ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 4818/QĐ-UBND
|
Thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 31 tháng 12 năm 2020
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT HUY CÁC HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN CÁC
NGÀNH KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2020 - 2025
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22
tháng 11 năm 2019;
Căn cứ Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày
17 tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính
phủ thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị
về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư;
Căn cứ Quyết định số 2631/QĐ-TTg
ngày 31 tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2025;
Căn cứ Quyết định số
27/2018/QĐ-TTg ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt hệ
thống ngành kinh tế Việt Nam;
Căn cứ Quyết định số
04/2019/QĐ-UBND ngày 08 tháng 3 năm 2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban
hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành
thuộc thẩm quyền quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố;
Căn cứ Thông báo số 5504-TB/TU
ngày 17 tháng 8 năm 2020 kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy về Đề án hình
thành và phát huy các Hội đồng phát triển các ngành kinh tế giai đoạn 2020 -
2025;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Kế hoạch
và Đầu tư tại Tờ trình số 9407/TTr-SKHĐT ngày 14 tháng 12 năm 2020.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này “Đề án hình
thành và phát huy các Hội đồng phát triển các ngành kinh tế giai đoạn 2020 -
2025”.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố, giám
đốc các sở, thủ trưởng các ban, ngành Thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
quận, huyện và các cơ quan đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Thường trực Thành ủy (để báo cáo);
- Thường trực HĐND TP (để báo cáo);
- TTUB: CT, các PCT;
- VPUB: Các PCVP;
- Phòng TH, KT;
- Lưu: VT, (TH/Trào).
|
KT.
CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Võ Văn Hoan
|
ĐỀ ÁN
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT HUY CÁC HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ GIAI
ĐOẠN 2020 – 2025
(Kèm theo Quyết định số 4818/QĐ-UBND ngày 31 tháng 12 năm 2020 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh)
Chương I
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ
ÁN
I. SỰ CẦN THIẾT VIỆC
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn
nhất cả nước về dân số và quy mô kinh tế, có nguồn nhân lực chất lượng cao, các
ngành nghề kinh tế phát triển đa dạng, tập trung các ngành nghề có hàm lượng
khoa học - kỹ thuật, giá trị kinh tế cao; là đầu tàu, động lực, có sức hút và
lan tỏa không chỉ đến Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam mà đến các vùng kinh tế
khác trong cả nước. Trong những năm qua, kinh tế Thành phố liên tục tăng trưởng
cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các ngành có giá trị gia tăng và
hàm lượng khoa học - công nghệ cao chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, các nguồn lực
xã hội được phát huy; quy mô kinh tế tiếp tục được mở rộng; vị trí, vai trò của
Thành phố đối với Vùng và cả nước ngày càng được khẳng định, đóng góp tích cực
vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Dù đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong phát triển, nhưng nhìn chung tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với vị
trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh
tranh chưa cao, tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng
cao còn thấp. Nguyên nhân là do Thành phố ít có đột phá mạnh mẽ và kiến nghị với
Trung ương để có cơ chế, chính sách phát huy tiềm năng, lợi thế; đồng thời chưa
có chủ trương, biện pháp tạo sự đột phá trong thu hút đầu tư, thực hiện đối tác
công tư... Trên bình diện cả nước, các chính sách đổi mới giúp tạo ra những động
lực cho phát triển kinh tế trước đây cơ bản không còn dư địa để tiếp tục đổi mới.
Cả nước nói chung và Thành phố nói riêng cần những đột phá mạnh mẽ đủ sức tiếp
bước những thành công trong quá khứ, đủ sức tạo động lực để vượt qua các rào cản
và định hình các khuôn khổ hướng tới thành công.
Bên cạnh các vấn đề nêu trên, cơ chế
quản lý, xây dựng, triển khai các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
Thành phố vẫn theo cách làm cũ, chưa có sự đổi mới để thu hút được trí tuệ,
kinh nghiệm của các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh tế cùng tham gia. Cụ
thể việc xây dựng chính sách và điều hành phát triển kinh tế Thành phố trong thời
gian vừa qua, đặc biệt là các ngành kinh tế chủ lực, mũi nhọn còn chủ yếu dựa
vào bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, thiếu sự tham gia của các nhà khoa học,
cộng đồng doanh nghiệp; dẫn đến các các chủ trương chính sách đôi khi còn có
tính chung chung, thiếu các căn cứ biện chứng khoa học, chưa theo sát được với
thực tiễn sự phát triển của thị trường và hoạt động của doanh nghiệp, ...nên
còn bị động, chưa phát huy được hiệu quả cao khi triển khai thực hiện.
Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố
đã có nhiều quan tâm đến hoạt động của các doanh nghiệp, các nhà khoa học; đã tổ
chức nhiều buổi hội thảo, hội nghị với sự tham gia của các trường, viện, doanh
nghiệp ngành, nhà khoa học để trao đổi, thảo luận về các chủ trương, chính
sách, cũng như việc tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động này còn bị động; sự tham gia của các doanh
nghiệp ngành, các cơ quan nghiên cứu khoa học, tổ chức tài chính trong việc
nghiên cứu, xây dựng và phối hợp theo dõi quá trình thực hiện các chủ trương,
chính sách phát triển ngành còn rời rạc, chưa có sự kết nối. Đã có sự kết nối
giữa ngân hàng với doanh nghiệp, nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp nhưng hiệu
quả chưa cao, cần có sự tham gia của chính quyền để gỡ rối về chính sách.
