Kính gửi:
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thực hiện Quyết định số 1242/QĐ-TTg ngày 16/7/2021
của Thủ tướng Chính phủ về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực
hiện các dự án đầu tư tại các Bộ, ngành và địa phương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, tổng hợp và báo cáo Phó Thủ tướng Thường trực
Chính phủ Phạm Bình Minh về các vướng mắc trong thực hiện dự án đầu tư theo
phương thức đối tác công tư (PPP).
Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng Thường trực
Chính phủ tại công văn 8393/VPCP-CN ngày 16/11/2021 và Thông báo số 80/TB-VPCP
ngày 23/3/2022 của Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin gửi quý Cơ
quan một số nội dung trao đổi về các vướng mắc trong triển khai dự án PPP (chi
tiết tại Phụ lục kèm theo).
Đề nghị Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương nghiên cứu, thực hiện theo quy định của pháp luật./
Nơi nhận:
- Như trên;
- Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ
Phạm Bình Minh (để báo cáo);
- Các Phó Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Bộ: TP, TC, XD, CT, TN&MT, GTVT;
- Sở KH&ĐT các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ;
- Thành viên Tổ công tác đặc biệt và nhóm giúp việc của Tổ công tác (D/S kèm
theo);
- Bộ KH&ĐT: Lãnh đạo Bộ; các Đơn vị: PC, ĐTNN,
THKTQD, KTĐP<, KCHT&ĐT, GS&TĐĐT;
- Lưu VT, Cục QLĐT (Chi )
|
TM. TỔ CÔNG TÁC
KT. TỔ TRƯỞNG
TỔ PHÓ
THỨ TRƯỞNG
BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Trần Duy Đông
|
PHỤ LỤC
MỘT SỐ NỘI DUNG TRAO ĐỔI VỀ NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG
THỰC HIỆN DỰ ÁN ĐẦU TƯ THEO PHƯƠNG THỨC ĐỐI TÁC CÔNG TƯ
(Ban hành kèm theo công văn số 3068/CV-TCT ngày 11/5/2022 của Tổ công tác đặc
biệt của Thủ tướng Chính phủ)
1. Về hạn mức vốn nhà nước tham
gia thực hiện dự án PPP tại địa bàn kinh tế-xã hội khó khăn
Vấn đề: Cần ban hành cơ chế đặc thù cho các dự
án PPP trên địa bàn các tỉnh miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó
khăn với hạn mức tham gia của vốn nhà nước trên 50% tổng mức đầu tư của dự án
do dự án tại địa bàn này có suất đầu tư rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài, khó
thu hút nhà đầu tư.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Khoản 2 Điều 69 Luật Đầu tư theo
phương thức đối tác công tư (PPP) quy định mức trần tỷ lệ vốn nhà nước tham
gia dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư thấy rằng, một trong những mục
tiêu quan trọng của phương thức PPP là nhằm huy động nguồn vốn của khu vực tư
nhân cho đầu tư phát triển công trình kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công và
nguồn vốn tham gia của Nhà nước trong dự án PPP chỉ nhằm góp phần hỗ trợ, bảo đảm
sự thành công của dự án. Vì vậy, dự án PPP có phần vốn Nhà nước tham gia càng
thấp thì càng có khả năng bảo đảm tính khả thi, hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước.
Khi thông qua Luật PPP, Quốc hội đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này và đã quyết định
mức trần vốn Nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP không vượt quá 50% tổng mức
đầu tư của dự án. Việc không hạn chế mức trần tỷ lệ vốn nhà nước tham gia dự án
PPP có thể làm mất đi bản chất đối tác công tư, dẫn đến suy giảm mục tiêu, hiệu
quả đầu tư của dự án. Đối với dự án ở vùng khó khăn, có tác động đến việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của vùng, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo thì có
thể xem xét, ưu tiên bố trí vốn đầu tư công để thực hiện.
