Kính gửi:
Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre
Bộ Y tế nhận được Công văn số 655/BDN ngày
02/8/2024 của Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị trả lời
kiến nghị của cử tri gửi tới sau kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, trong đó có một
số kiến nghị của cử tri tỉnh Bến Tre.
Bộ Y tế xin trả lời đối với từng kiến nghị liên
quan đến lĩnh vực quản lý của ngành Y tế, cụ thể như sau:
1. Vấn đề khám bệnh y tế học đường
(bậc đại học) hiện nay còn bất cập, nhiều trường hợp sinh viên được nghỉ hè, đi
thực tập theo lịch của Nhà trường, nếu có bệnh thì không được đi khám và điều
trị ở các cơ sở khám chữa bệnh khác (do thẻ bảo hiểm y tế mua tại trường học,
khác vùng nên không được thanh toán). Kiến nghị Bộ Y tế phối hợp với Bảo hiểm
xã hội Việt Nam có hướng dẫn thêm về những bất cập này.
Theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, sinh
viên khi mua thẻ bảo hiểm y tế tại trường học, nếu trong thời gian nghỉ hè hoặc
đi thực tập theo lịch của Nhà trường mà có bệnh phải cấp cứu, thì sinh viên được
phép khám bệnh, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám chữa bệnh nào. Để được hưởng
quyền lợi bảo hiểm y tế, sinh viên cần xuất trình thẻ bảo hiểm y tế cùng với giấy
tờ theo quy định trước khi ra viện. Trường hợp không phải cấp cứu, nếu sinh
viên tự đi khám chữa bệnh không đúng tuyến, Quỹ Bảo hiểm y tế vẫn chi trả với mức
sau: (1) 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện tuyến huyện; (2) 100%
chi phí điều trị nội trú tại bệnh viện tuyến tỉnh; (3) 40% chi phí điều trị nội
trú tại bệnh viện tuyến Trung ương.
Hiện nay, Bộ Y tế đang hoàn thiện Hồ sơ trình Quốc
hội thông qua dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế
vào kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV, trong đó có quy định khi người tham gia bảo
hiểm y tế thay đổi nơi cư trú hoặc đi công tác, làm việc lưu động thì được phép
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại cơ sở khám chữa bệnh phù hợp.
2. Hiện nay nhu cầu tiêm ngừa để
bảo vệ sức khỏe trong Nhân dân rất cao, trong đó có người cao tuổi, cán bộ hưu
trí (tiêm ngừa cúm, viêm phổi, viêm gan,...) Tuy nhiên giá vắc -xin để tiêm ngừa
khá cao, trong khi người cao tuổi, cán bộ hưu trí lại có thu nhập thấp, khó tiếp
cận các dịch vụ tiêm ngừa này. Kiến nghị Bộ Y tế tham mưu Chính phủ, Quốc hội
có chính sách hỗ trợ tiêm vắc - xin được thanh toán bảo hiểm y tế để công tác
phòng bệnh được tốt hơn.
Hiện nay, các loại vắc xin thuộc Chương trình Tiêm
chủng mở rộng đã được nhà nước chi trả thông qua ngân sách nhà nước giúp đảm bảo
việc tiêm phòng cho trẻ em và một số nhóm đối tượng ưu tiên. Tuy nhiên, những
loại vắc xin có chi phí lớn như tiêm ngừa cúm, viêm phổi, viêm gan, ... thì hiện
nay chưa có chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, Quỹ Bảo hiểm
y tế là quỹ ngắn hạn, được sử dụng để chi trả các chi phí liên quan đến khám bệnh,
chữa bệnh và chưa có quy định chi trả cho công tác phòng bệnh, bao gồm tiêm ngừa
các loại vắc xin trên. Việc bảo đảm cân đối Quỹ Bảo hiểm y tế là cần thiết,
trong khi mức đóng bảo hiểm y tế hiện nay ở Việt Nam còn thấp so với nhiều quốc
gia khác trên thế giới. Do đó, để đảm bảo khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm y tế,
hiện nay chưa quy định chi trả bảo hiểm y tế cho các loại vắc xin như đã nêu ở
trên.