Do đó, việc hình thành và phát huy
các Hội đồng phát triển các ngành kinh tế là cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà
nước và các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu và tổ chức tài chính trong việc
nghiên cứu, xây dựng và phối hợp theo dõi quá trình thực hiện các chủ trương,
chính sách phát triển các ngành kinh tế trong thời gian tới, góp phần tích cực
và có hiệu quả nhất đối với phát triển kinh tế - xã hội Thành phố. Theo đó, mỗi
Hội đồng phát triển các ngành kinh tế bao gồm doanh nghiệp, nhà nghiên cứu,
ngân hàng, chính quyền. Hội đồng họp định kỳ và trong các trường hợp cần thiết
để: (i) tham gia góp ý việc xây dựng cơ chế, chính sách và điều hành phát triển
kinh tế Thành phố, đặc biệt là các ngành kinh tế chủ lực, mũi nhọn chủ yếu;
(ii) phối hợp theo dõi quá triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách nhằm kịp
thời tổng hợp báo cáo Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố những khó khăn, vướng
mắc trong quá trình triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách và đề xuất các
giải pháp để điều chỉnh, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; (iii) lắng nghe,
chia sẻ, cập nhật các thông tin mới có liên quan đến sự phát triển của ngành;
tiếp nhận các ý kiến phản biện, góp ý chính sách từ những tổ chức, cá nhân có
tâm huyết, có năng lực chuyên môn một cách bài bản, hiệu quả để từ đó xem xét
việc tiếp tục tổ chức nghiên cứu, hoàn thiện các cơ chế, chính sách và kịp thời,
kiến nghị điều chỉnh, bổ sung trong trường hợp cần thiết.
Đề án hình thành và phát huy các Hội
đồng phát triển các ngành kinh tế dựa trên cơ sở tổng kết những thành tựu, chỉ
rõ những tồn tại hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế liên quan đến
của các ngành kinh tế trong thời gian qua; là cơ sở để tham mưu, đề xuất Ủy ban
nhân dân Thành phố thành lập các Hội đồng phát triển các ngành.
Sự hình thành và phát triển các Hội đồng
phát triển các ngành kinh tế tạo cơ sở để đề xuất các cơ chế và chính sách đẩy
mạnh các hoạt động phát triển các ngành trên địa bàn thành phố, đóng góp vào sự
phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố, nâng cao chất lượng cuộc sống của
người dân.
II. CĂN CỨ PHÁP LÝ
Việc xây dựng Đề án hình thành và
phát huy các hội đồng phát triển các ngành kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 căn cứ
vào một số văn bản quan trọng sau:
- Nghị quyết số 54/2017/QH14 ngày 24
tháng 11 năm 2017 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 17
tháng 4 năm 2020 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ
thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27 tháng 9 năm 2019 của Bộ Chính trị về một
số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư.
- Quyết định số 201/QĐ-TTg ngày 22
tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”.
- Quyết định số 2631/QĐ-TTg ngày 31
tháng 12 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
- Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03
tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Phát triển hệ thống
trung tâm logictics đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
- Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14
tháng 02 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao
năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
- Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày
06 tháng 7 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hệ thống ngành kinh tế Việt
Nam.
- Quyết định số 147/QĐ-TTg ngày 22
tháng 01 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển du
lịch Việt Nam đến năm 2030.
- Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố
lần XI.
- Kết luận số 379- KL/TU ngày 17
tháng 9 năm 2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về xác định danh mục nhóm sản phẩm
chủ lực và công tác điều hành, cơ chế chính sách phát triển nhóm sản phẩm chủ lực
của thành phố.
- Nghị quyết số 16/2018/NQ-HĐND ngày
08 tháng 10 năm 2018 của Hội đồng nhân dân Thành phố về việc ban hành Quy định
về kích cầu đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ của Thành phố.
- Quyết định số 50/2015/QĐ-UBND ngày
30 tháng 10 năm 2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố về việc ban hành quy định thực
hiện Chương trình kích cầu đầu tư của Thành phố.
- Quyết định số 4545/QĐ-UBND ngày 15
tháng 10 năm 2018 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành danh mục nhóm sản
phẩm chủ lực ngành nông nghiệp.
- Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày
08 tháng 3 năm 2019 của Ủy ban nhân dân Thành phố về ban hành Quy chế thành lập,
tổ chức và hoạt động của tổ chức phối hợp liên ngành thuộc thẩm quyền quyết định
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố.
III. Mục tiêu, nhiệm
vụ nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu, đề xuất việc hình thành
và các cơ chế, chính sách phát huy hiệu quả hoạt động của các các Hội đồng phát
triển các ngành kinh tế nhằm: (i) huy động các nguồn nhân lực trí tuệ toàn xã hội
(bao gồm đại diện các doanh nghiệp, các cơ quan nghiên cứu khoa học và đào tạo
phục vụ ngành, các tổ chức tài chính và các cơ quan nhà nước Thành phố) tham
gia vào quá trình nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn, chủ lực, tạo động lực phát triển kinh tế Thành phố;
theo dõi quá trình triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách đảm bảo kịp thời
phát hiện và giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện; (ii)
tạo sự gắn kết giữa các thành phần kinh tế góp phần đổi mới cơ chế quản lý của
Thành phố; qua đó phát huy tối đa lợi thế của các thành phần kinh tế trong quá
trình nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách phát triển
ngành.
2. Nhiệm vụ
- Trên cơ sở thực trạng tình hình
phát triển các ngành kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng phát triển
giai đoạn 2021 - 2025, xác định và đề xuất các ngành kinh tế cần thành lập Hội
đồng phát triển ngành kinh tế.
- Nghiên cứu xây dựng cơ chế hình
thành; cơ cấu tổ chức; nội dung, nguyên tắc hoạt động và các giải pháp, kiến
nghị để đảm bảo thu hút được rộng rãi, có chọn lọc các thành viên là những người
có trình độ chuyên môn cao, kiến thức rộng và trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực
có liên quan, tạo điều kiện thuận lợi cho các Hội đồng phát triển ngành kinh tế
Thành phố hoạt động hiệu quả.
