việc mở mang ngành nghề, đa dạng hóa sản phẩm phù hợp với cơ chế thị trường.
- Chính sách hỗ trợ THT, HTX chưa nhiều,
các giải pháp về tổ chức thực hiện để củng cố và phát triển kinh tế hợp tác hiệu
quả chưa cao, đội ngũ cán bộ quản lý THT, HTX còn ít nhiều chưa đáp ứng yêu cầu
điều hành kinh doanh trong cơ chế thị trường.
- Một số địa phương nhận thức chưa đầy
đủ vị trí, vai trò và tính tất yếu khách quan của KTTT nên chưa thực sự quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền vận động một cách quyết liệt trong phát triển
KTTT.
IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN
NGHỊ
Trung ương tiếp tục rà soát, hoàn thiện
các cơ chế chính sách, đặc biệt về tìm cơ chế tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện
cho các HTX nông nghiệp tiếp cận được vốn vay tín dụng.
Các bộ ngành Trung ương (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ NN và PTNT, Liên minh HTX Việt Nam) có liên quan sớm
triển khai các nội dung đã được Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tại Chỉ thị số
12/CT-TTg ngày 22/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục tăng cường công
tác triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 để tiếp tục triển khai các giải
pháp đồng bộ phát triển hợp tác xã trong thời gian tới.
Phần thứ 2
KẾ HOẠCH PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2022
I. MỘT SỐ YÊU CẦU
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2022
Một số yêu cầu đối với việc phát triển
HTX tỉnh Quảng Ninh năm 2022 là:
1. Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể
năm 2022 tỉnh Quảng Ninh đặt trong kế hoạch phát triển kinh tế tập thể 5 năm
2021 - 2025, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh,
chương trình Xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
2. Phát triển kinh tế tập thể xuất phải
xuất phát từ nhu cầu chung thực tế của các thành viên trên mọi lĩnh vực đời sống
kinh tế - xã hội, trên mọi vùng lãnh thổ; phải theo đúng các giá trị và các
nguyên tắc cơ bản của HTX, mang tính phổ biến trên thế giới áp dụng sáng tạo
phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp “Dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Quan tâm các chỉ tiêu số lượng đồng
thời đặc biệt chú trọng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, hiệu quả (doanh thu,
thu nhập của các thành viên...); các chỉ tiêu xã hội như hiệu quả cung ứng dịch
vụ của hợp tác xã đối với thành viên và kinh tế hộ thành viên, mức độ cạnh
tranh sản phẩm của các hợp tác xã, tạo việc làm mới, thu nhập và mức sống, dịch
vụ của hợp tác xã phục vụ đời sống thành viên và cộng đồng dân cư như giáo dục,
đào tạo, y tế...
II. NỘI DUNG KẾ
HOẠCH
1. Dự báo những
thuận lợi, khó khăn
1.1. Thuận lợi
- Công tác phát triển kinh tế tập thể,
hợp tác xã tiếp tục nhận được sự quan tâm của Đảng, nhà nước và của tỉnh; đã có
nhiều chủ trương, chính sách tạo thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển;
- Môi trường đầu tư kinh doanh ngày
càng được cải thiện; công tác cải cách thủ tục hành chính trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động của các thành phần kinh tế đạt được nhiều kết quả tích
cực, tạo thuận lợi cho các thành phần kinh tế, trong đó có lĩnh vực kinh tế tập
thể, hợp tác xã;
- Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn
bản hướng dẫn thi hành tạo hành lang pháp lý quan trọng cho việc thành lập và
hoạt động của hợp tác xã; một số chính sách mới ban hành trong lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của kinh tế tập thể, hợp
tác xã.
1.2. Khó khăn
- Năng lực tài chính của các hợp tác
xã còn yếu; cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu
trong khi trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế, chưa thật
sự tâm huyết gắn bó lâu dài với hợp tác xã.
- Nguồn lực của địa phương hỗ trợ cho
khu vực kinh tế tập thể tuy được quan tâm, thực hiện nhưng vẫn còn khó khăn,
trong khi nhu cầu cần hỗ trợ của các hợp tác xã tương đối lớn.
- Sản xuất kinh doanh của các THT,
HTX đặc biệt các đơn vị trong lĩnh vực nông nghiệp chịu ảnh hưởng của biến đổi
khí hậu, thời tiết, dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp.