Ngoài ra, theo quy định tại điểm đ khoản
1 Điều 12 Luật PPP, Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư đối với dự án đòi
hỏi áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt. Do vậy, đối với dự án thực hiện tại địa
bàn kinh tế-xã hội khó khăn, có yêu cầu áp dụng cơ chế đặc biệt, Chính phủ
trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư (trong đó có nội dung áp dụng
mức trần tỷ lệ vốn nhà nước tham gia thực hiện dự án PPP).
2. Về yêu cầu về quốc phòng, an
ninh quốc gia
Vấn đề: Luật PPP chưa quy định cụ thể tiêu chí
xác định dự án “cần bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh quốc gia” dẫn đến có
nhiều cách hiểu khác nhau.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Việc quy định tiêu chí cụ thể xác định dự án “cần bảo
đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh quốc gia” là không khả thi do yêu cầu bảo mật
trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Trong quá trình thẩm định báo cáo nghiên cứu
tiền khả thi, căn cứ vào đặc điểm, tính chất đặc thù của từng dự án, Bộ Quốc
phòng (đối với yêu cầu về quốc phòng), Bộ Công an (đối với yêu cầu về an ninh
quốc gia) sẽ có ý kiến cụ thể về nội dung này theo hướng dẫn tại Mục C.II.3.a Mẫu
số 2 Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 35/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật PPP.
3. Về chức năng đăng tải thông
tin trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia
Vấn đề: Chức năng đăng tải thông tin khảo sát
chưa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư cập nhật kịp thời trên Hệ thống mạng đấu thầu
quốc gia, do đó làm chậm tiến độ lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Ngay sau khi Luật PPP được ban hành và Nghị định số
35/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành (ngày 29/3/2021), Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
khẩn trương hoàn thiện các chức năng liên quan đến lựa chọn nhà đầu tư dự án
PPP theo quy định mới của Luật PPP trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia nhằm đảm
bảo đủ điều kiện để đơn vị chuẩn bị dự án thực hiện đăng tải thông tin khảo sát
trên Hệ thống. Đề nghị các địa phương chủ động nghiên cứu, cập nhật quy định
chính sách mới và các chức năng trên Hệ thống. Trường hợp có vướng mắc liên
quan đến thao tác kỹ thuật trên Hệ thống, các địa phương có thể liên hệ trực tiếp
số điện thoại trên Hệ thống để được hỗ trợ.
4. Về việc điều chỉnh giá, phí
sản phẩm, dịch vụ công
Vấn đề: Các Nghị định hướng dẫn Luật PPP chưa có
quy định trách nhiệm và phương án xử lý trong trường hợp nhà đầu tư không được
tăng giá theo lộ trình trong hợp đồng BOT dẫn tới làm phương án tài chính mất
cân đối, không thu hút được nhiều nhà đầu tư, tổ chức tín dụng cho vay vốn.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Mức giá, phí hàng hóa, dịch vụ được quy định cụ thể
tại hợp đồng dự án. Trường hợp các bên có yêu cầu tăng giá, phí theo tiến độ
khác với quy định của hợp đồng dự án thì cần đàm phán, sửa đổi hợp đồng theo
quy định tại Điều 50 và các điều khoản có liên quan của Luật
PPP.
5. Về việc lựa chọn nhà thầu thực
hiện dự án PPP
Vấn đề: Việc tổ chức lựa chọn nhà thầu thực hiện
các gói thầu của công trình PPP thực hiện theo Quy chế lựa chọn nhà thầu do Nhà
đầu tư ban hành, không cần tuân thủ quy định của Luật Đấu thầu và phần lớn áp dụng
hình thức chỉ định thầu nên chưa đảm bảo tính công bằng, minh bạch, hiệu quả
kinh tế.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện trách nhiệm giám
sát thi công công trình và chất lượng sản phẩm, dịch vụ công do doanh nghiệp dự
án cung cấp theo quy định tại Điều 59 và Điều 66 Luật PPP.