- Xác định cụ thể các cơ chế, chính
sách đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình triển khai hoạt động của các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế.
- Xác định các nguồn lực cần thiết để
hình thành, duy trì và phát triển các Hội đồng này.
Chương II
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
I. Thực trạng
tình hình phát triển các ngành kinh tế thành phố giai đoạn 2016 - 2020
Chất lượng tăng trưởng kinh tế Thành
phố được cải thiện, cơ bản phát triển kinh tế dựa trên nền tảng dịch vụ và đổi
mới sáng tạo, khoa học công nghệ, thể hiện qua cả 3 mặt sau: (1) đóng góp của yếu
tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng liên tục qua các năm, năm 2016 là
35,3%, năm 2020 ước đạt 42%, bình quân cả giai đoạn đạt 38,42%, cao hơn giai đoạn
2011 - 2015 (33,17%); (2) Năng suất lao động theo giá hiện hành (triệu đồng/người
lao động) của Thành phố các năm 2010, 2015, 2020 lần lượt đạt 139,3 triệu,
222,6 triệu và 326,7 triệu, cao hơn từ 2,7 đến 3 lần so với cả nước; tốc độ
tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 6,2%/năm, cao hơn
giai đoạn 2011 - 2015 là 4,8%/năm; (3) Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được nâng
lên, chỉ số ICOR giảm từ 4,53 năm 2015 xuống còn 5,31 năm 2020, bình quân giai
đoạn 2016 - 2020 đạt 4,63 (thấp hơn giai đoạn 2011 - 2015 là 4,76).
Hiện
trạng chuyển dịch cơ cấu khu vực kinh tế giai đoạn 2016-2020
|
2010
|
2015
|
2016
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
GRDP
theo giá hiện hành (tỷ đồng)
|
512.522
|
919.025
|
1.005.537
|
1.114.600
|
1.225.995
|
1.338.179
|
1.450.059
|
Cơ
cấu (%)
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
100,00
|
Nông,
nghiệp, thủy sản
|
0,67
|
0,73
|
0,72
|
0,66
|
0,66
|
0,67
|
0,52
|
Công
nghiệp, xây dựng
|
27,52
|
25,00
|
24,88
|
24,75
|
24,72
|
24,17
|
24,53
|
Dịch
vụ
|
57,67
|
61,66
|
61,24
|
61,50
|
61,71
|
62,18
|
62,16
|
Thuế
sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm
|
14,14
|
12,61
|
13,17
|
13,09
|
12,90
|
12,98
|
12,79
|
Cụ thể phát triển của các lĩnh vực
như sau:
1. Về phát triển dịch vụ
Các ngành dịch vụ phát triển đúng định
hướng, đạt kết quả tăng trưởng cao cả về quy mô và năng suất, chất lượng; trong
đó 9 ngành dịch vụ chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành dịch vụ; ngành
thương mại phát triển theo hướng hiện đại, nhất là thương mại điện tử, đáp ứng
yêu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân; ngành du lịch tiếp tục dẫn đầu cả
nước và là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố; ngành vận tải, cảng và kho bãi
đã chuyển dịch mạnh mẽ với việc hoàn thành các công trình giao thông trọng điểm
đã rút ngắn thời gian lưu thông và vận chuyển hàng hóa giữa các khu vực, vùng
miền; dịch vụ giáo dục đào đạo đã chuyển dịch theo hướng đào tạo nguồn nhân lực
cho 4 ngành công nghiệp trọng yếu và nhóm 9 ngành dịch vụ chủ yếu, dịch vụ y tế
phát triển theo hướng y tế kỹ thuật cao, chuyên sâu.
Hoạt động thương mại, dịch vụ cùng với
sự phát triển của hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ rộng khắp đã thúc đẩy lưu
thông hàng hóa, góp phần kích thích sản xuất; việc triển khai Cuộc vận động
“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, chương trình bình ổn thị trường
các mặt hàng thiết yếu đã tạo hiệu ứng lan tỏa, chất lượng hàng hóa đảm bảo và
giá cả ổn định, góp phần bình ổn thị trường.
Thị trường trong nước duy trì ổn định
nhờ các giải pháp kích cầu tiêu dùng thông qua các chương trình khuyến mại, giảm
giá của các doanh nghiệp phân phối, các đợt tổ chức hội chợ, triển lãm. Thành
phố đã thực hiện tốt vai trò điều phối cung - cầu hàng hóa giữa Thành phố và
các tỉnh, thành; hỗ trợ doanh nghiệp đưa hàng về cung ứng, tiêu thụ tại các địa
phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thành phố an tâm đầu tư,
liên kết phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà máy, mở rộng trang trại...
phát triển hệ thống phân phối, xây dựng vùng nguyên liệu đảm bảo cung cầu hàng
hóa, bình ổn thị trường cho Thành phố và cả khu vực. Các doanh nghiệp thành phố
có thế mạnh trong sản xuất, chế biến và phân phối hàng hóa, có thị phần và nguồn
lực vốn thực hiện liên kết, hợp tác với doanh nghiệp các địa phương có kinh
nghiệm, tiềm năng trong sản xuất nguồn nguyên liệu, các sản phẩm đặc sản... góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, thực hiện các dự án sản xuất, phát triển
vùng nguyên liệu và mở rộng mạng lưới phân phối gắn với thu mua, tiêu thụ sản
phẩm, giải quyết việc làm cho lực lượng lao động và thực hiện nhiệm vụ bình ổn
thị trường ngay tại các địa phương.