2. Định hướng
chung về phát triển KTTT, HTX
Để sản xuất nông nghiệp bền vững,
phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã thì sản xuất theo chuỗi giá trị có ý
nghĩa vô cùng to lớn, nhất là nước ta đang hội nhập sâu rộng với quốc tế, sản
phẩm nông nghiệp chủ yếu là xuất khẩu. Do đó từng người dân hoặc HTX nhỏ lẻ
không thể tự thực hiện được chuỗi sản xuất và tiêu thụ ở thị trường quốc tế mà
phải liên kết giữa các nông hộ dưới tổ chức HTX và sau đó liên kết và kết nối với
các doanh nghiệp thì mới có thể đủ năng lực đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế
và tăng giá trị cho chuỗi sản phẩm nông nghiệp. Các loại hình HTX trong ngành
nông nghiệp sẽ phát triển đa dạng như: HTX kinh doanh tổng hợp cung ứng dịch vụ;
HTX chuyên ngành sản xuất, cung ứng dịch vụ gắn với chuỗi giá trị. Phần lớn các
HTX nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã có nhận thức đúng về mô hình sản xuất
gắn với chuỗi giá trị. Từ đó số lượng HTX sản xuất gắn với chuỗi giá trị ngày
càng tăng, đang dần trở thành phương thức tổ chức sản xuất phổ biến để tăng trưởng
quy mô, hiệu quả, phát triển bền vững ở khu vực nông nghiệp.
- Tăng cường hướng dẫn, hỗ trợ để
ngày càng có nhiều cá nhân, tổ chức thành lập mới HTX, LH HTX, THT và các HTX
tiến tới sản xuất tập trung, cánh đồng mẫu lớn; liên doanh liên kết để phát triển
sản xuất theo chuỗi.
- Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, phát triển
hợp tác xã nhằm phát huy hơn nữa vai trò của hợp tác xã trong việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, nhất là vùng nông
thôn, miền núi, biên giới, hải đảo.
- Tăng cường phổ biến, tuyên truyền
pháp luật về hợp tác xã, thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ, tạo
điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã phát triển vững mạnh, hoạt động có hiệu
quả, từ đó ngày càng có nhiều mô hình hợp tác xã mới hình thành.
3. Mục tiêu tổng
quát
Thực hiện đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả KTTT, nòng cốt là HTX hoạt động theo Luật HTX năm 2012, đáp ứng
nhu cầu của thành viên và phát triển bền vững, không chỉ chú trọng phát triển về
số lượng mà còn yêu cầu nâng cao về chất lượng. Từng bước đưa khu vực KTTT của
tỉnh phát triển nhanh, nhằm phát huy hơn nữa vai trò, vị trí và tầm quan trọng
của KTTT đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng
nông thôn mới của tỉnh. Đẩy mạnh phát triển các HTX sản xuất theo chuỗi giá trị,
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong thời kỳ mới.
4. Một số mục
tiêu cụ thể
- Lựa chọn tối thiểu 15 Hợp tác xã: đại
diện các lĩnh vực, địa phương có điều kiện phát triển mở rộng để tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo phát huy và lan tỏa nhân rộng;
- Số lượng HTX thành lập mới từ 30 -
50; THT thành lập mới từ 10 - 15;
- Số thành viên tham gia THT, HTX
tăng từ 2 - 3%/năm;
- Bồi dưỡng, đào tạo, tập huấn cho
khoảng 500 - 600 lượt cán bộ quản lý HTX;
- Lãi bình quân 1 HTX đạt: trên 300
triệu đồng/năm;
- Thu nhập bình quân của người lao động
thường xuyên trong HTX đạt: 72 triệu đồng/năm; THT đạt 45 triệu đồng/năm.
- Tỷ lệ cán bộ quản lý HTX có trình độ
trung cấp, cao đẳng, đại học đạt tỷ lệ tăng từ 5% so với năm 2021.
(Có
các phụ lục 1, 2, 3 chi tiết kèm theo)
5. Các giải pháp
phát triển kinh tế tập thể năm 2022
5.1. Tiếp tục thực hiện và hoàn
thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012
- Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương
xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2021;
- Sơ kết, đánh giá hiệu quả Nghị quyết
số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc
ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất, chế biến và
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh đề xuất sửa đổi cho phù hợp với
tình hình chung của tỉnh.
5.2. Tuyên truyền, tập huấn Luật
HTX năm 2012 và nâng cao năng lực nguồn nhân lực HTX
- Tổ chức tối thiểu 20 lớp bồi dưỡng,
tập huấn cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật là thành viên hợp tác xã;
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước về đổi mới,
phát triển kinh tế tập thể, về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của hợp tác xã
trong điều kiện mới đối với các thành viên hợp tác xã và cộng đồng dân cư;
- Tuyên truyền về Luật HTX và các Nghị
định của Chính phủ có liên quan nhằm nâng cao nhận thức trong cán bộ, nhân dân.
