BỘ CÔNG AN
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 08/VBHN-BCA
|
Hà Nội, ngày
31 tháng 12 năm 2015
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG MỘT SỐ QUY ĐỊNH TẠI CHƯƠNG XVIII “CÁC TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY” CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự
năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 18 tháng 01 năm 2008, được sửa đổi, bổ sung bởi:
Thông tư liên tịch số 08/2015/
TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm
của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 24
tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội
phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng
12 năm 2015.
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định tại
Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 (sau đây viết
tắt là BLHS), Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao, Bộ Tư pháp thống nhất hướng dẫn một số điểm như sau:[1]
I. VỀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM VÀ MỘT
SỐ TÌNH TIẾT LÀ YẾU TỐ ĐỊNH TỘI HOẶC ĐỊNH KHUNG HÌNH PHẠT
1. Về một số khái niệm
1.1. “Chất ma túy” là các chất gây nghiện, chất
hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành.
Trong đó, cần phân biệt các trường hợp sau:
a)[2] Đối với các
chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch hoặc chất ma túy ở thể lỏng đã
được pha loãng thì không coi toàn bộ dung dịch hoặc dung dịch pha loãng này là chất
ma túy ở thể lỏng mà cần xác định hàm lượng chất ma túy trong dung dịch để tính
trọng lượng chất ma túy đó.
Ví dụ: Thuốc phiện, hêrôin được hòa thành dung dịch
thì không coi toàn bộ dung dịch này là chất ma túy ở thể lỏng mà cần xác định
hàm lượng moócphin cùng với các thành phần khác của thuốc phiện trong dung dịch
để tính trọng lượng của thuốc phiện hoặc xác định hàm lượng moócphin cùng với
các thành phần khác của hêrôin để tính trọng lượng hêrôin.
b) Đối với xái thuốc phiện thì không coi là nhựa
thuốc phiện mà phải xác định hàm lượng moocphin trong xái thuốc phiện để tính
trọng lượng của thuốc phiện.
1.2. “Tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép
chất ma túy” là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản
xuất chất ma túy được quy định trong các danh mục tiền chất do Chính phủ ban
hành.
1.3. “Phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất
hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là những vật được sản xuất ra với chức năng
chuyên dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy hay tuy được sản
xuất ra với mục đích khác, nhưng đã được sử dụng chuyên vào mục đích sản xuất
hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
1.4.[3] Trong mọi
trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu giám định để xác
định loại và trọng lượng chất ma túy, tiền chất thu giữ được. Bắt buộc phải
trưng cầu giám định hàm lượng đẻ xác định trọng lượng chất ma túy trong các trường
hợp sau:
a) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất
chất ma túy ở thể rắn được hòa thành dung dịch;
b) Chất ma túy, tiền chất dùng vào việc sản xuất
chất ma túy ở thể lỏng đã được pha loãng;
c) Xái thuốc phiện;
d) Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần;
Ngoài các trường hợp quy định tại các
điểm a, b, c và d tiết 1.4 Mục này, nếu có căn cứ và xét thấy cần thiết,
Tòa án trực tiếp trưng cầu giám định để bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật.
Nếu chất được giám định không phải là chất ma
túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy,
nhưng người thực hiện hành vi phạm tội ý thức rằng chất đó là chất ma túy hoặc
chất đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành
vi phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy định
tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy.
Trường hợp một người biết là chất ma túy giả
nhưng làm cho người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi... thì
người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật
Hình sự, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội
này.
Trường hợp không thu giữ được vật chứng là chất
ma túy, tiền chất nhưng có căn cứ xác định được trọng lượng chất ma túy, tiền
chất mà người phạm tội đã mua bán, vận chuyển, tàng trữ hoặc chiếm đoạt thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh và điều khoản tương ứng.
2. Về một số tình tiết là yếu
tố định tội hoặc định khung hình phạt
2.1. Tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” quy
định tại khoản 2 các điều 193, 194, 195, 196 và 198 của BLHS, được hiểu là người
phạm tội đã dựa vào chức vụ, quyền hạn mà mình được đảm nhiệm để thực hiện hành
vi phạm tội.
2.2. Tình tiết “lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức” quy định tại khoản 2 các điều 193, 194, 195 và 196 của BLHS được hiểu là
người phạm tội đã lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức nơi họ làm việc hoặc
công tác để thực hiện hành vi phạm tội.
2.3. Tình tiết “phạm tội nhiều lần” quy định tại
khoản 2 các điều 193, 194, 195, 196, 197, 198, 200 và 201 của BLHS được hiểu là
đã có từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép chất ma túy trở
lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên, hai lần bán trái phép chất
ma túy trở lên…) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại
khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần
nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu điều
luật có quy định về số lượng chất ma túy để định khung hình phạt.
Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;
chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma túy đối với một người từ hai lần trở lên cũng bị coi là
phạm tội nhiều lần.
2.4. Tình tiết “phạm tội đối với nhiều người”
quy định tại khoản 2 các điều 197,198 và 200 của BLHS được hiểu là trong một lần
phạm tội, người phạm tội đã thực hiện tội phạm đối với từ hai người trở lên (ví
dụ: Trong một lần phạm tội tổ chức cho từ hai người trở lên sử dụng trái phép
chất ma túy; trong một lần phạm tội chứa chấp từ hai người trở lên sử dụng trái
phép chất ma túy; trong một lần phạm tội cưỡng bức, lôi kéo từ hai người trở
lên sử dụng trái phép chất ma túy).