Thành phố đã tập trung đẩy mạnh phát
triển hệ thống phân phối theo hướng văn minh, hiện đại và giảm dần các hình thức
phân phối truyền thống. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và phát triển các loại
hình kinh doanh tiện ích vào trong lĩnh vực thương mại đã góp phần đáng kể
trong việc chuyển đổi phương thức kinh doanh của doanh nghiệp thành phố theo hướng
hiện đại; kết nối nhà cung cấp và người tiêu dùng đến gần nhau hơn, rút ngắn tầng
nấc trung gian. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn
2016 - 2020 gấp 1,74 lần quy mô thị trường thương mại dịch vụ giai đoạn 2011 -
2015, tăng bình quân 12,1%/năm (theo giá thực tế), cao hơn so với mức tăng trưởng
của giai đoạn 2011-2015 (tăng 12,5%/năm). Hệ thống phân phối hiện đại đã phát
triển về số lượng và chất lượng, phủ khắp 24 quận, huyện đã thúc đẩy lưu thông
hàng hóa và sản xuất.
Thành phố đã triển khai kế hoạch phát
triển thương mại điện tử giai đoạn 2016 - 2020 nhằm hỗ trợ, khuyến khích doanh
nghiệp và người tiêu dùng đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử; dẫn đầu cả nước
về Chỉ số thương mại điện tử qua các năm 2017, 2018, 2019. Tỷ trọng doanh số
mua bán trực tuyến trên tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 8,14% (khách hàng bao
gồm dân cư Thành phố và các tỉnh, thành khác). Ứng dụng thương mại điện tử của
doanh nghiệp có sự tăng trưởng rõ rệt, bước đầu thực hiện cho phép đặt hàng và
thanh toán trực tuyến. Các doanh nghiệp bắt đầu thiết lập website trên nền tảng
di động và xây dựng các ứng dụng, người tiêu dùng mua sắm trên các kênh truyền
hình và mạng xã hội có chuyển khoản qua các ngân hàng chiếm khoảng 17,6% tổng số
người mua hàng trực tuyến.
Hoạt động tín dụng tiếp tục đáp ứng tốt
nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh, cá nhân... nhằm mở rộng và phát
triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tín dụng duy trì tốc độ tăng trưởng và tăng trưởng ổn định trong suốt thời gian
qua, duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 17,8%/năm. Với quy mô dư nợ tín dụng
cao đã góp phần quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế Thành phố thông
qua các hoạt động cho vay sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư. Tín dụng trung
dài hạn, với cơ cấu luôn duy trì ở mức chiếm trên 50% trong tổng dư nợ tín dụng
đã góp phần quan trọng trong quá trình đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, cũng như triển khai thực hiện các dự án phát triển cơ sở hạ tầng
của Thành phố.
Trong quản lý, Thành phố đã phối hợp
với các đơn vị liên quan, triển khai thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức
tín dụng của Ngân hàng Nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 gắn với phát triển và
nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống tổ chức tín dụng. Thực hiện các giải
pháp nâng cao năng lực quản trị, điều hành; xây dựng và hoàn thiện các quy chế,
quy trình, quy định nội bộ liên quan để công tác chỉ đạo, điều hành trong toàn
hệ thống được xuyên suốt và triệt để; các tổ chức tín dụng từng bước đã tái cấu
trúc mô hình quản lý phù hợp với quy mô và định hướng phát triển; nghiên cứu,
xây dựng, thiết lập và triển khai hệ thống quản trị tiên tiến trên cơ sở tiếp
thu mô hình quản lý của các tổ chức tài chính lớn trên thế giới, khả năng ứng dụng
khoa học công nghệ vào từng quy trình, từng khâu để nâng cao hiệu quả công tác
quản trị, điều hành.
Nội bộ ngân hàng cũng thường xuyên có
các giải pháp cơ cấu lại hoạt động, trong đó tập trung sắp xếp các đơn vị kinh
doanh kém hiệu quả, hoàn thiện dịch vụ ngân hàng hiện có, phát triển các dịch vụ
ngân hàng mới dựa trên công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống ATM và POS theo
chính sách không dùng tiền mặt của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; xây dựng chiến
lược kinh doanh mới, tập trung tín dụng vào những lĩnh vực khuyến khích đầu tư,
vào đối tượng hỗ trợ theo chủ trương của Chính phủ như nông nghiệp, xuất khẩu,
công nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ; xác định nền tảng
công nghệ thông tin là cơ sở phát triển dịch vụ, các ngân hàng đều tập trung
hoàn thiện, nâng cấp và cập nhật phần mềm ngân hàng lõi, xây dựng hệ thống
trung tâm dữ liệu dự phòng, áp dụng mới trong bảo mật dữ liệu.
Các công ty tài chính/cho thuê tài
chính đã nỗ lực phát triển các sản phẩm dịch vụ như cho vay tiêu dùng, cho vay
bằng tiền mặt, cho thuê máy móc, thiết bị, đặc biệt máy móc thiết bị nông - lâm
- thủy sản. Hiện các đơn vị này đang nghiên cứu triển khai các sản phẩm thẻ tín
dụng để đa dạng hóa hoạt động.
Thị trường bất động sản phát triển,
trong đó có cả nhà ở đã góp phần rất quan trọng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu nhà ở của người dân. Chủ thể tham gia thị trường bất động sản từng bước được
hoàn thiện, góp phần cho thị trường phát triển. Đội ngũ các doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản trong nước, cũng như nước ngoài, các đơn vị tư vấn, doanh
nghiệp xây dựng, vật liệu xây dựng; hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho thị trường bất
động sản như các sàn giao dịch bất động sản, hệ thống thông tin bất động sản,
công chứng, đăng ký sở hữu, hệ thống cung cấp dịch vụ tư vấn, môi giới, quản lý
bất động sản tại Thành phố ngày càng phát triển về quy mô và chất lượng cao
hơn.