Các cấp từ tỉnh đến xã tăng cường chỉ đạo, vận động các tổ chức, cá nhân thành
lập mới HTX, gắn trách nhiệm của địa phương với việc thực hiện kế hoạch, mục
tiêu đổi mới và phát triển kinh tế tập thể, HTX.
- Liên minh HTX tỉnh phát huy vai trò
cơ quan đầu mối, tăng cường công tác tư vấn, hướng dẫn các HTX hoạt động tuân
thủ nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo Luật HTX, hỗ trợ tạo mọi điều kiện thuận
lợi để phát triển HTX; phối hợp với các Sở, ban, ngành có liên quan tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ quản lý HTX, các hoạt động xúc tiến thương
mại, liên doanh, liên kết. Đặc biệt, quan tâm công tác liên doanh, liên kết sản
xuất theo chuỗi giá trị khép kín từ khâu đầu vào sản xuất, chế biến đến khâu đầu
ra tiêu thụ, trong đó có sự liên kết giữa các HTX với nhau và giữa các HTX với
doanh nghiệp và các loại hình kinh tế khác.
5.3. Tổ chức triển khai thực hiện
chính sách hỗ trợ; ưu đãi phát triển hợp tác xã theo Chương trình hỗ trợ phát
triển hợp tác xã đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
- Quản lý, khai thác vận hành các
công trình sau khi hoàn thành nằm trong kế hoạch đấu thầu dịch vụ công ích, đặt
hàng, giao kế hoạch của các cấp (kể cả công trình chợ và công trình hạ tầng phục
vụ phát triển cụm công nghiệp và cụm làng nghề ở nông thôn);
- Thực hiện các dự án, chương trình
phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn phù hợp với khả năng của HTX,
Liên hiệp HTX.
- Cơ chế hỗ trợ, ưu đãi:
+ Được ưu tiên lựa chọn khi tham gia
đấu thầu, đặt hàng các dịch vụ công ích (nếu đáp ứng đủ điều kiện);
+ Được ưu tiên tham gia lựa chọn các đơn
vị thi công các công trình hạ tầng xây dựng nông thôn mới (nếu đáp ứng đủ điều
kiện).
- Ưu tiên bố trí vốn hỗ trợ HTX thực
hiện các dự án gắn với liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và tham gia Chương
trình OCOP, tham gia xúc tiến thương mại.
5.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của khu vực KTTT, HTX
- Tổ chức rà soát, đánh giá tình hình
hoạt động của HTX sau khi tổ chức lại theo Luật HTX năm 2012. Tiếp tục tư vấn
nâng cao năng lực quản lý, điều hành hoạt động, phương án sản xuất kinh doanh,
đào tạo nguồn nhân lực cho HTX. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tạo sự
chuyển biển sâu rộng về nhận thức trong xã hội về bản chất, vai trò của KTTT; cụ
thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách về phát triển KTTT trên
địa bàn tỉnh; tăng cường công tác quản lý Nhà nước và đẩy mạnh công tác giải thể
các hợp tác xã hoạt động kém hiệu quả, hoạt động mang tính hình thức;
- Xây dựng và nhân rộng các mô hình
HTX kiểu mới hiệu quả trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày
03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ; nghiên cứu thành lập, đề xuất phương án hoạt
động Quỹ hỗ trợ phát triển HTX và nâng cao hiệu quả theo Nghị định số
45/2021/NĐ-CP ngày 31/3/2021 của Chính phủ; huy động tổng hợp các nguồn lực
trong và ngoài hệ thống để hỗ trợ các HTX xây dựng phương án khôi phục, hỗ trợ
chuyển đổi số, xây dựng sàn thương mại điện tử, trung tâm giới thiệu sản phẩm,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý HTX, phát triển sản xuất, kinh doanh
thích ứng với diễn biến của dịch bệnh COVID-19 theo Nghị quyết số 105/NQ-CP
ngày 09/9/2021 của Chính phủ;
- Liên minh Hợp tác xã chủ động bám
sát cơ sở; tiếp cận, tư vấn, hỗ trợ cho thành viên; nắm bắt kịp thời tâm tư,
nguyện vọng, nhu cầu, bất cập và vướng mắc về hoạt động, chính sách và pháp luật
để phản ảnh cho cơ quan chức năng; đồng thời tham mưu, đề xuất các cơ chế,
chính sách đặc thù (nếu cần) hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, HTX, nhất là những
vấn đề liên quan đến tác động của dịch bệnh COVID-19.