Khoản 3 Điều 58 Luật PPP quy định
nhà thầu được lựa chọn phải đáp ứng đầy đủ năng lực, kinh nghiệm, có giải pháp
khả thi thực hiện gói thầu, dự án; chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ thực
hiện gói thầu theo hợp đồng ký kết với doanh nghiệp dự án PPP. Doanh nghiệp dự
án PPP chịu trách nhiệm về chất lượng, tiến độ thực hiện dự án.
Căn cứ quy định nêu trên, doanh nghiệp dự án chịu
trách nhiệm toàn diện trong việc lựa chọn nhà thầu đáp ứng đầy đủ năng lực,
kinh nghiệm, bảo đảm chất lượng công trình, sản phẩm, dịch vụ công theo đúng
cam kết tại hợp đồng.
6. Về trách nhiệm giám sát của
cơ quan có thẩm quyền
Vấn đề: Việc không gắn trách nhiệm giám sát cụ
thể của cơ quan có thẩm quyền trong quá trình thực hiện dự án của nhà đầu tư dẫn
đến trong nhiều trường hợp chất lượng công trình không đảm bảo.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Khoản 2 Điều 59 Luật PPP quy định
cụ thể về trách nhiệm giám sát chất lượng công trình của cơ quan ký kết hợp đồng.
Theo đó, cơ quan ký kết hợp đồng có trách nhiệm:
- Tổ chức kiểm tra việc doanh nghiệp dự án PPP giám
sát quá trình thi công xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng;
- Kiểm tra việc tuân thủ các quy trình, tiêu chuẩn,
quy chuẩn thi công xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng;
- Tổ chức kiểm định chất lượng bộ phận, hạng mục và
toàn bộ công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khi có nghi ngờ về chất lượng hoặc
khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền;
- Đề nghị doanh nghiệp dự án PPP yêu cầu nhà thầu điều
chỉnh hoặc đình chỉ thi công khi xét thấy chất lượng công việc thực hiện không
bảo đảm yêu cầu.
Căn cứ quy định nêu trên, cơ quan ký kết hợp đồng
có đầy đủ trách nhiệm trong việc giám sát chất lượng công trình dự án.
Bên cạnh đó, Nghị định số 06/2021/NĐ-CP ngày
26/01/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung về quản lý chất lượng,
thi công xây dựng và bảo trì công trình xây dựng đã xác định rõ trách nhiệm của
các chủ thể có liên quan trực tiếp đến hoạt động xây dựng công trình (chủ đầu
tư, nhà thầu xây dựng...). Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền có thể căn cứ quy định
này để giám sát chất lượng công trình.
7. Về việc giám sát nghĩa vụ
góp vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư
Vấn đề: Việc giám sát nghĩa vụ vốn chủ sở hữu
theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 28/2021/NĐ-CP ngày
26/3/2021 của Chính phủ chỉ dùng để đánh giá năng lực của nhà đầu tư có đủ điều
kiện để tham gia thực hiện dự án hay không mà chưa có quy định cụ thể về việc
giám sát nghĩa vụ này trong quá trình thực hiện dự án.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều
47 Luật PPP và hướng dẫn tại Mục II.7.c Phụ lục VI kèm theo Nghị định số
35/2021/NĐ-CP , tổng số vốn chủ sở hữu, tiến độ góp vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp dự án là một nội dung trong kế hoạch thu xếp tài chính tại hợp đồng dự
án PPP. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm quản lý hợp đồng, bảo đảm
nhà đầu tư thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ quy định tại hợp đồng dự án (trong đó
có nội dung góp vốn chủ sở hữu theo đúng tiến độ).
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản
1 Điều 57 Nghị định số 29/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ về trình
tự, thủ tục thẩm định dự án quan trọng quốc gia và giám sát, đánh giá đầu tư
thì nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án PPP có trách nhiệm báo cáo cơ quan ký kết hợp
đồng về tình hình thực hiện huy động vốn đầu tư thực hiện dự án để cơ quan này
giám sát.
