HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 14/2006/NQ-HĐND
|
Hải Phòng, ngày 21
tháng 7 năm 2006
|
NGHỊ
QUYẾT
VỀ
ĐẨY MẠNH XÃ HỘI HOÁ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO, Y TẾ, VĂN HOÁ, THỂ DỤC THỂ
THAO GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
KHOÁ XIII, KỲ HỌP THỨ 7
(Từ ngày 11
đến ngày 13 tháng 7 năm 2006)
Căn cứ Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân;
Căn cứ Nghị quyết số
05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao và các văn bản pháp luật khác có
liên quan;
Sau khi xem xét Tờ
trình số 32/TTr-UBND ngày 03/7/2006 của Uỷ ban nhân dân thành phố về đẩy mạnh
xã hội hóa các hoạt động giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao
giai đoạn 2006 - 2010 thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ; Báo
cáo thẩm tra của Ban Văn hoá xã hội Hội đồng nhân dân thành phố, Hội đồng nhân
dân thành phố thảo luận,
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Về
tình hình và kết quả thực hiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo, y tế,
văn hóa, thể dục thể thao giai đoạn 2001 - 2005.
Hội đồng nhân dân thành phố tán thành nội
dung đánh giá tình hình, kết quả thực hiện xã hội hoá các hoạt động giáo dục -
đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao giai đoạn 2001 - 2005 tại Tờ trình và
Đề án của Uỷ ban nhân dân thành phố, đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề sau:
- Công tác xã hội hoá đã huy động được
khá lớn nguồn lực của toàn xã hội cùng với ngân sách nhà nước đầu tư phát triển
giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; phát triển đa dạng các hoạt
động công lập, ngoài công lập, tạo ra nhiều loại hình dịch vụ, góp phần nâng
cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; bước đầu đã hình thành những mô hình mới,
điển hình tiên tiến theo hướng xã hội hoá.
- Tuy vậy, quy mô và tốc độ xã hội hoá
còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng của các lĩnh vực, chưa theo kịp yêu cầu
đổi mới; xã hội hoá không đồng đều giữa các ngành, địa phương; quản lý nhà nước
đối với các cơ sở ngoài công lập còn bất cập; chất lượng các sản phẩm dịch vụ
và phục vụ của các cơ sở ngoài công lập, nhất là các cơ sở thuộc lĩnh vực giáo
dục đào tạo và y tế chưa cao, có lúc, có nơi còn chạy theo lợi nhuận, nhận thức
của một bộ phận cán bộ, nhân dân về xã hội chưa đầy đủ: còn nặng tư tưởng bao cấp,
trông chờ, ỷ lại vào ngân sách nhà nước; coi xã hội hoá chỉ là biện pháp huy động
sự đóng góp của nhân dân; giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao là phúc lợi
do nhà nước đầu tư; cơ chế, chính sách về xã hội hoá chưa đồng bộ và đầy đủ,
chưa tạo được hành lang pháp lý để đẩy mạnh xã hội hoá.
Điều 2. Quan
điểm, mục tiêu đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao giai đoạn 2006 - 2010.
1. Quan điểm:
- Xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục - đào
tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao là tất yếu khách quan, chính sách lâu dài
của Đảng và Nhà nước. Thực hiện xã hội hoá là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, các sở, ban, ngành, đoàn thể, cá nhân và toàn xã hội. Tiếp tục
tăng cường đầu tư bằng ngân sách nhà nước cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cường
quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực xã hội hoá, ưu tiên xây dựng
kết cấu hạ tầng, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ cho vùng
xa, hải đảo, trợ giúp cho những người thuộc diện chính sách xã hội và người
nghèo.
- Xã hội hóa là vừa huy động nguồn lực
toàn xã hội để phát triển các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục
thể thao, vừa là để mọi người dân được tham gia đóng góp, quản lý, kiểm tra,
giám sát các hoạt động và được thụ hưởng các thành quả trong các lĩnh vực này.
Khuyến khích tối đa sự tham gia của người dân, của cộng đồng vào sự nghiệp phát
triển các lĩnh vực văn hoá xã hội. Đồng thời, tăng cường quản lý các nguồn vốn
của nhà nước trong quá trình chuyển đổi các cơ sở công lập sang ngoài công lập.
2. Mục tiêu:
a) Mục tiêu tổng quát:
- Phát huy tiềm năng, trí tuệ và vật chất
trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục- đào tạo, y tế,
văn hoá, thể dục thể thao; tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng
chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả của các lĩnh vực này.
- Góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội thành phố đến năm 2010, tạo nền tảng vững chắc để Hải
Phòng cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, văn minh, hiện đại trước năm
2020, một trong những trung tâm giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao mạnh của vùng Duyên hải Bắc bộ và cả nước.
b) Mục tiêu đến năm 2010:
- Giáo dục - đào tạo: Chuyển từng bước
các cơ sở bán công sang loại hình dân lập hoặc tư thục; các trường mầm non ở
ngoại thành có bước chuyển đổi phù hợp với tình hình, điều kiện của địa phương;
tỷ lệ học sinh ở các trường ngoài công lập so với tổng số học sinh đến trường
phấn đấu đạt như sau: Nhà trẻ: 80% trẻ, mẫu giáo: 75% học sinh, trung học phổ
thông: 40% học sinh, trung học chuyên nghiệp: 30% học sinh, đại học và cao đẳng:
40% sinh viên; thành lập trung tâm học tập cộng đồng ở tất cả các xã, phường,
thị trấn. Chuyển phần lớn cơ sở dạy nghề công lập sang hoạt động theo cơ chế tự
chủ cung ứng dịch vụ. Các cơ sở dạy nghề ngoài công lập và cơ sở dạy nghề hoạt
động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ trong hệ thống các trường dạy nghề do
thành phố quản lý đạt tỷ lệ như sau: Cơ sở dạy nghề ngoài công lập: 40%, cơ chế
tự chủ cung ứng dịch vụ: 40%; học sinh học nghề dài hạn ngoài công lập 40%, cơ
chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích: 25%; học sinh học nghề ngắn hạn ngoài
công lập: 40%, cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích: 35%; tăng mọi nguồn lực
cho phát triển đào tạo nghề, phấn đấu tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn vốn
khác lên 75%; qui mô tuyển sinh đào tạo trung cấp nghề và cao đẳng nghề đạt 8.000
- 10.000 học sinh/năm, đào tạo sơ cấp nghề đạt 15.000 học sinh/năm.
- Y tế: Phấn đấu thực hiện bảo hiểm y tế
toàn dân; phấn đấu chuyển hầu hết các cơ sở y tế công lập sang hoạt động theo
cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ; các cơ sở y tế ngoài công lập (bệnh viện, phòng
khám tư nhân, bác sĩ gia đình) tăng thêm 1,5 đến 2 lần hiện nay, đáp ứng được
trên 20% nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân; có cơ chế khuyến khích phát triển
từ 1 đến 2 bệnh viện tư nhân và 1 bệnh viện quốc tế trên địa bàn thành phố.
- Văn hoá: Khuyến khích các hoạt động
sáng tạo văn hoá nghệ thuật, sưu tầm, phát huy và phát triển các loại hình di sản
văn hoá vật thể, phi vật thể của Hải Phòng; xây dựng đời sống văn hoá cơ sở.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư và phát triển văn hoá; phát động
toàn dân tham gia xây dựng nếp sống văn hoá của người Hải Phòng trên các mặt
giao tiếp, ứng xử, lối sống, nếp nghĩ, tác phong làm việc... Chuyển toàn bộ các
cơ sở công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ; đẩy nhanh tiến
độ xây dựng Trung tâm văn hoá thành phố, tiếp tục đầu tư xây dựng và phát triển
thiết chế văn hoá cơ sở, phong trào văn nghệ quần chúng; sắp xếp lại 5 đoàn nghệ
thuật công lập hiện nay, hình thành: Nhà hát Sân khấu truyền thống công lập
trên cơ sở sáp nhập 3 đoàn nghệ thuật: Cải lương, Chèo và Múa rối. Kiện toàn tổ
chức, đầu tư nâng cao chất lượng Đoàn Kịch nói và Đoàn Ca múa, từng bước chuyển
sang loại hình ngoài công lập.
- Thể dục thể thao: Chuyển toàn bộ các
cơ sở thể dục thể thao công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch
vụ công ích hoặc ngoài công lập; đảm bảo diện tích đất cho các công trình thể dục
thể thao đạt bình quân 3m2/người; phát triển phong trào thể thao quần
chúng, huy động tỷ lệ dân số có tham gia hoạt động thể dục thể thao đạt 45%, trong
đó tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 25%; thể thao thành tích cao tập
trung đầu tư cho 15 môn thể thao trọng điểm; từng bước tạo lập và phát triển thị
trường dịch vụ thể dục thể thao; khuyến khích phát triển các cơ sở thể dục thể
thao ngoài công lập, các hiệp hội hoặc liên đoàn thể dục thể thao; khuyến khích
chuyên nghiệp hoá thể thao thành tích cao, trước mắt là bóng đá.
Điều 3. Giải
pháp chủ yếu đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục - đào tạo, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao đến năm 2010.
1. Tổ chức tốt công tác học tập, quán
triệt, tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về
đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao, dạy nghề, tạo bước chuyển biến mới về nhận thức của tất cả các cấp, các
ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị và toàn thể nhân dân, xoá bỏ tư tưởng bao cấp,
trông chờ ỷ lại vào nhà nước.
2. Khẩn trương bổ sung, hoàn chỉnh quy
hoạch phát triển các ngành đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, làm căn cứ
xây dựng quy hoạch, kế hoạch, lộ trình cụ thể thực hiện xã hội hoá, các bước đi
thích hợp chuyển đổi các cơ sở bán công sang dân lập hoặc tư thục, cơ sở công lập
sang hoạt động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ hoặc sang loại hình ngoài
công lập. Công khai quy hoạch ngành để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, ưu tiên lĩnh vực đòi hỏi công nghệ và kỹ
thuật cao, trước hết là giáo dục đào tạo, y tế, sản xuất dược phẩm và trang thiết
bị y tế, dạy nghề.