3. Việc khám và chữa bệnh cho
người tham gia bảo hiểm y tế thời gian qua từng bước được nâng lên, tuy nhiên,
vẫn còn tình trạng một số cơ sở khám chữa bệnh thiếu thuốc, hết thuốc, đề nghị
người bệnh phải mua thuốc ở ngoài, cán bộ y tế giải thích thiếu thuốc là do lệ
thuộc vào công tác đấu thầu. Cử tri kiến nghị ngành y tế quan tâm đảm bảo thuốc
điều trị và khám bệnh để người dân an tâm, hài lòng khi tham gia bảo hiểm y tế.
Đề nghị không đấu thầu thuốc tại các cơ sở y tế.
Trong thời gian vừa qua, có tình trạng thiếu thuốc,
trang thiết bị, vật tư y tế do một số nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng hậu
đại dịch COVID-19 và chiến tranh tại Châu Âu dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng
toàn cầu, giá cả tăng cao; bên cạnh đó có nguyên nhân chủ quan về cơ chế chính
sách mua sắm còn chưa phù hợp, một số cơ sở y tế thiếu chủ động trong dự trù,
xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện công tác đấu thầu, mua sắm...nên còn
gây ra hiện tượng thiếu thuốc, thiết bị vật tư y tế.
Để giải quyết tình trạng này, Bộ Y tế cùng các Bộ,
ngành tham mưu Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Quốc hội đã có nhiều giải pháp để
giải quyết. Quốc hội thông qua Luật Đấu thầu sửa đối với nhiều cơ chế tháo gỡ,
hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực y tế; ban hành Nghị quyết số 80/2023/QH15
ngày 09/01/2023 về việc cho phép các thuốc đủ điều kiện được gia hạn duy trì hiệu
lực lưu hành đến hết năm 2024[1].
Chính phủ ban hành Nghị định số 07/2023/NĐ-CP ngày 03/3/2024 về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 98/2021/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý trang
thiết bị y tế; Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 04/3/2023 của Chính phủ về việc tiếp
tục thực hiện các giải pháp để bảo đảm thuốc, trang thiết bị y tế; Nghị định số
24/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu.
Bộ Y tế đã tích cực rà soát và hoàn thiện các cơ chế,
chính sách, triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, bao gồm: (1) Ban hành theo thẩm
quyền: Thông tư số 03/2024/TT-BYT ngày 16/4/2024 ban hành danh mục thuốc có ít
nhất 03 hãng trong nước sản xuất trên dây chuyền sản xuất thuốc đáp ứng nguyên
tắc, tiêu chuẩn EU-GMP hoặc tương đương EU-GMP và đáp ứng tiêu chí kỹ thuật
theo quy định của Bộ Y tế và về chất lượng, giá, khả năng cung cấp; Thông tư số
04/2024/TT-BYT ngày 20/4/2024 quy định Danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia
đối với thuốc; Thông tư số 05/2024/TT-BYT ngày 14/5/2024 quy định Danh mục thuốc,
thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm được áp dụng hình thức đàm phán giá và quy
trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu đối với các gói thầu áp dụng hình thức đàm
phán giá; Thông tư số 07/2024/TT-BYT ngày 17/5/2024 quy định về đấu thầu thuốc
tại các cơ sở y tế công lập... (2) Tháo gỡ nguồn cung: Đẩy nhanh tiến độ thẩm định
và cấp giấy đăng ký lưu hành[2].
(3) Phối hợp với các tổ chức quốc tế: Tranh thủ sự hỗ trợ của Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) để viện trợ một số loại thuốc rất hiếm. (4) Tổ chức các lớp tập huấn,
hướng dẫn cán bộ y tế tại các cơ sở và địa phương về quy trình đấu thầu, mua sắm
thuốc, vật tư y tế, nhằm nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ y tế trong
việc quản lý và đảm bảo nguồn cung ứng.
Đến nay, tình trạng này đã được tháo gỡ cơ bản. Bộ
Y tế đang rà soát, tiếp tục tham mưu cơ chế, chính sách liên quan để tiếp tục
giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế; nắm bắt
tình hình địa phương, đơn vị y tế; đảm bảo bệnh nhân được chữa trị kịp thời,
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đáp ứng tốt hơn nhu cầu khám, chữa bệnh của
Nhân dân.