- Tập trung thực hiện đồng bộ các giải
pháp để phát triển các tổ chức KTTT theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Nắm bắt
và phản ánh chính xác tình hình hoạt động của kinh tế tập thể, HTX; làm tốt
công tác tư vấn, hỗ trợ nhất là trong các lĩnh vực đào tạo, tiếp cận các nguồn
vốn vay, chính sách đất đai, thông tin thị trường, xây dựng thương hiệu, tổ chức
hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, kế toán kiểm toán, ứng dụng khoa học công nghệ trong
sản xuất, kinh doanh của HTX; mở rộng khả năng và phạm vi cung cấp dịch vụ
công, xúc tiến thương mại cho phần lớn HTX, tư vấn và hỗ trợ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên.
5.5. Tăng cường công tác quản
lý nhà nước về kinh tế tập thể
Kiện toàn bộ máy, cán bộ quản lý nhà
nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã tại địa phương: Trên cơ sở chức năng, nhiệm
vụ được giao, đề xuất giao nhiệm vụ cụ thể quản lý nhà nước về kinh tế tập thể,
hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp cho từng cấp trong hệ thống quản lý về
kinh tế tập thể, hợp tác xã. Phân định rõ nhiệm vụ của từng đơn vị để xây dựng
kế hoạch phối hợp thực hiện; Tổ chức thanh tra, kiểm tra thực hiện pháp luật tại
các Hợp tác xã, xử lý vi phạm pháp luật HTX theo quy định của Luật Hợp tác xã
năm 2012.
5.6. Huy động các lực lượng xã
hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế thúc đẩy phát triển kinh tế tập
thể
- Cấp ủy Đảng cấp huyện, thị xã thành
phố thuộc tỉnh tập trung chỉ đạo: (1). Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể, HTX hiện có theo Luật HTX năm 2012 trên cơ sở rà soát, củng
cố lại các HTX hiện có; Vận động HTX thu hút thêm thành viên, hợp nhất, sáp nhập
HTX cùng ngành nghề và địa bàn hoạt động để tăng tiềm lực tài chính, đất đai và
quy mô hoạt động của HTX; (2). Chủ động xây dựng và nhân rộng các mô
hình HTX kiểu mới hiệu quả trên địa bàn theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày
03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ, phấn đấu mỗi địa phương có từ 01 - 02 HTX
kiểu mới hoạt động hiệu quả cao để lan tỏa; Ưu tiên phát triển mô hình HTX hiệu
quả trong lĩnh vực nông nghiệp, đầu tư theo chuỗi, liên kết với doanh nghiệp;
- Phát huy vai trò và trách nhiệm của
Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong việc vận động quần
chúng, thành viên tự nguyện tham gia phát triển KTTT, HTX và thực hiện các quy
định pháp luật về KTTT; xây dựng chương trình, kế hoạch hành động, phối hợp với
các tổ chức thành viên trong việc phát triển KTTT.
Giám đốc các sở, ban, ngành, Chủ tịch
UBND các huyện thị xã thành phố trong tỉnh theo chức năng nhiệm vụ được giao
căn cứ kế hoạch này và tình hình địa phương xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế
tập thể năm 2022 tại đơn vị mình (hoàn thành trước ngày 25/11/2021), đồng thời
đôn đốc, kiểm tra, giám sát thực hiện kế hoạch. Định kỳ ngày 20 tháng cuối quý
báo cáo quý, ngày 20 tháng 12 báo cáo năm kết quả thực hiện Kế hoạch về UBND tỉnh
(qua Sở Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp). Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối triển
khai thực hiện kế hoạch, định kỳ báo cáo và đề xuất Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ
Ngành Trung ương theo quy định để hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể./.
Nơi nhận:
- Bộ KHĐT (b/c);
- Liên minh HTX Việt Nam (b/c);
- CT, P4 UBND tỉnh (b/c);
- Thành viên BCĐ phát triển KTTT tỉnh;
- UBND các huyện, tx, tp;
- V0, V1, V2, NLN1, 3, TM4;
- Lưu: VT, NLN3 (05b, KH30).