2.5. Tình tiết “có từ hai chất ma túy trở lên mà
tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng của chất ma túy quy định
tại một trong các điểm từ…” quy định tại điểm i khoản 2, điểm e khoản 3, điểm đ
khoản 4 Điều 193 hoặc điểm o khoản 2, điểm h khoản 3, điểm h khoản 4 Điều 194 của
BLHS được xác định như sau:
a) Trường hợp các chất ma túy đó đều có trọng lượng
dưới mức tối thiểu quy định tại khoản 2 (tức thuộc khoản 1) Điều 193 hoặc khoản
2 Điều 194 của BLHS, thì tổng trọng lượng của các chất ma túy đó được xác định
theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất ma túy đó tại
điểm tương ứng quy định tại khoản 2 Điều 193 hoặc khoản 2 Điều 194 của BLHS.
Bước 2: Cộng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của từng chất ma túy lại với nhau.
Bước 3: Xác định điểm, khoản, điều luật.
Nếu tổng các tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy dưới 100%, thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 193 hoặc khoản
1 Điều 194 của BLHS; nếu tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma
túy từ 100% trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
tình tiết định khung: “Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các
chất đó tương ứng với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ…”
quy định tại điểm i khoản 2 Điều 193 hoặc điểm o khoản 2 Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 1: Một người sản xuất hai trăm gam
nhựa thuốc phiện và hai gam hêrôin (đều thuộc khoản 1 Điều 193 của BLHS). Tổng
trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm đ khoản 2
Điều 193 của BLHS là 40% (hai trăm gam so với năm trăm gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm e khoản 2 Điều 193 của BLHS là
40% (hai gam so với năm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 40% + 40% = 80% (dưới 100%), cho nên người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 193 của BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn trăm gam
nhựa thuốc phiện và ba gam hêrôin (đều thuộc khoản 1 Điều 194 của BLHS). Tổng
trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm g khoản 2
Điều 194 của BLHS là 80% (bốn trăm gam so với năm trăm gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm h khoản 2 Điều 194 của BLHS là
60% (ba gam so với năm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 60% = 140% (thuộc trường hợp từ 100%
trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm o khoản
2 Điều 194 của BLHS.
b) Trường hợp các chất ma túy đó đều được quy định
trong cùng một điểm của khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 193 hoặc trong cùng một điểm
của khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194 của BLHS thì cộng trọng lượng của các chất
ma túy đó lại với nhau và so sánh với quy định về trọng lượng trong điều luật
tương ứng để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội theo khoản nào phù hợp
của điều luật đó.
Ví dụ: một người sản xuất 300 gam nhựa
thuốc phiện và 300 gam nhựa cần sa. Do nhựa thuốc phiện và nhựa cần sa được quy
định trong cùng điểm đ khoản 2, điểm b khoản 3, điểm a khoản 4 Điều 193 của
BLHS, cho nên chỉ cần cộng trọng lượng nhựa thuốc phiện và nhựa cần sa là 300g
+ 300g = 600g. Đối chiếu với quy định về trọng lượng trong Điều 193 của BLHS,
thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 193
của BLHS.
c) Trường hợp các chất ma túy đó có trọng lượng
tại các điểm khác nhau của cùng khoản 2 (khoản 3) Điều 193 hoặc khoản 2 (khoản
3) Điều 194 của BLHS, thì tổng trọng lượng của các chất ma túy đó được xác định
theo các bước sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của từng chất ma túy so với mức tối thiểu đối với từng chất ma túy đó tại
điểm tương ứng quy định tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc khoản 3 (khoản 4) Điều
194 của BLHS.
Bước 2: Cộng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng
của từng chất ma túy lại với nhau.
Bước 3: Xác định điểm, khoản, điều luật.
Nếu tổng các tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy dưới 100%, thì
người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 (khoản 3) Điều
193 hoặc khoản 2 (khoản 3) Điều 194 của BLHS; nếu tổng tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của các chất ma túy từ 100% trở lên, thì người phạm tội bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo tình tiết định khung: “Có từ hai chất ma túy trở lên mà tổng
số lượng của các chất đó tương ứng với số lượng chất ma túy quy định tại một
trong các điểm từ…” quy định tại điểm e khoản 3 (điểm đ khoản 4) Điều 193 hoặc điểm
h khoản 3 (điểm h khoản 4) Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 1: Một người sản xuất sáu trăm gam
nhựa thuốc phiện và chín gam hêrôin (đều thuộc khoản 2 Điều 193 của BLHS). Tổng
trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm b khoản 3
Điều 193 của BLHS là 60% (sáu trăm gam so với một kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm c khoản 3 Điều 193 của BLHS là
30% (chín gam so với ba mươi gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 60% + 30% = 90% (dưới 100%), cho nên người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm i khoản 2 Điều 193 của
BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn kilôgam nhựa
thuốc phiện và ba mươi gam côcain (đều thuộc khoản 3 Điều 194 của BLHS). Tổng
trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4
Điều 194 của BLHS là 80% (bốn kilôgam so với năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của côcain so với
mức tối thiểu đối với côcain quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 của BLHS là
30% (ba mươi gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và côcain là 80% + 30% = 110% (thuộc trường hợp từ 100%
trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản
4 Điều 194 của BLHS.
d) Trường hợp trong các chất ma túy đó, có chất
ma túy có trọng lượng quy định tại khoản 1, có chất ma túy có trọng lượng quy định
tại khoản 2 (hoặc khoản 3), hoặc có chất ma túy có trọng lượng quy định tại khoản
2, có chất ma túy có trọng lượng quy định tại khoản 3 Điều 193 hoặc Điều 194 của
BLHS, thì tổng trọng lượng của các chất ma túy đó được xác định theo các bước
sau đây:
Bước 1: Xác định tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của chất ma túy có trọng lượng nhiều nhất so với mức tối thiểu đối với chất
ma túy đó quy định tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc khoản 3 (khoản 4) Điều
194 của BLHS theo nguyên tắc chất ma túy có trọng lượng nhiều nhất thuộc khoản
2 thì so với mức tối thiểu đối với chất ma túy đó quy định tại khoản 3; chất ma
túy có trọng lượng nhiều nhất thuộc khoản 3 thì so với mức tối thiểu đối với chất
ma túy đó quy định tại khoản 4.