4. Dân số Việt Nam hiện nay có
chiều hướng bị già hóa. Kiến nghị cần có những chính sách mạnh hơn để hỗ trợ,
khuyến khách người dân sinh đủ 02 con, nhất là sinh bé gái để đảm bảo cân bằng
giới tính giữa nam và nữ.
Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội
nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số
trong tình hình mới, Nghị quyết số 137/NQ-CP ngày 31/12/2017 về việc ban hành
chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày
28/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 588/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 với mục
tiêu “Duy trì vững chắc mức sinh thay thế trên toàn quốc, phấn đấu tăng mức
sinh ở những địa phương đang có mức sinh thấp, giảm mức sinh ở những địa phương
đang có mức sinh cao góp phần thực hiện thành công Chiến lược Dân số Việt Nam đến
2030, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững đất nước”, trong đó, có nhiệm vụ, giải
pháp “Ở những địa phương đã có mức sinh dưới mức sinh thay thế thí điểm, mở rộng
thực hiện các chính sách hỗ trợ các cặp vợ chồng sinh con, nuôi dạy con”.
Thực hiện Quyết định số 588/QĐ-TTg , Bộ Y tế ban
hành Quyết định số 2324/QĐ-BYT ngày 05/6/2020 về Kế hoạch hành động thực hiện
Quyết định 588/QĐ-TTg ; ban hành văn bản gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương hướng dẫn triển khai Quyết định số 588/QĐ-TTg và các văn
bản hướng dẫn chuyên môn. Ngày 25/01/2021, Bộ Y tế ban hành Thông tư số
01/2021/TT-BYT hướng dẫn một số nội dung để địa phương ban hành chính sách khen
thưởng, hỗ trợ đối với tập thể, cá nhân thực hiện tốt công tác dân số.
Tại các địa phương: Thực hiện Quyết định số
588/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Y tế, trên
cơ sở thực trạng và xu hướng mức sinh của địa phương, các tỉnh/thành phố cũng
đã ban hành theo thẩm quyền các chương trình, kế hoạch... để thực hiện với các
mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Một số tỉnh, thành phố vùng mức sinh thấp và mức
sinh thay thế cũng đã ban hành Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về chính
sách hỗ trợ, khuyến khích sinh đủ hai con đối với tập thể, cá nhân như: hỗ trợ
tiền hoặc hiện vật; hỗ trợ các chi phí y tế 1 lần (sinh con) đối với phụ nữ
sinh đủ 02 con trước 35 tuổi; hỗ trợ giảm học phí từ bậc học mầm non đến bậc
trung học phổ thông thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; khen và thưởng tiền cho
các xã, phường, thị trấn đạt và vượt tỷ lệ cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ
sinh đủ 2 con. Một số tỉnh đã triển khai, mở rộng các mô hình[3] “Nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi và sinh đủ 02 con
trước 35 tuổi”, “xã, phường, thị trấn đạt chuẩn sinh đủ 2 con” ...
Trong thời gian qua, Bộ Y tế hướng dẫn và tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp của mất cân bằng giới tính khi sinh cụ thể:
(1) Tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ thứ sáu Ban chấp
hành Trung ương khóa VII về công tác dân số trong tình hình mới với mục tiêu:
“Đến năm 2030 tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống”;
(2) Tại Quyết định số 1679/QĐ-TTg ngày 22/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030: “Đưa tỉ số giới tính khi sinh về
mức cân bằng tự nhiên...Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái
sinh ra sống”; (3) Quyết định số 468/QĐ-TTg ngày 23/3/2016 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án Kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh giai đoạn
2016-2025.
Nhằm từng bước khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới
tính khi sinh. Các can thiệp đều hướng đến việc thay đổi nhận thức, hành vi của
người dân thực hiện việc sinh con trai, con gái theo quy luật tự nhiên; bao gồm:
Truyền thông nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi đối với công tác kiểm soát
mất cân bằng giới tính khi sinh; Xây dựng các chính sách khuyến khích, hỗ trợ
nhằm hỗ trợ, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái trong gia đình,
cộng đồng và xã hội; các chuẩn mực, giá trị xã hội phù hợp nhằm thực hiện có hiệu
quả bình đẳng giới. Nâng cao hiệu lực thực thi những quy định của pháp luật về
kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tích cực
tranh thủ sự giúp đỡ về tài chính, kỹ thuật và kinh nghiệm của các nước, các tổ
chức quốc tế trong thực hiện Đề án.