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Phạm Văn Thành
|
PHỤ LỤC 1
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM 2021
VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2022
(Kèm theo Kế hoạch số: 203/KH-UBND Quảng Ninh ngày 21/10/2021 của UBND tỉnh
Quảng Ninh)
TT
|
Chỉ
tiêu
|
Đơn
vị tính
|
Thực
hiện năm 2020
|
Năm
2021
|
Kế
hoạch năm 2022
|
Kế
hoạch
|
Ước
thực hiện cả năm
|
I
|
Hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số hợp tác xã
|
HTX
|
585
|
620
|
623
|
668
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số HTX đang hoạt động
|
HTX
|
528
|
595
|
565
|
618
|
|
Số hợp tác xã thành lập mới
|
HTX
|
60
|
83
|
38
|
60
|
|
Số hợp tác xã giải thể
|
HTX
|
7
|
16
|
1
|
2
|
|
Số hợp tác xã đạt loại tốt, khá (*)
|
HTX
|
280
|
305
|
298
|
320
|
|
Số HTX ứng dụng công nghệ cao
|
HTX
|
32
|
42
|
34
|
38
|
|
Số HTX nông nghiệp liên kết với DN
theo chuỗi giá trị
|
HTX
|
22
|
27
|
23
|
27
|
2
|
Tổng số thành viên hợp tác xã
|
Người
|
55.000
|
63.008
|
55.140
|
60.200
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số thành viên mới
|
Thành
viên
|
300
|
250
|
250
|
280
|
|
Số thành viên ra khỏi hợp tác xã
|
Thành
viên
|
|
|
|
|
3
|
Tổng số lao động thường xuyên trong
hợp tác xã
|
Thành
viên
|
71.190
|
72.200
|
71.440
|
78.000
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số lao động thường xuyên mới
|
Người
|
35.300
|
36.500
|
37.593
|
41.000
|
|
Số lao động là thành viên hợp tác
xã
|
Người
|
33.600
|
54.790
|
35.783
|
39.000
|
4
|
Tổng số cán bộ quản lý hợp tác xã
|
Người
|
4.750
|
4.802
|
5.059
|
5.500
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số cán bộ quản lý hợp tác xã đã qua
đào tạo đạt trình độ sơ, trung cấp
|
Người
|
3.450
|
3.537
|
3.674
|
4.000
|
|
Số cán bộ quản lý hợp tác xã đã qua
đào tạo đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên
|
Người
|
1.140
|
1.151
|
1.214
|
1.300
|
5
|
Doanh thu bình quân một hợp tác xã
|
Triệu
đồng/năm
|
600
|
600
|
600
|
650
|
|
Trong đó: doanh thu của hợp tác xã
với thành viên
|
Triệu
đồng/năm
|
700
|
700
|
700
|
750
|
6
|
Lãi bình quân một hợp tác xã
|
Triệu
đồng/năm
|
290
|
290
|
290
|
310
|
7
|
Thu nhập bình quân của lao động thường
xuyên trong HTX
|
Triệu
đồng/năm
|
68
|
69
|
69
|
74
|
II
|
Liên hiệp hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số liên hiệp hợp tác xã
|
LH
HTX
|
2
|
3
|
|
3
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động
|
LH
HTX
|
3
|
3
|
|
4
|
|
Số liên hiệp hợp tác xã thành lập mới
|
LH
HTX
|
1
|
0
|
|
1
|
|
Số liên hiệp hợp tác xã giải thể
|
LH
HTX
|
|
0
|
|
0
|
2
|
Tổng số hợp tác xã thành viên
|
HTX
|
6
|
13
|
|
20
|
3
|
Tổng số lao động trong liên hiệp hợp
tác xã
|
Người
|
350
|
430
|
|
550
|
4
|
Doanh thu bình quân một liên hiệp hợp
tác xã
|
Triệu
đồng/năm
|
3
|
3
|
|
3
|
5
|
Lãi bình quân một liên hiệp hợp tác
xã
|
Triệu
đồng/năm
|
100
|
100
|
|
100
|
III
|
Tổ hợp tác
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số Tổ hợp tác
|
THT
|
195
|
215
|
210
|
230
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số Tổ hợp tác có đăng ký hoạt động
với chính quyền
|
THT
|
190
|
190
|
193
|
205
|
2
|
Tổng số thành viên
|
Thành
viên
|
610
|
628
|
620
|
670
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số thành viên mới thu hút
|
|
|
28
|
10
|
35
|
3
|
Doanh thu bình quân một Tổ hợp tác
|
Triệu
đồng/năm
|
2.700
|
270
|
270
|
280
|
4
|
Lãi bình quân một Tổ hợp tác
|
Triệu
đồng/năm
|
35
|
35
|
35
|
38
|
PHỤ LỤC 2
SỐ LƯỢNG HỢP TÁC XÃ, LIÊN HIỆP HỢP TÁC
XÃ, TỔ HỢP TÁC PHÂN LOẠI THEO NGÀNH NGHỀ NĂM 2021 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2022
(Kèm theo Kế hoạch số: 203/KH-UBND Quảng Ninh ngày 21/10/2021 của UBND tỉnh Quảng
Ninh)
TT
|
Chỉ
tiêu
|
Đơn
vị tính
|
Thực
hiện Năm 2020
|
Năm
2021
|
Kế
hoạch hiện năm 2022
|
Kế
hoạch
|
Ước
thực hiện năm 2021
|
I
|
Hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số HTX
|
HTX
|
585
|
620
|
623
|
668
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
1
|
Hợp tác xã nông - lâm - ngư - diêm
nghiệp
|
HTX
|
370
|
410
|
380
|
410
|
2
|
Hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ
CN
|
HTX
|
30
|
31
|
31
|
34
|
3
|
Hợp tác xã xây dựng
|
HTX
|
18
|
15
|
20
|
16
|
4
|
Hợp tác xã tín dụng
|
HTX