Bước 2: Xác định tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của chất ma túy khác so với mức tối thiểu đối với chất ma túy đó quy định
tại khoản 3 (khoản 4) Điều 193 hoặc khoản 3 (khoản 4) Điều 194 của BLHS theo
nguyên tắc mức tối thiểu đối với chất ma túy có trọng lượng nhiều nhất ở khoản
nào thì mức tối thiểu của các chất ma túy khác lấy ở khoản đó.
Bước 3: Cộng các tỷ lệ phần trăm về trọng
lượng của từng chất ma túy lại với nhau và xác định điểm, khoản, điều luật. Nếu
tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy là từ 100% trở lên thì
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tình tiết định khung: “Có từ
2 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng
của chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ…” quy định tại điểm e khoản
3 (điểm đ khoản 4) Điều 193; tại điểm h khoản 3 (điểm h khoản 4) Điều 194 của
BLHS (khoản tương ứng của điều luật có quy định mức tối thiểu đối với chất ma
túy có trọng lượng nhiều nhất).
Ví dụ 1: Một người sản xuất bốn trăm gam
nhựa thuốc phiện và hai mươi bốn gam hêrôin. Trong trường hợp này hêrôin có trọng
lượng thuộc điểm e khoản 2 Điều 193 của BLHS, còn nhựa thuốc phiện có trọng lượng
thuộc khoản 1 Điều 193 của BLHS; do đó, hêrôin có trọng lượng nhiều nhất. Tổng
trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm c khoản 3 Điều 193 của BLHS là 80%
(hai mươi bốn gam so với ba mươi gam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm b khoản 3
Điều 193 của BLHS là 40% (bốn trăm gam so với một kilôgam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 40% = 120% (thuộc trường hợp từ 100%
trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm e khoản
3 Điều 193 của BLHS.
Ví dụ 2: Một người mua bán bốn phẩy năm
kilôgam nhựa thuốc phiện và bốn gam hêrôin. Trong trường hợp này nhựa thuốc phiện
có trọng lượng thuộc điểm a khoản 3 Điều 194 của BLHS, còn hêrôin có trọng lượng
thuộc khoản 1 Điều 194 của BLHS; do đó, nhựa thuốc phiện có trọng lượng nhiều
nhất. Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc
phiện so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4
Điều 194 của BLHS là 90% (bốn phẩy năm kilôgam so với năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 của BLHS là
4% (bốn gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 90% + 4% = 94% (dưới 100%), cho nên người phạm
tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 194 của BLHS.
Ví dụ 3: Một người sản xuất bốn kilôgam
nhựa thuốc phiện và hai mươi gam hêrôin. Trong trường hợp này nhựa thuốc phiện
có trọng lượng thuộc điểm b khoản 3 Điều 193 của BLHS, còn hêrôin có trọng lượng
thuộc điểm e khoản 2 Điều 193 của BLHS; do đó, nhựa thuốc phiện có trọng lượng
nhiều nhất. Tổng trọng lượng của các chất ma túy được xác định như sau:
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của nhựa thuốc phiện
so với mức tối thiểu đối với nhựa thuốc phiện quy định tại điểm a khoản 4 Điều
193 của BLHS là 80% (bốn kilôgam so với năm kilôgam).
- Tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của hêrôin so với
mức tối thiểu đối với hêrôin quy định tại điểm b khoản 4 Điều 193 của BLHS là
20% (hai mươi gam so với một trăm gam).
- Tổng tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của cả hai
chất nhựa thuốc phiện và hêrôin là 80% + 20% = 100% (thuộc trường hợp từ 100%
trở lên), cho nên người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản
4 Điều 193 của BLHS.
3. Truy cứu trách nhiệm hình
sự trong trường hợp có nhiều hành vi phạm tội
3.1. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành
vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau, từ Điều 192 đến Điều 194 của
BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều
kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn.
Ví dụ: một người trồng cây thuốc phiện
(đã được giáo dục nhiều lần, đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống và đã bị
xử phạt hành chính về hành vi này), sau đó lại tiến hành sản xuất trái phép chất
ma túy. Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều 193 của BLHS (tội sản xuất trái
phép chất ma túy nặng hơn tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có
chứa chất ma túy).
3.2. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành
vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau, từ Điều 192 đến Điều 194 của
BLHS mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều
kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng.
Đối với người thực hiện hành vi tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy để sản xuất trái phép chất
ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sản xuất trái phép chất ma
túy quy định tại Điều 193 BLHS.
3.3. Trường hợp một người thực hiện nhiều hành
vi phạm tội quy định tại các điều từ Điều 192 đến Điều 194 của BLHS mà các hành
vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội độc lập
theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: một người mua bán trái phép hêrôin
bị bắt, khi khám nhà phát hiện người đó còn có hành vi sản xuất thuốc phiện.
Trong trường hợp này người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của BLHS và tội sản xuất trái phép chất
ma túy theo Điều 193 của BLHS.
3.4. Việc xác định các tội bằng nhau, nặng hơn
hoặc nhẹ hơn được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2, mục 2, phần II Nghị
quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05-11-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3.5. Trường hợp một người thực hiện một hoặc nhiều
hành vi phạm tội quy định trong một điều luật (Điều 194, Điều 195 và Điều 196 của
BLHS) thì cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp một người chỉ thực hiện một trong
các hành vi phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của
BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh về hành vi phạm tội
đã thực hiện theo điều luật tương ứng.