Các doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản đã tái cấu trúc doanh nghiệp; tự điều chỉnh cơ cấu kinh doanh, đưa ra các
chiến lược phù hợp với tình hình thị trường; ưu tiên đầu tư những dự án có vị
trí tốt, hạ tầng giao thông thuận lợi; hướng mạnh vào phân khúc thị trường có
khả năng thanh toán như phân khúc bình dân, với mức giá hợp lý phù hợp với nhu
cầu thị trường; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, áp dụng công nghệ thi công
tiên tiến và sử dụng vật liệu mới, tiết kiệm chi phí để giảm giá thành sản phẩm,
qua đó có thể cạnh tranh về giá, về chất lượng và phù hợp với nhu cầu của thị
trường.
- Phát triển thị trường khoa học,
công nghệ: Đầu tư từ ngân sách cho khoa học công nghệ bình quân giai đoạn chiếm
2,87% tổng chi ngân sách; các loại hình dịch vụ khoa học công nghệ về hỗ trợ khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo được phát triển mạnh với hơn 100 doanh nghiệp khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo thu hút được vốn đầu tư để phát triển dự án. Từ đó, thành phố
đã có những đóng góp quan trọng cho hoạt động đổi mới sáng tạo của quốc gia,
góp phần cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tăng 17
bậc so với năm 2016, lên vị trí 42/129 quốc gia, đứng thứ 3 Đông Nam Á về số lượng
doanh nghiệp khởi nghiệp (năm 2019), chỉ số TFP thành phố đạt 38,1% (2018) và tỷ
lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo đạt 36,4% (2019), tốc độ tăng trưởng
bình quân hàng năm là 15,94%. Thành phố còn đặc biệt quan tâm đến việc ứng dụng
công nghệ cao trong lĩnh vực khám và điều trị, đã đưa nhiều kỹ thuật cao vào
lĩnh vực lâm sàng, cận lâm sàng vào công tác khám chữa bệnh như: mổ tim, ghép
thận, điều trị can thiệp tim mạch, phẫu thuật bằng robot. Thành phố đã ban hành
Kế hoạch phát triển trung tâm y tế chuyên sâu và triển khai loại hình du lịch y
tế từ năm 2017. Từ năm 2016 đến nay, hơn 300.000 lượt doanh nghiệp đã tiếp cận
thông tin công nghệ, hơn 10.000 lượt doanh nghiệp đã được tư vấn về công nghệ,
kết nối với nhà cung ứng, thúc đẩy hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ, tư
vấn, môi giới chuyển giao công nghệ. Đến nay có khoảng 200 đơn vị đang thực hiện
các hoạt động dịch vụ trung gian. Hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ luôn được
chú trọng, góp phần tạo môi trường kinh doanh của thành phố lành mạnh, thu hút
đầu tư hiệu quả hơn. Hoạt động thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu, chuyển giao
công nghệ thời gian qua được quan tâm đẩy mạnh và đã mang lại tín hiệu tích cực.
- Hoạt động xuất nhập khẩu của Thành
phố tiếp tục phát triển, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua cửa khẩu cả nước
giai đoạn 2016 - 2020 gấp 1,44 lần giai đoạn 2011 - 2015. Cơ cấu hàng xuất khẩu
tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của Thành phố, giá trị gia tăng trên sản phẩm được cải thiện. Cơ cấu
thị trường xuất khẩu chuyển dịch mạnh mẽ sang các nước/vùng lãnh thổ mà Việt
Nam có tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA).
- Ngành du lịch được đánh giá là một
trong những trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, mỗi năm đón hàng triệu lượt du
khách quốc tế đến tham quan, nghỉ dưỡng, chiếm 50% tổng lượng khách quốc tế đến
Việt Nam. Tổng thu du lịch chiếm khoảng 1/4 tổng thu du lịch của cả nước. Các
chỉ tiêu chủ yếu của ngành du lịch Thành phố có tốc độ tăng trưởng khá, thời điểm
sau luôn cao hơn so với cùng kỳ. Khách quốc tế đến Thành phố tăng trưởng bình
quân đạt hơn 14% và bằng khoảng 50% lượng khách quốc tế đến cả nước. Khách du lịch
nội địa bằng khoảng 1/3 lượng khách du lịch nội địa của cả nước. Năm 2019 du lịch
Thành phố đạt 8,619 triệu lượt khách quốc tế, 32,77 triệu lượt khách du lịch nội
địa, tổng thu du lịch đạt 140.017 tỷ đồng.
Bên cạnh kết quả đạt được, còn một số
hạn chế, khó khăn:
Chất lượng tăng trưởng nhìn chung
chưa bền vững, năng lực cạnh tranh chưa cao; cơ cấu nội bộ các ngành tuy có sự
chuyển biến tích cực, đúng định hướng, nhưng hàm lượng giá trị gia tăng còn thấp,
tỷ lệ sản xuất gia công còn cao; sức cạnh tranh chưa tăng nhiều.
Số doanh nghiệp ngoài nhà nước nhiều
nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên đầu tư chính vào thương mại dịch vụ,
chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế
lớn trên thế giới. Một số hộ kinh doanh cá thể chưa chuyển đổi mô hình hình
kinh doanh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận các nguồn vốn tín dụng của các
ngân hàng và mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trình độ công nghệ và tay nghề của
công nhân của doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa cao; thiết bị, máy móc lạc hậu; năng
suất lao động thấp; chất lượng sản phẩm không ổn định; năng lực quản trị điều
hành của nhiều doanh nghiệp còn yếu.
Tỷ lệ đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp,
công nghệ sản xuất chưa cao; tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, liên kết doanh
nghiệp trong nước, nước ngoài chưa rõ nét; sự gia tăng hiệu quả sử dụng vốn,
năng suất lao động chưa bền vững; cơ cấu sử dụng đất chưa phù hợp với cơ cấu
kinh tế.