|
2
|
2
|
2
|
2
|
5
|
Hợp tác xã thương mại
|
HTX
|
90
|
93
|
110
|
118
|
6
|
Hợp tác xã vận tải
|
HTX
|
40
|
45
|
40
|
43
|
9
|
Hợp tác xã khác
|
HTX
|
35
|
53
|
40
|
45
|
II
|
Liên hiệp HTX
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số
|
LH
|
3
|
3
|
3
|
3
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
1
|
Liên hiệp hợp tác xã nông - lâm -
ngư - diêm nghiệp
|
LH
|
1
|
1
|
1
|
1
|
2
|
Liên hiệp hợp tác xã công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp
|
LH
|
|
|
|
|
3
|
Liên hiệp hợp tác xã xây dựng
|
LH
|
|
|
|
|
4
|
Liên hiệp hợp tác xã tín dụng
|
LH
|
|
|
|
|
5
|
Liên hiệp hợp tác xã thương mại
|
LH
|
|
|
|
|
6
|
Liên hiệp hợp tác xã vận tải
|
LH
|
|
|
|
|
7
|
Liên hiệp hợp tác khác
|
LH
|
2
|
2
|
2
|
1
|
III
|
Tổ hợp tác
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số Tổ hợp tác
|
THT
|
195
|
215
|
210
|
230
|
|
Chia ra:
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổ hợp tác nông - lâm - ngư - diêm
nghiệp (có chứng thực)
|
THT
|
101
|
110
|
110
|
120
|
2
|
Tổ hợp tác công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp
|
THT
|
54
|
57
|
55
|
60
|
3
|
Tổ hợp tác xây dựng
|
THT
|
|
|
3
|
3
|
4
|
Tổ hợp tác thương mại
|
THT
|
|
|
|
2
|
5
|
Tổ hợp tác vận tải
|
THT
|
|
|
|
|
8
|
Tổ hợp tác khác
|
THT
|
|
|
|
|
PHỤ LỤC 3
HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ NĂM
2021 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2022
(Kèm theo kế hoạch số: 203/KH-UBND Quảng Ninh ngày 21/10/2021 của UBND tỉnh
Quảng Ninh)
STT
|
Chỉ tiêu
|
ĐVT
|
Năm 2020
|
Ước thực hiện năm 2021
|
Kế hoạch năm 2022
|
Tổng số
|
Trong đó
|
Tổng số
|
Trong đó
|
Tổng số
|
Trong đó
|
CTMTQG XD Nông thôn mới
|
Nguồn vốn khác
|
CTMTQG XD Nông thôn mới
|
Nguồn vốn khác
|
CTMTQG ND Nông thôn mới
|
Nguồn vốn khác
|
I
|
HỖ TRỢ
CHUNG ĐỐI VỚI CÁC HTX
|
1
|
Hỗ trợ
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, thí điểm cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học,
cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1.1
|
Số người được
cử đi đào tạo
|
Người
|
450
|
|
|
450
|
|
|
450
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
746.500
|
|
746.500
|
762.500
|
|
762.500
|
762.500
|
|
762.500
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
746.500
|
|
746.500
|
762.500
|
|
762.500
|
762.500
|
|
762.500
|
1.2
|
Số người được
tham gia bồi dưỡng
|
Người
|
600
|
|
|
540
|
|
|
540
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
1.006,7
|
1.006,7
|
|
564,35
|
564,35
|
|
564,35
|
564,35
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
1.006,7
|
1.006,7
|
|
564,35
|
564,35
|
|
564,35
|
564,35
|
|
1.3
|
Thí điểm số
cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học cao đẳng về làm việc có thời hạn ở HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
|
291,24
|
125,88
|
|
291,240
|
125,880
|
|
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân sách
địa phương
|
Tr.đồng
|
|
276,120
|
|
|
291,240
|
|
|
|
|
2
|
Hỗ trợ về
xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
6
|
6
|
|
4
|
4
|
|
4
|
4
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
529,279
|
529,279
|
|
400
|
400
|
|
400
|
400
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
529,279
|
529,279
|
|
400
|
400
|
|
400
|
400
|
|
3
|
Hỗ trợ về
ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
2
|
|
|
4
|
4
|
|
4
|
4
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
200
|
200
|
|
400
|
400
|
|
400
|
400
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
200
|
200
|
|
400
|
400
|
|
400
|
400
|
|
4
|
Hỗ trợ về
tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
|
18
|
|
|
9
|
|
|
10
|
|
|
|
Tổng số vốn
được vay
|
|
8,546
|
|
|
8,000
|
3,145
|
4,855
|
10,000
|
|
|
5
|
Tạo điều
kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế xã hội
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Hỗ trợ
thành lập mới
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
24
|
|
|
18
|
|
|
30
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
600
|
600
|
|
450
|
450
|
|
750
|
750
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
600
|
600
|
|
450
|
450
|
|
750
|
750
|
|
II
|
HỖ TRỢ
RIÊNG ĐỐI VỚI HTX NÔNG, LÂM, NGƯ, DIÊM NGHIỆP
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