Ví dụ: một người chỉ mua bán tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo Điều
195 của BLHS.
b) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi
phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS mà
các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện
để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia), thì bị truy cứu
trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với tất cả các hành vi đã được thực
hiện theo điều luật tương ứng và chỉ phải chịu một hình phạt.
Ví dụ: một người mua bán tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy rồi vận chuyển đến một địa điểm mới và
tàng trữ tiền chất đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tên tội danh là
mua bán, vận chuyển tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy theo Điều 195 của BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
c) Trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi
phạm tội theo quy định tại Điều 194 (hoặc Điều 195 hoặc Điều 196) của BLHS mà
các hành vi đó độc lập với nhau, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội
độc lập mà người ấy đã thực hiện. Khi xét xử, Tòa án áp dụng Điều 50 của BLHS để
quyết định hình phạt chung.
Ví dụ: một người mua bán một loại tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy và bị bắt, khi khám nhà phát hiện
người đó còn tàng trữ một loại tiền chất khác nhưng không nhằm mục đích để mua
bán. Trong trường hợp này, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy và tội tàng trữ
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều
195 của BLHS. Tùy từng trường hợp cụ thể mà người đó bị xử phạt mức hình phạt
tương ứng đối với từng tội và sau đó quyết định hình phạt chung cho cả hai tội
theo quy định tại Điều 50 của BLHS.
II. VỀ CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ
1. Tội trồng cây thuốc phiện
hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 192)
1.1. “Các loại cây khác có chứa chất ma túy” là
các loại cây có chứa chất gây nghiện, chất hướng thần theo quy định của Chính
phủ, trừ cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa.
1.2. “Trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần
sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy” quy định tại Điều 192 của BLHS
là hành vi gieo trồng, chăm bón hoặc thu hoạch các bộ phận của cây (như lá,
hoa, quả, thân cây có chứa chất ma túy).
1.3. Người thực hiện hành vi trồng cây có chứa
chất ma túy chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã được áp dụng đầy đủ cả
ba biện pháp: “Đã được giáo dục nhiều lần”, “đã được tạo điều kiện ổn định cuộc
sống” và “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”.
a) “Đã được giáo dục nhiều lần” là đã được cơ
quan nhà nước, tổ chức, người có trách nhiệm ở địa phương từ hai lần trở lên vận
động, thuyết phục, nhắc nhở về việc không được trồng cây có chứa chất ma túy hoặc
phổ biến đường lối, chính sách, quy định của pháp luật về cấm trồng cây có chứa
chất ma túy. Các biện pháp giáo dục này phải được thể hiện bằng biên bản. Chỉ bị
coi là “đã được giáo dục nhiều lần” nếu việc giáo dục được thực hiện trước khi
bị xử phạt hành chính.
b) “Đã được tạo điều kiện để ổn định cuộc sống”
là đã được hỗ trợ về tiền vốn, kỹ thuật để sản xuất, hỗ trợ giống cây trồng, vật
nuôi hoặc đã được hướng dẫn về kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt cây ăn quả, cây
công nghiệp, cây lương thực… để thay thế các loại cây có chứa chất ma túy.
c) “Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà
còn vi phạm” được hiểu là trước đó đã có hành vi trồng cây có chứa chất ma túy
và đã bị xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền theo quy định của pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm
hành chính, mà lại tiếp tục có hành vi trồng cây có chứa chất ma túy và bị phát
hiện. (Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính hiện hành thì có
hai hình thức xử phạt vi phạm hành chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền).
1.4. Người nào biết người khác gieo trồng, chăm
bón hoặc thu hoạch cây có chứa chất ma túy, đã được áp dụng đầy đủ cả ba biện
pháp: “Giáo dục nhiều lần”, “tạo điều kiện ổn định cuộc sống” và “đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này” mà vẫn giúp họ thực hiện một trong các hành vi đó
thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm về tội này.
1.5. Trường hợp người trồng cây có chứa chất ma
túy, đã được áp dụng đầy đủ cả ba biện pháp: “Giáo dục nhiều lần”, “tạo điều kiện
ổn định cuộc sống” và “đã bị xử phạt hành chính” nhưng không chịu phá bỏ mà bán
lại cho người khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trồng cây thuốc
phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy theo quy
định tại Điều 192 của BLHS. Người mua lại cây có chứa chất ma túy để tiếp tục
chăm sóc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nếu thỏa mãn các yếu tố
cấu thành tội phạm.
Người nào mua bán trái phép cây có chứa chất ma
túy khi cây hoặc các bộ phận của cây có chứa chất ma túy là đối tượng (chất ma
túy) quy định tại Điều 194 của BLHS thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 của BLHS.
2. Tội sản xuất trái phép
chất ma túy (Điều 193)
2.1. “Sản xuất trái phép chất ma túy” là làm ra chất
ma túy (chế biến, điều chế…) bằng thủ công hoặc có áp dụng khoa học công nghệ từ
cây có chứa chất ma túy, từ các tiền chất và các hóa chất hoặc làm ra chất ma
túy này từ chất ma túy khác mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền hoặc
không đúng với nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
Đối với các hành vi nhằm tạo thuận lợi cho việc
sử dụng chất ma túy đã có sẵn như pha chế thuốc phiện thành dung dịch để tiêm
chích, nghiền hêrôin từ bánh thành bột để hít… thì không coi là hành vi sản xuất
trái phép chất ma túy.
2.2. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định
tại điểm a khoản 3 là trường hợp người phạm tội có đầy đủ các điều kiện sau
đây:
a) Thực hiện hành vi sản xuất trái phép chất ma
túy từ năm lần trở lên không phân biệt đã bị xét xử hay chưa bị xét xử, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích;
b) Người phạm tội lấy hành vi sản xuất trái phép
chất ma túy làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội sản xuất trái
phép chất ma túy làm nguồn sống chính.
3. Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194)
3.1. “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là cất giữ,
cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn,
chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tư
trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển
hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh
hưởng đến việc xác định tội này.
3.2. “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là hành
vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ
hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…;
trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường
thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, túi quần, nuốt
vào trong bụng, để trong hành lý như vali, túi xách v.v…) mà không nhằm mục
đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái phép chất ma túy khác.
Người giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma
túy cho người khác, mà biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của người
đó, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với
vai trò đồng phạm.
3.3. “Mua bán trái phép chất ma túy” là một
trong các hành vi sau đây:
a) Bán trái phép chất ma túy cho người khác
(không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ
chất ma túy cho người khác để hưởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho người
khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho người
khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán
trái phép (không phụ thuộc vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi,
thanh toán… lấy chất ma túy nhằm bán lại trái phép cho người khác;
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho
người khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho
người khác.
Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức
cho người thực hiện một trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy được hướng
dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.3 này đều bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy.
3.4. “Chiếm đoạt chất ma túy” là một trong các
hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô, lạm dụng tín nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp
giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma túy của người khác. Trường hợp người có
hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm mục đích bán lại chất ma túy đó cho người
khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đầy đủ đối với hành vi
đã thực hiện theo Điều 194 BLHS và chỉ phải chịu một hình phạt.
3.5. Chất gây nghiện, chất hướng thần là chất ma
túy; còn thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là để chữa bệnh (chỉ chứa một hàm
lượng nhất định chất ma túy) và được quản lý theo quy chế quản lý dược phẩm của
Bộ Y tế. Người nào không thuộc đối tượng quy định tại Điều 201 BLHS mà vi phạm
trong việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện, thuốc hướng
thần nhằm mục đích kinh doanh thuốc chữa bệnh hoặc để chữa bệnh thì bị xử lý
hành chính hoặc thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng
khác không phải là tội phạm về ma túy (ví dụ: tội kinh doanh trái phép, tội
buôn lậu…). Trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần trái phép nhằm thỏa mãn nhu cầu về sử dụng trái phép chất ma
túy cho mình hoặc cho người khác thì bị xử lý về tội phạm ma túy tương ứng (nếu
thỏa mãn điều kiện về trọng lượng chất ma túy theo quy định của pháp luật).
3.6. Người nào tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc
chiếm đoạt chất ma túy với số lượng sau đây không nhằm mục đích mua bán hay sản
xuất trái phép chất ma túy khác thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đó không
truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca
có trọng lượng dưới một gam;
b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng dưới không
phẩy một gam;
c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có
trọng lượng dưới một kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng dưới năm
kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng dưới một
kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng
dưới một gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng từ mười
mililít trở xuống.
3.7. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng
trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cần phân biệt:
a) Người nào đã bị kết án về tội tàng trữ, vận
chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, chưa được xóa án tích mà lại tiếp
tục tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt một trong các chất ma túy có
số lượng được hướng dẫn từ điểm a đến điểm g tiểu mục 3.6
trên đây, nếu không thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 194 BLHS. Nếu là tái phạm nguy hiểm thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 194 của BLHS.
b) Người nào bán trái phép chất ma túy cho người
khác và còn cho họ sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý
của mình để sử dụng trái phép chất ma túy thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 BLHS, người đó còn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma
túy theo Điều 198 BLHS;
c) Người nào biết người khác đi mua chất ma túy
để sử dụng trái phép mà gửi tiền nhờ mua hộ chất ma túy để sử dụng thì người nhờ
mua hộ phải chịu trách nhiệm hình sự về số lượng chất ma túy đã nhờ mua hộ. Người
đi mua phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy đã mua cho bản
thân và mua hộ.
d) Người nào biết người khác mua chất ma túy để
sử dụng trái phép mà dùng phương tiện để chở họ cùng chất ma túy và bị bắt giữ
nếu số lượng chất ma túy đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ
hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy thì người đó là đồng phạm với người mua về
tội tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 194 BLHS.
đ) Người nào tàng trữ trái phép, vận chuyển trái
phép một trong các chất ma túy có số lượng được hướng dẫn từ điểm
a đến điểm g tiểu mục 3.6 mục 3 phần II Thông tư này mà không nhằm mục đích
mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy khác, nhưng chứng minh được là nhằm mục
đích sử dụng trái phép chất ma túy, tuy đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử
lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc thì phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy theo Điều 199 của
BLHS.
4. Tội tàng trữ, vận chuyển,
mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
(Điều 195)
4.1. “Tàng trữ tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy” là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp tiền chất ở bất cứ nơi
nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, hoặc cho vào
thùng xăng xe…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.2. “Vận chuyển tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy” là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tiền chất từ nơi này
đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phương tiện khác nhau
như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đường khác nhau như đường bộ, đường
sắt, đường hàng không, đường thủy, đường bưu điện…; có thể để trong người như
cho vào túi áo, quần, nuốt vào bụng…; có thể để trong hành lý như vali, túi
xách…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.3. “Mua bán tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:
a) Bán tiền chất cho người khác để người đó sản
xuất trái phép chất ma túy;
b) Mua tiền chất nhằm bán cho người khác để người
đó sản xuất trái phép chất ma túy;
c) Xin tiền chất nhằm bán trái phép cho người
khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
d) Dùng tiền chất để trao đổi, thanh toán trái
phép cho người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
đ) Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi,
thanh toán lấy tiền chất nhằm bán lại cho người khác để người đó sản xuất trái
phép chất ma túy;
e) Tàng trữ tiền chất nhằm bán trái phép cho người
khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy;
g) Vận chuyển tiền chất nhằm bán trái phép cho
người khác để người đó sản xuất trái phép chất ma túy.