Để xử lý căn cơ các vấn đề hỗ trợ, khuyến khích người
dân sinh đủ 02 con, nhất là sinh bé gái để đảm bảo cân bằng giới tính giữa nam
và nữ, Bộ Y tế đang xây dựng:
(1) Năm 2023, Bộ Y tế đã xây dựng, trình Chính phủ
đề nghị xây dựng Luật Dân số, Chính phủ có Tờ trình số 47/TTr-CP ngày
28/02/2023 gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2024, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023. Căn cứ ý
kiến thẩm tra, Bộ Y tế được giao tiếp thu, giải trình, chỉnh lý, hoàn thiện Hồ
sơ Đề nghị xây dựng Luật Dân số, báo cáo Chính phủ tháng 12/2024; dự kiến trình
Quốc hội trong năm 2025.
(2) Nghiên cứu, xây dựng khung chính sách tổng thể
về dân số, bảo đảm tỉ suất sinh thay thế phù hợp với vùng, miền, đối tượng dân
cư và số lượng, chất lượng dân số, dự kiến trình Quốc hội vào tháng 12/2024;
xây dựng Đề án sửa đổi, bổ sung Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp các
vùng, đối tượng đến năm 2030 bảo đảm vững chắc mức sinh thay thế của quốc gia,
dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ năm 2025 (theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày
09/5/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách
xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc).
5. Khi tăng lương thì tăng mức
đóng bảo hiểm y tế tự nguyện (cá nhân, hộ gia đình) tăng theo. Cử tri thắc mắc
việc tăng mức đóng bảo hiểm y tế như vậy thì mức điều trị và khám bệnh có tăng
hay không.
6. Kiến nghị cần ổn định giá
mua Bảo hiểm y tế (hiện nay giá Bảo hiểm y tế tăng lên 30%), tăng như vậy rất
cao sẽ ảnh hưởng đến đời sống người dân nhất là nhiều gia đình kinh tế khó
khăn.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, mức đóng bảo
hiểm y tế hàng tháng được tính dựa trên mức lương cơ sở và các yếu tố kinh tế -
xã hội. Việc điều chỉnh giá bảo hiểm y tế không phải là tăng chi phí riêng lẻ
mà phụ thuộc vào sự điều chỉnh mức lương cơ sở nhằm đảm bảo tương ứng với sự
phát triển kinh tế và nhu cầu cải thiện quyền lợi chăm sóc sức khỏe của người
dân.
Hiện nay, Chính phủ đã điều chỉnh chính sách tiền
lương mới với mức lương cơ sở tăng thêm 30%. Điều này dẫn đến mức đóng bảo hiểm
y tế của hầu hết các nhóm đối tượng đều tăng theo. Việc tăng mức đóng không chỉ
nhằm đáp ứng sự điều chỉnh của lương cơ sở, mà còn giúp tăng thu cho Quỹ Bảo hiểm
y tế, từ đó tăng khả năng chi trả cho các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm
y tế. Đây cũng là cơ sở để Bộ Y tế tiến hành điều chỉnh giá dịch vụ y tế được
tính đúng, tính đủ trong thời gian tới, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ
khám chữa bệnh cho người dân và giảm bớt chi phí người dân phải bỏ tiền túi khi
đi khám chữa bệnh[4].
Ngoài ra, chính sách và chế độ bảo hiểm y tế được
thực hiện theo nguyên tắc chia sẻ rủi ro giữa các nhóm đối tượng tham gia bảo
hiểm y tế. Đây là cơ chế tài chính quan trọng để đảm bảo nhu cầu khám chữa bệnh
của người dân trong bối cảnh quỹ bảo hiểm y tế cần được duy trì và cân đối lâu
dài. Đặc biệt, những đối tượng gặp khó khăn về kinh tế như người nghèo, cận
nghèo, người dân tộc thiểu số, người sống tại vùng khó khăn đều được Nhà nước hỗ
trợ từ 30% đến 100% mức đóng bảo hiểm y tế, tùy theo điều kiện cụ thể của từng
nhóm.