1
|
Hỗ trợ đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2
|
Hỗ trợ
giao đất, cho thuê đất
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2.1
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ giao đất
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
0
|
|
Tổng diện
tích đất được giao
|
0
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2.2
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ cho thuê đất
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng diện
tích đất được cho thuê
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
2.3
|
Số hợp tác
xã được miễn, giảm tiền thuê đất
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số tiền
thuê đất được miễn giảm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3
|
Ưu đãi về
tín dụng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
3.1
|
Số hợp tác
xã được vay tổ chức tín dụng
|
HTX
|
|
|
|
6
|
|
|
120
|
|
|
|
Số tiền được
vay tổ chức tín dụng
|
Tr.đồng
|
4.000
|
4.000
|
|
|
|
5.800
|
|
|
20,000
|
3.2
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ lãi suất vay
|
HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số tiền được
hỗ trợ lãi suất
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
4
|
Hỗ trợ vốn,
giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân sách
địa phương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
5
|
Hỗ trợ về
chế biến sản phẩm
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác
xã được hỗ trợ
|
HTX
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng kinh
phí hỗ trợ
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Trong đó
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách trung ương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Ngân
sách địa phương
|
Tr.đồng
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
6
|
Hỗ trợ
khác
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
[1] Tính đến hết
tháng 12/2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 195 THT
[2] Tính đến tháng 12/2020
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 585 THT
[3] Chỉ tiêu toàn tỉnh
thành lập mới 60 HTX theo Quyết định số 136/QĐ-UBND ngày 18/01/2021 của UBND tỉnh:
Số lượng HTX mới thành lập ở các địa phương cụ thể như sau: TX. Đông Triều 01
HTX, TP. Hạ Long 05 HTX, TP. Cẩm Phả 02 HTX, H. Tiên Yên 01 HTX, H. Bình Liêu
02 HTX, TP. Móng Cái 01 HTX, H. Ba Chẽ 01 HTX, H. Vân Đồn 02 HTX, TX. Quảng Yên
01 HTX, TP. Uông Bí 01 HTX, H. Đầm Hà 02 HTX, H. Hải Hà, H. Cô Tô chưa có HTX
thành lập mới.
[4] Tính đến tháng
12/2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 195 THT với 582 thành viên.
[5] Tính đến hết tháng
9/2020: tổng số cán bộ quản lý HTX là 4.676 người; trong đó cán bộ đạt trình độ
trung cấp 3.507 người; trình độ cao đẳng, đại học: 1.075 người, còn lại là sơ cấp.
[6] Chính sách đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; Chính
sách tiếp cận nguồn vốn phát triển HTX; Chính sách hỗ trợ thành lập mới HTX;
Chính sách xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường; Hỗ trợ đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng; Chính sách hỗ trợ giống, vốn khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch
bệnh; Chính sách tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình
phát triển kinh tế-xã hội.
[7] Quyết định số
3738/QĐ-UBND ngày 05/9/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh về việc Phê duyệt
danh sách HTX tham gia mô hình thí điểm đưa cán bộ trẻ tốt nghiệp đại học về
làm việc có thời hạn tại HTX nông nghiệp giai đoạn 2019-2020; Quyết định số
35/2019/QĐ-UBND ngày 11/11/2019 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc Quy định triển
khai thực hiện Nghị quyết số 194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân
dân tỉnh về ban hành chính sách khuyến khích đầu tư, liên kết trong sản xuất,
chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh; Quyết định số
02/QĐ-UBND ngày 03/01/2020 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc Phê duyệt chủ
trương đầu tư Danh mục dự án khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Nghị quyết số
194/2019/NQ-HĐND ngày 30/7/2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh, giai đoạn 2019-2023.