Chưa gắn kết hệ thống logistics và xuất
nhập khẩu do quy mô của doanh nghiệp dịch vụ logistics còn nhỏ, sức cạnh tranh
yếu, cơ sở hạ tầng logistics còn yếu và chưa đồng bộ, còn thiếu các giải pháp
trọn gói,... dẫn đến chất lượng phục vụ còn hạn chế, chi phí dịch vụ logistics
cao so với các nước trong khu vực.
Hệ thống bán lẻ trong nước đang chịu
nhiều sức ép cạnh tranh với nước ngoài. Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn
nhiều mặt hạn chế như chiến lược đầu tư phát triển chưa được chú trọng; tính
chuyên nghiệp không cao; hạn chế về năng lực tài chính; các dịch vụ hậu mãi
chưa tốt.
Hoạt động thương mại điện tử còn khó
khăn trong công tác quản lý nhà nước nhất là trong vấn đề quản lý và thu thuế,
tình trạng hàng nhái, hàng không đảm bảo chất lượng còn xuất hiện.
Xuất khẩu tăng trưởng chủ yếu ở những
nhóm mặt hàng dựa vào nguồn lao động rẻ và gia công hơn là những mặt hàng có
giá trị gia tăng cao. Sản xuất xuất khẩu đối mặt với nhu cầu nhập khẩu ở các nước
suy giảm mạnh và xu hướng bảo hộ tăng ở một số thị trường. Giá và lượng xuất khẩu
của nhiều hàng hóa giảm, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng gia
công, vì vậy giá trị gia tăng thấp, chưa thực sự tham gia vào chuỗi sản xuất và
lưu thông sản phẩm của các tập đoàn đa quốc gia. Môi trường kinh tế vĩ mô có
nhiều biến động, đặc biệt là quan hệ thương mại giữa các cường quốc kinh tế;
trong đó sự suy giảm kinh tế của các nền kinh tế lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tăng trưởng xuất khẩu còn phụ thuộc
vào doanh nghiệp FDI và chủ yếu ở những nhóm mặt hàng dựa vào nguồn lao động rẻ
và gia công hơn là những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Hàng công nghiệp chế
biến phục vụ thị trường trong nước cũng chịu sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu
sau khi thuế nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm theo lộ trình thực hiện các hiệp định
thương mại tự do.
Cơ chế hỗ trợ sự vận hành của thị trường
còn thiếu hoặc chưa phát huy hiệu quả. Trình độ phát triển của các loại thị trường
thấp, vận hành chưa thật sự đồng bộ, thông suốt; thị trường tài chính - tiền tệ
và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro; thị trường khoa học - công nghệ
phát triển chậm. Việc tự do hóa thương mại, đầu tư trong một số thị trường,
lĩnh vực chưa sát hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế. Chậm xây dựng
hàng rào kỹ thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ năng lực và hiệu
quả để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh,
bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu...
Việc phát triển thị trường khoa học
và công nghệ chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của Thành phố. Mối liên kết
trong hoạt động khoa học và công nghệ giữa trường - viện và doanh nghiệp chưa
chặt chẽ. Doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư nhiều vào hoạt động nghiên cứu khoa
học, phát triển công nghệ mới và sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu thị trường. Trình
độ công nghệ trong doanh nghiệp đạt trung bình tiên tiến, tuy nhiên đa số doanh
nghiệp là vừa và nhỏ nên năng lực tài chính và trình độ tiếp cận công nghệ còn
hạn chế, thiếu nguồn nhân lực trình độ cao, những chuyên gia đầu ngành, nhất là
trong các lĩnh vực trọng điểm như công nghệ sinh học, công nghệ vi mạch, công
nghệ nano, trí tuệ nhân tạo,... Cơ sở vật chất hoạt động nghiên cứu khoa học và
khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao chưa đáp ứng
nhu cầu phát triển.
2. Về phát triển công nghiệp
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp
giai đoạn 2016 - 2020 tăng bình quân 7,06%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015
(6,92%/năm), trong đó 4 ngành công nghiệp trọng yếu ước tăng 6,62%/năm và là động
lực cho tăng trưởng kinh tế của Thành phố. Khu công nghệ cao thu hút đầu tư của
các tập đoàn, công ty sản xuất công nghiệp công nghệ tiên tiến, giá trị xuất khẩu
tăng mạnh. Khoa học xã hội và nhân văn được chú trọng đầu tư và phát huy hiệu
quả. Công nghiệp hỗ trợ ngày càng đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước, các
doanh nghiệp đã từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất sản phẩm, trở thành nhà
cung ứng phụ tùng, linh kiện cho sản phẩm hoàn chỉnh của ngành điện tử, ô
tô,... của các tập đoàn nước ngoài, góp phần đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu,
nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng lực sản xuất và cung ứng hàng hóa phục vụ
thị trường nội địa và xuất khẩu.
Thành phố đã tập trung phát triển 4
ngành công nghiệp trọng yếu có hàm lượng khoa học công nghệ, giá trị gia tăng
cao với nhiều giải pháp như: Ban hành danh mục nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực
và nhóm sản phẩm công nghiệp tiềm năng giai đoạn 2018 - 2020 và các nhóm giải
pháp hỗ trợ doanh nghiệp phát triển; ưu tiên thu hút các dự án thuộc các ngành
trên vào các khu công nghiệp, khu chế xuất; hỗ trợ lãi suất vay vốn đầu tư đổi
mới trang thiết bị, công nghệ thông qua chương trình kích cầu; tổ chức kết nối
ngân hàng - doanh nghiệp,... Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới thuộc
4 ngành trọng yếu tăng bình quân 17,3%/năm; 2 ngành truyền thống (dệt may, da
giày) tăng 15,2%/năm; trong lĩnh vực thương mại, ngành bán buôn và bán lẻ tiếp
tục dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư với số doanh nghiệp thành lập mới tăng thêm
27,6% mỗi năm. Tỷ lệ nội địa hóa của 4 ngành công nghiệp trọng yếu và 2 ngành
công nghiệp truyền thống tăng qua các năm đạt 61,68% (năm 2014) tăng lên 71,32%
(năm 2018), đạt chỉ tiêu đến năm 2020 (66%), cho thấy tỷ trọng của sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ tạo ra trong nước trong giá trị của sản phẩm hoàn chỉnh ngày
càng lớn, tham gia ngày càng nhiều vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Thông qua các chương trình kích cầu đầu
tư, Thành phố đã huy động được các nguồn lực xã hội (vốn, nhân lực, đất đai, kỹ
thuật - công nghệ) cho đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp; đồng thời, hướng
các nguồn lực này vào các lĩnh vực ưu tiên, các ngành công nghiệp trọng yếu.