Bộ Y tế mong cử tri thấu hiểu, chia sẻ và vận động
người dân tham gia bảo hiểm y tế. Việc tham gia bảo hiểm y tế không chỉ giúp đảm
bảo quyền lợi khám chữa bệnh của mỗi cá nhân, mà còn góp phần quan trọng vào việc
duy trì chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, đồng thời đảm bảo cân đối
Quỹ Bảo hiểm y tế cho các thế hệ sau.
7. Từ ngày 01/7/2024, lương cơ
sở tăng từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng, tuy nhiên tiền mua bảo hiểm y tế
tự nguyện trong Nhân dân cũng tăng theo. Như vậy, những người lao động bên
ngoài không hưởng lương sẽ gặp khó khăn khi tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình.
Kiến nghị ngành cần xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế năm 2014, nhất
là xem xét điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế cho phù hợp với từng nhóm đối tượng,
đặc biệt là nhóm lao động tự do để người dân được tham gia và thụ hưởng các
chính sách của bảo hiểm y tế.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế, mức đóng bảo
hiểm y tế hàng tháng tối đa bằng 6% mức tiền lương hoặc tiền lương hưu, trợ cấp
mất sức lao động, trợ cấp thất nghiệp hoặc mức lương cơ sở. Trên cơ sở quy định
của Luật, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ về việc quy
định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế,
mức đóng bảo hiểm y tế là 4,5%.
Dựa trên phạm vi quyền lợi của người tham gia bảo
hiểm y tế, Quốc hội và Chính phủ đã quy định mức đóng bảo hiểm y tế dựa trên điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và khả năng đóng góp của nhà nước,
doanh nghiệp, người lao động và người dân. Để khuyến khích và hỗ trợ người dân
tham gia bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm y tế, Nghị định số 146/2018/NĐ-CP và Nghị
định số 75/2023/NĐ-CP ngày 19/10/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 quy định chi tiết và hướng dẫn
biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế đã quy định các mức đóng
và hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc
thiểu số, người sinh sống tại các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn,
hộ nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình. Đối với nhóm
tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình; điểm e, khoản 1 Điều 7
Nghị định số 146/2018/NĐ-CP quy định mức đóng bảo hiểm y tế như sau: (1)
Người thứ nhất đóng bằng 4,5% mức lương cơ sở; (2) Người thứ hai, thứ ba, thứ
tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất; (3) Từ người
thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
Để chia sẻ với ngân sách Trung ương và hỗ trợ các đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế có điều kiện kinh tế khó khăn; điểm
b, khoản 3 Nghị định số 75/2023/NĐ-CP đã quy định: Căn cứ khả năng ngân
sách của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố quyết định
mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu và
mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ
theo quy định hiện hành[5].
Với phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế được hưởng
tương đối đầy đủ, mức đóng bảo hiểm y tế hiện tại được đánh giá là tương đối thấp
so với các nước có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tương đồng. Vì vậy, Bộ
Y tế mong cử tri thấu hiểu và ủng hộ chính sách bảo hiểm y tế của Đảng và Nhà
nước, tích cực tham gia bảo hiểm y tế để đảm bảo tài chính khi ốm đau, bệnh tật.
Bộ Y tế đang khẩn trương hoàn thiện Hồ sơ dự án Luật
sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế để báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội xem
xét, thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV.
8. Đề nghị xem xét có chế độ bảo
hiểm y tế cho con của thương binh, bệnh binh, người hưởng chế độ như thương
binh, bệnh binh, bởi vì những gia đình này có hoàn cảnh rất khó khăn, cần sự hỗ
trợ của Nhà nước.
Bảo hiểm y tế thực hiện trên nguyên tắc bảo đảm
chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế. về mức đóng, mức hưởng
bảo hiểm y tế được quy định cụ thể trong Luật Bảo hiểm y tế và các văn bản hướng
dẫn, được tính toán dựa vào khả năng đóng góp của các nhóm đối tượng, mức lương
cơ sở, phạm vi quyền lợi và khả năng cân đối Quỹ Bảo hiểm y tế. Theo quy định của
Pháp lệnh ưu đãi người có công và Luật bảo hiểm y tế, các đối tượng sau đây được
ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế:
- Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng, con từ đủ 06 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi hoặc từ đủ 18 tuổi trở lên nếu còn tiếp tục đi học hoặc bị khuyết
tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng của thương binh, người hưởng chính sách như
thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học
có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; con đẻ từ đủ 6 tuổi trở lên bị dị dạng,
dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học đang hưởng trợ cấp hằng
tháng đối với con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.