[8] Sản phẩm gà Tiên
Yên, Lợn Móng Cái, mật ong, củ cải khô, cam, na, trùng vịt biển, tỏi đen, khoai
lang tươi, măng tươi, miến dong, nấm linh chi, gạo Bao Thai, Lạc, lá tăm, sản
phẩm rau củ quả an toàn,...
[9] Dự án ứng dụng
khoa học công nghệ xây dựng mô hình chăn nuôi gà TP cho thịt theo hướng liên kết
chuỗi giá trị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm thịt gà hàng hóa phục vụ phát
triển kinh tế tỉnh Quảng Ninh.
[10] HTX Đống Chén
tham gia mô hình nuôi thương phẩm nhuyễn thể thuộc nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh
“Nghiên cứu bệnh và dịch hại trên một số loài nhuyễn thể 2 mảnh vỏ nuôi chủ yếu
tại Quảng Ninh và đề xuất giải
pháp phòng chống”; HTX dịch vụ nông nghiệp chất
lượng cao Hoa Phong tham gia triển khai các thí nghiệm, mô hình nhân giống “xây
dựng mô hình sản xuất rau dược liệu theo chuỗi giá trị hàng hóa, phục vụ người
tiêu dùng tại thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh”.
[11] HTX Tuấn Hùng triển
khai mô hình sản xuất giống lúa Bao thai nguyên chủng cung cấp cho các huyện miền
đông.
[12] Hướng dẫn số
2160/SNNPTNT-STC ngày 6/7/2017 về Hướng dẫn một số nội dung khôi phục sản xuất
nông nghiệp vùng thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
theo Quyết định số 1568/2017/QĐ-UBND ngày 18/5/2017 của UBND tỉnh.
[13] Các dự án tiêu biểu
như: hỗ trợ dây truyền sản xuất lá tắm người dao cho HTX Quế Sơn và mua máy móc
dây truyền sản xuất cho HTX Nông dược xanh tinh hoa; dự án dây truyền sản xuất
mật ong cho HTX mật ong Thống Nhất (Hoành Bồ); dự án ứng dụng sản xuất nông
nghiệp tốt cho HTX SXKD DVNN chất lượng cao Hoa Phong, dự án hỗ trợ lắp đặt dây
truyền sản xuất nước giải khát Ba Kích cho HTX Dược liệu xanh Đông Triều (Đông
Triều); dự án hỗ trợ dây truyền tỏi đen cho HTX SXKD TMDV nông lâm ngư nghiệp
Thái An (Móng Cái); dự án hỗ trợ máy làm đất, máy cấy, máy gặt đập liên hợp HTX
SXKD DVNN Yên Đức (Đông Triều) với sản phẩm lúa nếp cái hoa vàng.
[14] Phê duyệt 04 dự
án liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ dược liệu; 03 dự án liên kết sản xuất,
chế biến và tiêu thụ dong riềng chưa phê duyệt dự án) tại 02 huyện Ba Chẽ và
Bình Liêu. Thúc đẩy liên kết sản xuất, một số HTX đã thực hiện liên kết với
doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm như HTX dịch vụ nông nghiệp Bình Dương, thị
xã Đông Triều liên kết với Công ty TNHH OISY đầu tư sản xuất và tiêu thụ củ
khoai tây với diện tích 40ha; HTX dịch vụ chất lượng cao Hoa Phong, thị xã Đông
Triều liên kết với Công ty cổ phần than Mạo Khê cung cấp rau, gạo, trứng, thịt,
cá an toàn cho bếp ăn của công ty; liên hiệp HTX nông dược Quảng Ninh, thành phố
Hạ Long liên kết với Công ty cổ
phần Sachainchi Việt Nam, Công ty cổ phần Chè Tân Cương Hoàng Bình, Công ty cổ
phần tinh dầu và dược liệu việt Nam; Công ty cổ
phần bánh mứt kẹo Bảo Minh để cung cấp nguyên
liệu, chế biến và kỹ thuật trồng trọt cũng như chế biến sản phẩm bánh, kẹo từ
cây chùm ngây...
[15] Quyết định số:
2261/QĐ-TTg , ngày 15/12/2014 phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai
đoạn 2015-2020; Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 07/3/2017 của Ban Thường vụ tỉnh ủy.