3. Tăng cường đầu tư ngân sách cùng với
các nguồn huy động khác cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể
dục thể thao.
Tăng chi ngân sách thường xuyên hàng năm
cho các lĩnh vực này tương ứng với tỷ lệ tăng thu ngân sách địa phương, đảm bảo
tăng kinh phí cho chế độ, chính sách mới ban hành. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất,
trang thiết bị, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; đảm bảo tỷ lệ đầu tư xây dựng
cơ bản trong kế hoạch xây dựng cơ bản hàng năm không thấp hơn năm trước và tăng
theo tỷ lệ tương ứng trên cơ sở tập trung cho các dự án trọng điểm, dự án có hiệu
quả cao, không dàn trải, ưu tiên vùng sâu, vùng xa, vùng nhiều khó khăn. Quản
lý nguồn vốn đầu tư chặt chẽ, đúng mục tiêu, tiết kiệm, hiệu quả.
Thành phố hỗ trợ đầu tư ban đầu có thời
hạn cho các cơ sở công lập chuyển sang loại hình ngoài công lập, hỗ trợ và khuyến
khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập, các cơ sở ngoài
công lập đăng ký hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ phi lợi nhuận.
4. Tiến hành đánh giá, tổng kết lại các
cơ chế, chính sách thành phố đã ban hành, các loại hình xã hội hoá, trên cơ sở
đó nghiên cứu áp dụng một số cơ chế cụ thể về chính sách đất đai, cơ sở hạ tầng,
chính sách thuế, chính sách huy động và sử dụng vốn, nhân lực.
5. Hoàn thiện các quy định về mô hình,
quy chế hoạt động của các đơn vị ngoài công lập theo hướng: Quy định trách nhiệm,
mục tiêu hoạt động, nội dung chất lượng dịch vụ, sản phẩm và cơ chế hoạt động;
quy định chế độ tài chính, trách nhiệm thực hiện chính sách, nghĩa vụ xã hội của
các tổ chức hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận và áp dụng cơ chế doanh nghiệp
đối với các cơ sở hoạt động theo cơ chế lợi nhuận.
6. Tăng cường và đổi mới công tác quản
lý nhà nước các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể dục
thể thao.
- Đối với các đơn vị công lập, đẩy mạnh
đổi mới theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ,
quản lý tổ chức bộ máy, biên chế viên chức và tài chính, bình đẳng với các đơn
vị ngoài công lập theo quy định của pháp luật.
- Đơn giản hoá các thủ tục hành chính,
trình tự giải quyết trong việc thành lập các cơ sở ngoài công lập trên cơ sở hướng
dẫn chi tiết điều kiện thành lập, điều kiện hành nghề và cơ chế hậu kiểm.
- Nghiên cứu xây dựng và từng bước thực
hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do nhà nước đặt hàng, khuyến khích
các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế nếu có đủ điều kiện được bình đẳng tham
gia đấu thầu.
- Thực hiện cải cách hành chính, đẩy mạnh
và triển khai đồng bộ cơ chế “Một cửa”, phối hợp liên ngành một cách hữu hiệu;
phân cấp mạnh mẽ, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cơ sở.
- Xây dựng qui chế kiểm tra chặt chẽ,
tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ sở công lập và ngoài công lập
nhằm tăng cường quản lý nhà nước, gắn kết chặt chẽ giữa việc ban hành chính
sách với việc đảm bảo quyền lợi thụ hưởng, quan tâm đến các đối tượng chính
sách xã hội, người có công, người cao tuổi, trẻ em và người nghèo.
7. Có lộ trình, bước đi thích hợp, tổ chức
chỉ đạo điểm việc chuyển đổi mô hình; định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả
thực hiện xã hội hoá, động viên, khen thưởng kịp thời, nhân rộng các mô hình,
điển hình tiêu biểu.
Điều 4. Tổ
chức thực hiện:
- Giao Uỷ ban nhân dân thành phố cụ thể
hóa bằng các chương trình, kế hoạch, để thực hiện và chỉ đạo các ngành, các cấp
tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành
phố.
- Uỷ quyền cho Thường trực Hội đồng nhân
dân, các Ban Hội đồng nhân dân thành phố xem xét, quyết định việc áp dụng các
chế độ chính sách theo luật định và lộ trình thực hiện báo cáo Hội đồng nhân
dân thành phố tại kỳ họp gần nhất.
- Giao Thường trực Hội đồng nhân dân,
các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố kiểm tra, đôn
đốc, giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thành phố và các tổ chức thành viên tích cực động viên các tầng lớp nhân
dân cùng tham gia thực hiện và giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân
thành phố khoá XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 13 tháng 7 năm 2006.
|
CHỦ TỊCH
Nguyễn Văn Thuận
|