- Người thuộc hộ gia đình nghèo, cận nghèo; hộ gia
đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung
bình theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; người dân tộc thiểu số
đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh
sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh
sống tại xã đảo, huyện đảo.
Đối với vợ và con của thương binh, bệnh binh nếu
không thuộc các đối tượng nêu trên có thể tham gia bảo hiểm y tế theo hình thức
hộ gia đình để được giảm trừ mức đóng (người thứ 2, thứ 3, thứ 4 đóng lần lượt
bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất; từ người thứ 5 trở đi đóng bằng
40% mức đóng người thứ nhất) nếu các thành viên hộ gia đình cùng tham gia trong
năm tài chính.
Để chia sẻ với ngân sách Trung ương và hỗ trợ các đối
tượng tham gia bảo hiểm y tế có điều kiện kinh tế khó khăn; điểm
b, khoản 3 Nghị định số 75/2023/NĐ-CP đã quy định: Căn cứ khả năng ngân sách
của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố quyết định mức
hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu và mức
hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng không được hưởng mức hỗ trợ theo
quy định hiện hành[6].
Trên đây là nội dung trả lời đối với kiến nghị của
cử tri tỉnh Bến Tre liên quan đến lĩnh vực Y tế, Bộ Y tế trân trọng kính gửi
Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre để biết, thông tin tới cử tri.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Dân nguyện - UBTVQH;
- VPCP: QHĐP, TH;
- VPQH;
- Các đ/c Thứ trưởng BYT;
- BYT: BH, DP, KH-TC, DS, MT;
- Cổng TTĐT Bộ Y tế (để đăng tải);
- Lưu: VT, VPB1.
|
BỘ TRƯỞNG
Đào Hồng Lan
|
[1]
Thực hiện Nghị quyết số 80/2023/QH15, Bộ Y tế đã gia hạn hiệu lực giấy đăng ký lưu
hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc đến hết ngày 31/12/2024, với tổng số thuốc,
nguyên liệu làm thuốc được gia hạn lên đến 13.202 (bao gồm 10.301 thuốc trong
nước, 2.656 thuốc nước ngoài, và 245 vắc xin, sinh phẩm)
[2]
Trong năm 2023 và 05 tháng đầu năm 2024, Bộ Y tế đã cấp trên 11.000 đơn hàng nhập
khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc, cấp mới/gia hạn giấy đăng ký lưu hành cho
8.048 thuốc
[3]
Hậu Giang, Thành phố Cần Thơ.
[4]
(1) Giá dịch vụ y tế sẽ được điều chỉnh tăng theo mức lương cơ sở; (2) Mức chi
phí cho một lần khám bệnh, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương cơ sở mà người bệnh
được hưởng 100% sẽ được tăng lên; (3) Mức thanh toán tổng chi phí vật tư y tế
cho một lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật tính theo lương cơ sở theo Thông tư số
04/2017/TT-BYT của Bộ trưởng Bộ Y tế sẽ được tăng lên.
[5]
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ khả năng ngân sách
của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác trình hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết định:
a) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng
cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 8 Nghị định
này;
b) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng
không được hưởng mức hỗ trợ quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định này;
c) Đối tượng được hỗ trợ và mức hỗ trợ cùng chi trả
chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm y tế khi
đi khám bệnh, chữa bệnh.
[6]
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ khả năng ngân sách
của địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác trình hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết định:
a) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng
cao hơn mức hỗ trợ tối thiểu quy định tại các điểm b và c khoản 1 Điều 8 Nghị định
này;
b) Mức hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng
không được hưởng mức hỗ trợ quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định này;
c) Đối tượng được hỗ trợ và mức hỗ trợ cùng chi trả
chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người tham gia bảo hiểm y tế khi
đi khám bệnh, chữa bệnh.