4.4. “Chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín
nhiệm, cưỡng đoạt, cướp, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt… tiền chất của người
khác để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy.
4.5. Người tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 195 của BLHS khi các hành vi đó được
thực hiện nhằm mục đích để sản xuất trái phép chất ma túy hoặc nhằm bán lại cho
người khác để họ sản xuất trái phép chất ma túy. Trường hợp không chứng minh được
mục đích nhằm sản xuất trái phép chất ma túy hoặc mục đích nhằm bán lại cho người
khác để họ sản xuất trái phép chất ma túy thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định tại Điều 195 của BLHS mà tùy từng trường hợp cụ thể có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác theo quy định của BLHS.
Trong trường hợp tiền chất có trọng lượng dưới
50 gam (đối với tiền chất ở thể rắn) hoặc dưới 75 mililít (đối với tiền chất ở
thể lỏng) thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS để không truy cứu trách nhiệm hình sự
nhưng phải bị xử lý hành chính.
5. Tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy (Điều 196)
5.1. “Sản xuất các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là làm ra các phương tiện, dụng
cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này
(có thể bằng phương pháp thủ công hoặc áp dụng khoa học kỹ thuật) để dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
5.2. “Tàng trữ các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi cất giữ các phương
tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông
tư này ở bất kỳ địa điểm nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để
trong vali hoặc cho vào thùng xăng xe…) để dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy.
5.3. “Vận chuyển các phương tiện dụng cụ dùng
vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi dịch chuyển
các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1
phần I Thông tư này từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào (có
thể bằng các phương tiện khác nhau như ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến
đường khác nhau như đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy, đường
bưu điện…; có thể để trong người như cho vào túi áo, quần…; có thể để trong
hành lý như vali, túi xách…) để dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc
sử dụng trái phép chất ma túy.
5.4. “Mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau
đây:
a) Bán các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại
tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này cho người khác để người
đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma
túy;
b) Mua các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại
tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán cho người
khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử dụng trái
phép chất ma túy;
c) Xin các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại
tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán trái phép
cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử
dụng trái phép chất ma túy;
d) Dùng các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn
tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này để trao đổi,
thanh toán trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái
phép chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
đ) Dùng tài sản (không phải là tiền) đem trao đổi,
thanh toán lấy các phương tiện, dụng cụ được hướng dẫn tại tiểu mục
1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán lại trái phép cho người khác để người
đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy hoặc sử dụng trái phép chất ma
túy;
e) Tàng trữ các phương tiện, dụng cụ được hướng
dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán
trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
g) Vận chuyển các phương tiện, dụng cụ được hướng
dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 phần I Thông tư này nhằm bán
trái phép cho người khác để người đó dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy hoặc sử dụng trái phép chất ma túy.
5.5. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán các phương tiện, dụng
cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy cần phân biệt:
a) Chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường
hợp việc sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán các phương tiện, dụng cụ
là nhằm để dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy;
b) Người lần đầu sản xuất, tàng trữ, vận chuyển
hoặc mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma
túy và chỉ dùng các phương tiện, dụng cụ này để cho bản thân họ sử dụng trái
phép chất ma túy, thì chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị
xử lý hành chính. Trường hợp đã bị xử lý hành chính theo quy định của pháp luật
về xử lý vi phạm hành chính mà còn vi phạm thì phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự;
c) Đối với trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển hoặc mua bán từ năm bộ dụng cụ, phương tiện (có thể cùng loại, có thể
khác loại) trở xuống thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS để không truy cứu trách
nhiệm hình sự, nhưng phải bị xử lý hành chính.
d) “Vật phạm pháp có số lượng lớn” quy định tại khoản
2 Điều 196 của BLHS là trường hợp sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán từ
hai mươi bộ phương tiện, dụng cụ (có thể cùng loại, có thể khác loại) trở lên.
6. Tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy (Điều 197)
6.1. “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là
một trong các hành vi sau đây:
a) Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động
đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
b) Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị,
cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái
phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy.
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau
đây theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác thì bị coi là đồng phạm
về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy: đưa trái phép chất ma túy vào cơ
thể người khác; cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác để họ sử dụng
trái phép chất ma túy; chuẩn bị chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua,
xin, tàng trữ, sản xuất…) nhằm đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;
chuẩn bị địa điểm (thuê địa điểm, mượn địa điểm, sử dụng địa điểm không thuộc
quyền chiếm hữu của mình hoặc đang do mình quản lý để làm nơi đưa trái phép chất
ma túy vào cơ thể người khác); chuẩn bị dụng cụ, phương tiện dùng vào việc sử dụng
trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào (mua, xin, tàng trữ…) nhằm sử dụng
để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác; tìm người sử dụng chất ma
túy để đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể của họ.
6.2. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cần phân biệt:
a) Người nghiện ma túy có chất ma túy (không
phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma
túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội
tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội sử dụng trái
phép chất ma túy;
b) Người nào thực hiện hành vi tổ chức sử dụng
trái phép chất ma túy, mà còn thực hiện một hay nhiều hành vi phạm tội khác về
ma túy quy định tại các điều luật tương ứng của BLHS, thì ngoài việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo Điều 197 của BLHS, tùy từng trường hợp còn có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác đã thực hiện quy định tại điều luật
tương ứng của BLHS.