Qua đó đã giúp cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, đổi mới máy móc, thiết bị
và công nghệ, một số doanh nghiệp đã từng bước tham gia vào chuỗi sản xuất sản
phẩm, trở thành nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 (cung ứng khuôn mẫu, linh kiện nhựa kỹ
thuật, bao bì,...) cho sản phẩm hoàn chỉnh của ngành điện tử, ô tô,... của các
tập đoàn đa quốc gia.
Bên cạnh kết quả đạt được, còn một số
hạn chế, khó khăn:
Công nghiệp Thành phố chủ yếu phát
triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; năng lực cạnh tranh và khả
năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu còn hạn chế; tính liên kết giữa
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp các ngành, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ
trong nước với các nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh, các doanh nghiệp FDI còn hạn
chế.
Tình hình sản xuất công nghiệp bị tác
động do doanh nghiệp có xu hướng mở rộng sản xuất hoặc đầu tư mới ở các tỉnh
lân cận với lợi thế về giá thuê đất, chi phí đầu tư và nhân công thấp. Mặt bằng
sản xuất và quỹ đất (diện tích, giá thuê) dành cho công nghiệp - công nghiệp hỗ
trợ chưa phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ; trong khi mô hình nhà xưởng cao tầng
chưa được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Các sản phẩm đa dạng theo nhu cầu thị
trường và có doanh thu tăng khá nhưng sản lượng giảm hoặc tăng thấp; các sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ chưa đa dạng, chưa sản xuất tổ hợp các bộ linh kiện phức tạp.
Nhiều nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng doanh nghiệp trong nước đã sản xuất được
nhưng sản lượng, đơn hàng không đảm bảo cho doanh nghiệp cạnh tranh về giá.
Doanh nghiệp nước ngoài chưa thực sự liên kết với doanh nghiệp trong nước, chuyển
giao công nghệ, kỹ thuật, tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm chưa cao. Chưa thu hút được
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài quy mô lớn.
3. Về phát triển nông nghiệp
Ngành nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch
theo hướng nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững, tập trung vào các
ngành nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, kéo theo năng suất lao động
tăng bình quân 21%/năm. Đã ban hành danh mục các sản phẩm chủ lực và tiềm năng
của ngành nông nghiệp. Giá trị sản xuất bình quân trên 01 ha đất sản xuất nông
nghiệp của năm 2019 đạt 550 triệu đồng/ha/năm, gấp 1,5 lần năm 2015 (367 triệu
đồng/ha/năm). Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng bình quân ngành nông nghiệp
giai đoạn 2016 - 2020 là 5,6%/năm. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã góp phần
nâng cao giá trị sản xuất, đảm bảo nguồn thực phẩm an toàn cho thành phố và là
đầu mối tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật. Việc đầu tư xây dựng Khu Nông
nghiệp công nghệ cao, Trung tâm Công nghệ sinh học và Trại trình diễn và thực
nghiệm chăn nuôi bò sữa công nghệ cao bước đầu được phát huy trong ứng dụng
khoa học công nghệ, ứng dụng công nghệ cao, công nghệ sinh học trong việc chọn,
lai tạo và sản xuất giống cây trồng, vật nuôi mới, có năng suất, chất lượng
cao.
Bên cạnh kết quả đạt được, còn một số
hạn chế, khó khăn:
Ngành nông nghiệp vẫn chưa chuyển biến
thật rõ nét như kỳ vọng. Sản xuất nông nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn, nhất là
khi đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi người
dân, hợp tác xã, doanh nghiệp đầu tư khó tiếp cận được nguồn vốn vay ngân
hàng...; Ngoài ra, do diện tích đất nông nghiệp manh mún dẫn đến khó hình thành
những vùng sản xuất tập trung, ứng dụng và chuyển giao các công nghệ mới; tình
trạng sản xuất nhỏ, phân tán còn phổ biến, sức cạnh tranh thấp; các hình thức tổ
chức sản xuất nông nghiệp có chuyển biến nhưng vẫn chậm đổi mới, chưa phát triển
sản xuất hàng hóa mạnh ở nông thôn; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản
xuất vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.