Vì vậy, việc giám sát nghĩa vụ góp vốn chủ sở hữu của
nhà đầu tư trong các doanh nghiệp dự án PPP sau khi ký kết hợp đồng PPP thực hiện
theo các quy định nêu trên.
8. Về việc áp dụng quy định tại
Luật PPP đối với các dự án đã ký kết hợp đồng
Vấn đề: Khoản 4 Điều 101 Luật
PPP quy định dự án đã ký kết hợp đồng trước ngày Luật này có hiệu lực thi
hành thì tiếp tục thực hiện theo quy định tại hợp đồng đã ký kết là không phù hợp
do căn cứ lập hợp đồng là các quy định đã hết hiệu lực.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Khoản 1 Điều 156 Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật quy định: “Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng
từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực; văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với
hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực; trong trường hợp
quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng
theo quy định đó.”
Căn cứ quy định nêu trên, trong trường hợp chuyển
tiếp theo Luật PPP, việc cho phép các bên tiếp tục thực hiện theo quy định tại
hợp đồng đã ký kết là không trái với quy định nêu trên của Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
Quy định như vậy cũng nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đã được pháp luật thừa nhận tại thời điểm ký kết hợp đồng,
không gây ra bất lợi (nếu có) cho nhà đầu tư do có sự thay đổi pháp luật trong
từng thời kỳ.
9. Về việc phát hành trái phiếu
của doanh nghiệp dự án
Vấn đề: Đối tượng doanh nghiệp dự án PPP chào
bán trái phiếu doanh nghiệp là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Điều này
làm hạn chế đối tượng tham gia mua trái phiếu dự án PPP, cũng như loại hình
trái phiếu mà doanh nghiệp dự án PPP phát hành.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Việc quy định doanh nghiệp dự án chỉ được phát hành
trái phiếu riêng lẻ (không gồm trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ và trái phiếu kèm
chứng quyền riêng lẻ) nhằm bảo đảm huy động vốn của các nhà đầu tư, tổ chức tài
chính chuyên nghiệp. Chính sách này phù hợp với giai đoạn đầu của việc thực thi
PPP theo quy định của Luật, đảm bảo tính an toàn cao trong quá trình phát hành
trái phiếu doanh nghiệp, tránh rủi ro cho nhà đầu tư không chuyên nghiệp.
Trong thời gian tới, khi thị trường vốn dành cho
các dự án PPP phát triển ổn định, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ phối hợp với Bộ Tài
chính nghiên cứu, đề xuất phương án sửa đổi nội dung này theo hướng mở rộng các
loại hình trái phiếu.
10. Về quỹ đất để thanh toán
cho nhà đầu tư
Vấn đề: Đối với quỹ đất đã giải phóng mặt bằng
hoặc chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện
dự án BT, việc nhà đầu tư được giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai có phù hợp hay không?
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5
Nghị định số 69/2019/NĐ-CP ngày 15/8/2019 của Chính phủ quy định việc sử dụng
tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng
công trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (được sửa đổi, bổ
sung tại khoản 1 Điều 90 Nghị định số 35/2021/NĐ-CP), quỹ đất
thanh toán cho Nhà đầu tư thực hiện dự án BT là đất Nhà nước chưa giải phóng mặt
bằng, chưa hoàn thành giải phóng mặt bằng hoặc đã hoàn thành giải phóng mặt bằng.
Trường hợp sử dụng quỹ đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng để thanh toán cho
Nhà đầu tư thực hiện Dự án BT thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Thủ tướng
Chính phủ xem xét, quyết định trước khi quyết định chủ trương đầu tư Dự án.
11. Về công tác quản lý, giám
sát việc thực hiện dự án khác
Vấn đề: Chưa có quy định rõ về công tác quản lý,
giám sát thực hiện dự án khác. Nhà đầu tư chỉ tập trung đầu tư xây dựng các
công trình thương mại nhà thấp tầng, nhà cao tầng để kinh doanh thu hồi vốn mà
chưa tập trung hoàn thiện toàn bộ các hạng mục theo quy hoạch được phê duyệt
gây khó khăn trong việc quyết toán, thanh lý Hợp đồng BT.
Ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Khoản 11 Điều 3 Nghị định số
63/2018/NĐ-CP ngày 04/5/2018 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư quy định dự án khác là dự án đối ứng của dự án BT được giao cho nhà đầu
tư để thực hiện việc đầu tư kinh doanh theo quy định của pháp luật. Do vậy, việc
quản lý, giám sát thực hiện dự án khác (bao gồm cả việc xây dựng các hạng mục
theo quy hoạch) phải tuân thủ quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, pháp
luật có liên quan và quy định của hợp đồng dự án (nếu có).
DANH
SÁCH GỬI CÔNG VĂN
1. Ông Phan Chí Hiếu, Thứ trưởng Bộ Tư pháp - Tổ
phó Tổ công tác
2. Ông Lương Tam Quang, Thứ trưởng Bộ Công an -
Thành viên
3. Ông Nguyễn Minh Vũ, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao -
Thành viên
4. Ông Phạm Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và
Truyền thông - Thành viên
5. Ông Nguyễn Ngọc Đông, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận
tải - Thành viên
6. Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội - Thành viên
7. Ông Tạ Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Tài chính - Thành
viên
8. Ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công Thương -
Thành viên
9. Ông Bùi Hồng Minh, Thứ trưởng Bộ Xây dựng -
Thành viên
10. Ông Lê Minh Ngân, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường - Thành viên
11. Ông Đoàn Văn Việt, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch - Thành viên
12. Ông Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ - Thành viên
13. Ông Nguyễn Hoàng Hiệp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn - Thành viên
14. Ông Đoàn Thái Sơn, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước - Thành viên
15. Ông Nguyễn Cao Lục, Phó Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ - Thành viên
16. Ông Hồ Sỹ Hùng, Phó Chủ tịch Ủy ban quản lý vốn
nhà nước tại doanh nghiệp - Thành viên
17. Bà Tống Thị Hạnh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ
Xây dựng, Thành viên
18. Ông Nguyễn Mai Dương - Chánh văn phòng Bộ Khoa
học và Công nghệ, Thành viên
19. Ông Nguyễn Văn Việt - Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thành viên
20. Bà Nguyễn Minh Hằng - Vụ trưởng Vụ Tổng hợp
kinh tế Bộ Ngoại giao, Thành viên
21. Ông Nguyễn Thanh Tú, Vụ trưởng Vụ pháp luật dân
sự - kinh tế Bộ Tư pháp, Thành viên
22. Ông Đào Trung Chính - Phó Tổng cục trưởng Tổng
cục Quản lý đất đai Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thành viên
23. Ông Bùi Tất Hợp - Phó Vụ trưởng Vụ Công nghiệp
Văn phòng Chính phủ, Thành viên
24. Bà Đỗ Vũ Anh Thư - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Bộ
Công Thương, Thành viên
25. Bà Nguyễn Thị Hồng Liên - Phó Vụ trưởng Vụ Kế
hoạch, Tài chính Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thành viên
26. Bà Nguyễn Thị Quyên - Phó Cục trưởng Cục Việc
làm Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Thành viên
27. Ông Lê Nam Trung - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch -
Tài chính Bộ Thông tin và Truyền thông, Thành viên
28. Ông Nguyễn Ngọc Minh - Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý
ngoại hối Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thành viên
29. Ông Hồ Đức Thắng - Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Ủy
ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Thành viên
30. Ông Dương Bá Đức - Phó Vụ trưởng Vụ Đầu tư Bộ
Tài chính, Thành viên
31. Ông Hoàng Văn Thu - Phó Cục trưởng Cục Tài
chính doanh nghiệp Bộ Tài chính, Thành viên
32. Ông Võ Hữu Hiển - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ
và tài chính đối ngoại Bộ Tài chính, Thành viên