6.3. Về một số tình tiết là yếu tố định khung
quy định tại Điều 197 của BLHS.
a) “Đối với người đang cai nghiện” quy định tại điểm
đ khoản 2 Điều 197 của BLHS là trường hợp phạm tội đối với người mà người đó đã
được cơ quan có thẩm quyền kết luận họ nghiện ma túy và đang được cai nghiện tại
trung tâm cai nghiện, tại gia đình hoặc tại cộng đồng dân cư.
b) “Gây bệnh nguy hiểm cho người khác” quy định
tại điểm g khoản 2 Điều 197 của BLHS là trường hợp người tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy (có thể biết hoặc không biết) đã gây ra một số bệnh nguy hiểm
cho người sử dụng chất ma túy như HIV/AIDS, viêm gan B, lao…
Trường hợp người tổ chức sử dụng trái phép chất
ma túy biết bản thân họ hoặc người khác đã nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho
người sử dụng chất ma túy thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều
197 của BLHS, người này còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lây truyền
HIV cho người khác theo quy định tại Điều 117 của BLHS hoặc tội cố ý truyền HIV
cho người khác theo quy định tại Điều 118 của BLHS.
c) “Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người” quy định
tại điểm b khoản 3 Điều 197 của BLHS là gây bệnh nguy hiểm cho từ hai người trở
lên.
d) “Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà
tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 197 của BLHS
là trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên mà tỷ lệ thương
tật của mỗi người từ 31% đến 60%.
đ) “Gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà
tỷ lệ thương tật 61% trở lên” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 197 của BLHS là
trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên mà tỷ lệ thương tật
của mỗi người từ 61% trở lên.
7. Tội chứa chấp việc sử dụng
trái phép chất ma túy (Điều 198)
7.1. “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma
túy” là hành vi của người có địa điểm thuộc quyền chiếm hữu của mình hoặc do
mình quản lý biết người khác là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng
vẫn cho họ mượn hoặc thuê địa điểm đó để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma
túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy.
7.2. “Có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc
sử dụng trái phép chất ma túy” là trường hợp người có địa điểm thuộc quyền chiếm
hữu của mình hoặc do mình quản lý, biết người khác (không phải là ông, bà, cha,
mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của mình) là đối tượng sử dụng
trái phép chất ma túy, tuy không cho họ thuê, mượn địa điểm, nhưng lại để mặc
cho họ hai lần sử dụng trái phép chất ma túy trở lên hoặc để mặc cho nhiều người
sử dụng trái phép chất ma túy.
7.3. Khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy cần phân biệt:
a) Người có địa điểm cho người khác mượn hoặc
thuê địa điểm mà biết là họ dùng địa điểm đó không phải để họ sử dụng chất ma
túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ về sử dụng chất ma túy, mà dùng địa điểm đó để
đưa chất ma túy trái phép vào cơ thể người khác, thì phải bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 197 của
BLHS.
b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy
khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm
hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa
chấp sử dụng trái phép chất ma túy; đối với người nào có đầy đủ các yếu tố cấu
thành tội sử dụng trái phép chất ma túy, thì người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Điều 199 của BLHS.
8. Tội sử dụng trái phép chất
ma túy (Điều 199)
8.1. “Sử dụng trái phép chất ma túy” là hành vi tự
mình hoặc nhờ người khác đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể mình dưới bất kỳ
hình thức nào (như hút, hít, uống, tiêm, chích…) nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng
chất ma túy.
8.2. Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử
dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 199 của BLHS trong trường hợp
người sử dụng trái phép chất ma túy “đã được giáo dục nhiều lần” và sau đó lại
“đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh” mà còn
tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy.
a) “Đã được giáo dục nhiều lần” là đã được cơ
quan nhà nước, tổ chức cũng như những người có trách nhiệm ở địa phương từ hai
lần trở lên vận động, thuyết phục, nhắc nhở (việc áp dụng các biện pháp giáo dục
này phải được thể hiện bằng văn bản) hoặc xử phạt vi phạm hành chính, nhưng vẫn
tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy;
b) “Đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa
vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc” là đã bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo
quy định tại các điều 28, 29 Luật phòng chống ma túy năm 2000, Điều 26 Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10-6-2004
của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức
hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và chế độ
áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh (đã
có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và thực tế người đó đã bị đưa vào cơ sở
này, không đòi hỏi phải đã chấp hành xong quyết định), nhưng chưa hết thời hạn
để được coi là chưa bị xử lý hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính.
8.3. Trường hợp người nghiện ma túy tự nguyện hoặc
gia đình làm đơn xin cai nghiện và đã được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai
nghiện bắt buộc thì không coi là: “Đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa
vào cơ sở bắt buộc chữa bệnh”.
9. Tội cưỡng bức, lôi kéo
người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200)
9.1. “Cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất
ma túy” là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác
uy hiếp tinh thần của người khác để buộc họ phải sử dụng trái phép chất ma túy
trái với ý muốn của họ.
9.2. “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất
ma túy” là hành vi rủ rê, dụ dỗ, xúi giục hoặc bằng các thủ đoạn khác nhằm khêu
gợi sự ham muốn của người khác để họ sử dụng trái phép chất ma túy.
9.3. Về một số tình tiết định khung hình phạt
quy định tại Điều 200 của BLHS:
a) “Vì động cơ đê hèn” quy định tại điểm c khoản
2 Điều 200 của BLHS là vì động cơ trả thù hoặc vì các động cơ tư lợi, thấp hèn
khác.
b) “Gây bệnh nguy hiểm cho người khác” quy định
tại điểm i khoản 2 Điều 200 của BLHS là trường hợp người phạm tội (có thể biết
hoặc không biết) đã gây ra cho người bị cưỡng bức, lôi kéo sử dụng trái phép chất
ma túy một số bệnh nguy hiểm như HIV/AIDS, viêm gan B, lao…
Trường hợp người cưỡng bức, lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma túy biết bản thân họ hoặc người khác đã nhiễm HIV mà cố
ý lây truyền HIV cho người sử dụng chất ma túy thì cùng với việc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất
ma túy theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 200 của BLHS, người này còn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lây truyền HIV cho người khác theo quy định
tại Điều 117 của BLHS hoặc tội cố ý truyền HIV cho người khác theo quy định tại
Điều 118 của BLHS.
c) “Gây bệnh nguy hiểm cho nhiều người” quy định
tại điểm b khoản 3 Điều 200 của BLHS là gây bệnh nguy hiểm cho từ hai người trở
lên.
d) “Gây chết nhiều người” quy định tại khoản 4 Điều
200 của BLHS là trường hợp việc cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép
chất ma túy đã gây ra cái chết của từ hai người trở lên.
e) “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” quy
định tại khoản 4 Điều 200 của BLHS là gây hậu quả chết một người đồng thời gây
bệnh nguy hiểm cho nhiều người hoặc gây ra các hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội (như gây khó khăn, cản trở việc cai nghiện ma túy, gây dư luận
bất bình, làm quần chúng hoang mang, lo sợ v.v…).
10. Tội vi phạm quy định về
quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201)
“Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây
nghiện hoặc các chất ma túy khác” quy định tại khoản 1 Điều 201 của BLHS được
hiểu là hành vi của người có trách nhiệm trong việc nghiên cứu, giám định, sản
xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, mua bán, vận chuyển, bảo quản, tàng trữ,
phân phối, cấp phát, sử dụng, xử lý, trao đổi thuốc gây nghiện và các chất ma
túy khác đã không làm đúng quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất
đó (như không thực hiện đúng với giấy phép quy định về số lượng, chất lượng, chủng
loại, sai với các quy trình hoạt động hoặc phân phối hoặc cấp phát không đúng đối
tượng. Ví dụ, bán thuốc gây nghiện cho người khác mà không có đơn của thầy thuốc
có thẩm quyền.. hoặc thiếu trách nhiệm trong các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,
mua bán, vận chuyển, bảo quản, phân phối, cấp phát, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc
các chất ma túy khác, để xảy ra mất mát, hư hỏng, sai số lượng, chất lượng, chủng
loại…).
III. HIỆU LỰC THI HÀNH[4]
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau mười
lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo và thay thế Thông tư liên tịch số
01/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02-01-1998 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS và Thông tư liên tịch
số 02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA ngày 05-8-1998 của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương VIIA “các tội phạm về ma túy” của BLHS.
2. Các hướng dẫn trong Thông tư này nếu làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự so với các văn bản trước đây thì được áp dụng khi điều
tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm đối với người thực hiện hành vi phạm tội trước khi Thông tư này có hiệu lực.
3. Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị
kết án đúng theo các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì
không áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để kháng nghị theo trình tự giám
đốc thẩm, tái thẩm, trừ trường hợp có những căn cứ kháng nghị khác. Nếu theo Thông
tư này, họ không phải chịu trách nhiệm hình sự thì giải quyết theo thủ tục miễn
chấp hành hình phạt.
4. Đối với các trường hợp đang tiến hành điều
tra, truy cố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm mà được áp dụng các hướng dẫn trong Thông tư này để tuyên bố miễn trách nhiệm
hình sự cho bị can, bị cáo thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cần giải
thích cho họ rõ về trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự này không phải là
cơ sở của việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến
hành tố tụng gây ra.
5. Trong quá trình thực hiện Thông tư này, nếu
thấy có vướng mắc hoặc cần phải hướng dẫn, giải thích bổ sung thì đề nghị phản
ánh về Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp để có giải thích, hướng dẫn kịp thời./.
Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ (để đăng Công báo
và đăng tải trên Cổng TTĐT Chính phủ);
- Cổng Thông tin điện tử của Bộ Công an;
- Lưu: VT, V19.
|
XÁC THỰC VĂN
BẢN HỢP NHẤT
BỘ TRƯỞNG
Đại tướng Trần Đại Quang
|
[1] Thông tư
liên tịch số 08/2015/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa
đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng
một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự
năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015 có căn cứ ban hành như
sau:
“Căn cứ Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009);
Căn cứ Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày
26/6/2015 của Quốc hội khóa XIII về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan,
sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự;
Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
ban hành Thông tư liên tịch sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch
số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm
1999 (sau đây viết gọn là Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT),”
[2] Điểm này được
sửa đổi theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Thông tư liên tịch số 08/2015/
TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm
của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 24
tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội
phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng
12 năm 2015.
[3] Tiết này được
sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số
08/2015/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung
một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ
Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp
ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII
“Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày
30 tháng 12 năm 2015.
[4] Điều 2, Điều
3 và Điều 4 của Thông tư liên tịch số 08/2015/ TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày
14 tháng 11 năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ngày 24 tháng 12 năm 2007 hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình
sự năm 1999, có hiệu lực kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015 quy định như sau:
“Điều 2. Quy định chuyển tiếp
1. Đối với người thực hiện hành vi phạm tội
trước ngày Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành, nếu các hướng dẫn trong
Thông tư liên tịch này làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với các hướng dẫn
trong Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì được áp dụng khi điều tra, truy tố,
xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2. Đối với các trường hợp mà người phạm tội
đã bị kết án đúng theo Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT và bản án đã có hiệu
lực pháp luật thì không áp dụng hướng dẫn của Thông tư liên tịch này để kháng
nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.
Điều 3. Hiệu lực thi hành
Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần
II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II; mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT.
Điều 4. Trách nhiệm thi hành
1. Các cơ quan, đơn vị liên quan chịu trách
nhiệm thi hành và tổ chức thực hiện hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này.
2. Trong quá trình thực hiện Thông tư liên tịch
nếu có khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, đơn vị liên quan phản ánh về Bộ Công
an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp để có
hướng dẫn kịp thời.”