II. Thực trạng
công tác xây dựng và triển khai thực hiện các chính sách phát triển các ngành
kinh tế của Thành phố
1. Công tác xây dựng chính sách
Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố
đã ban hành nhiều chính sách quan trọng, có tác động tích cực và được người dân
và doanh nghiệp đánh giá cao. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành các chương
trình, đề án nhánh để thực hiện Chương trình; đã ban hành Quyết định số
5792/QĐ-UBND ngày 03 tháng 11 năm 2016 thực hiện Thông báo số 269-TB/TU ngày 29
tháng 9 năm 2016 của Ban Thường vụ Thành ủy về Đề án phát triển công nghiệp hỗ
trợ; Quyết định số 1891/QĐ-UBND ngày 08 tháng 5 năm 2018 thực hiện Thông báo số
1956-TB/TU ngày 03 tháng 8 năm 2017 của Ban Thường vụ Thành ủy về Đề án Quy hoạch
phát triển ngành thương mại đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số
1339/QĐ-UBND ngày 27 tháng 3 năm 2017 về kế hoạch hoàn thiện hệ sinh thái khởi
nghiệp; Quyết định số 3907/QĐ-UBND ngày 01 tháng 8 năm 2016 về hỗ trợ và phát
triển doanh nghiệp đến năm 2020; Quyết định số 3293/QĐ-UBND ngày 28 tháng 6 năm
2016, Quyết định số 2153/QĐ-UBND ngày 04 tháng 5 năm 2017 và Quyết định số
3513/QĐ-UBND ngày 21 tháng 8 năm 2018 ban hành Kế hoạch cải thiện chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), tiếp tục triển khai những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư của thành phố, số
1246/QĐ-UBND ngày 30 tháng 3 năm 2019 về ban hành kế hoạch triển khai Nghị quyết
số 02/NQ-CP của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định
hướng năm 2021.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng và ban
hành các chính sách vẫn còn một số bất cập, tồn tại cần phải tiếp tục cải thiện.
Nhiều chính sách được xây dựng chủ yếu là cụ thể hóa các văn bản do Trung ương
ban hành mà thiếu đi tính sáng tạo, chủ động và điều kiện đặc thù của Thành phố
trong khi trình độ phát triển kinh tế, dân số, lực lượng lao động và trình độ
lao động, mối quan hệ đầu tư và ngoại thương của Thành phố khác rất nhiều 62 tỉnh
thành còn lại. Do đó, các chính sách của Thành phố không khác gì nhiều so với
các tỉnh thành khác, không tạo động lực để kinh tế bứt phá. Đây là cách làm còn
mang tính kinh tế kế hoạch, chưa bám sát thị trường, dẫn đến nhiều chính sách,
giải pháp chưa thực sự sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp hoặc gặp khó
khăn trong quá trình thực hiện vì các quy định có liên quan trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng.
Công tác dự báo, dự đoán tình hình của
chúng ta còn thiếu và yếu, dẫn đến việc các chính sách không có tính đón đầu mà
chủ yếu được ban hành để theo kịp tình hình phát triển kinh tế - xã hội của
Thành phố. Việc lập chính sách chưa có lộ trình, chiến lược rõ ràng cho từng
giai đoạn, chưa định hướng đầy đủ cho các doanh nghiệp và người dân để tập
trung nguồn lực cho các mục tiêu ưu tiên của Thành phố
Việc tham mưu xây dựng chính sách chủ
yếu là do các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Mặc dù theo quy trình vẫn có
sự tham khảo ý kiến của các bên có liên quan nhưng thiếu đi cơ chế để việc lấy ý
kiến được bài bản và huy động được trí tuệ của thành phần kinh tế, tầng lớp xã
hội, đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp và các nhà khoa học. Thiếu yếu tố phản
biện xã hội dẫn đến một số chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía các
doanh nghiệp, đối tượng mà chính sách nhắm đến chưa thực sự nhận được đầy đủ lợi
ích mà chính sách mang lại.
Quá trình xây dựng chính sách còn kéo
dài trong khi đó diễn biến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và
trên thế giới có sự thay đổi nhanh. Các vấn đề liên quan đến chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung và đại dịch Covid-19 vừa qua là minh chứng cụ thể cho việc các yếu
tố chiến lược trong phát triển kinh tế có thể thay đổi nhanh đến mức nào. Do
đó, việc ban hành các chính sách của chúng ta có độ trễ nhất định so với thực tế,
khi ban hành ra thì nhiều nội dung đã không còn phù hợp và không phát huy tác dụng
đầy đủ như dự định ban đầu.
2. Về công tác triển khai các
chính sách phát triển các ngành kinh tế của Thành phố
Việc triển khai các chính sách phát
triển các ngành kinh tế của Thành phố đã được các cơ quan quản lý nhà nước tích
cực thực hiện. Nhiều ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch rõ nét cả về chất lượng
và lượng. Các chính sách đã giúp nhiều ngành kinh tế của Thành phố có vị thế
cao hơn nhiều so với trước đây và có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp khác
trong khu vực và trên thế giới, thúc đẩy năng lực xuất khẩu và cung ứng hàng
hóa, dịch vụ của Thành phố. Nhiều chính sách xã hội hóa cũng đã khuyến khích
doanh nghiệp đầu tư thêm vào các lĩnh vực phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội, y tế, giáo dục, giúp nâng cao đời sống người dân và giảm gánh nặng cho
ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, quá trình triển khai chính
sách đã bộc lộ một số nội dung cần phải làm tốt hơn trong thời gian tới. Công
tác kiểm tra, giám sát việc triển khai chính sách chưa được đầy đủ toàn diện,
chủ yếu do nguồn lực của các cơ quan quản lý có hạn trong khi Thành phố chưa có
cơ chế để liên tục tiếp nhận những phản hồi của cộng đồng doanh nghiệp và người
dân về việc áp dụng các chính sách của Thành phố.
Việc sơ kết, tổng kết chính sách còn
thực hiện theo định kỳ, thiếu sự đánh giá, điều chỉnh liên tục cho phù hợp với
tình hình thực tế dẫn đến việc triển khai thiếu linh hoạt, không đảm bảo mục
tiêu đã đề ra.
Các chính sách được ban hành ra đôi
khi chưa thật đồng bộ, chưa có sự đối chiếu rà soát trên tổng thể để điều chỉnh
và thống nhất kịp thời. Một số lĩnh vực thì nhiều chính sách cùng áp dụng nhưng
cũng có lĩnh vực thì chưa có đầy đủ chính sách phù hợp được triển khai.
III. MỤC TIÊU, ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
1. Về dịch vụ
Tập trung phát triển nhanh khu vực dịch
vụ, nhất là các nhóm ngành có giá trị gia tăng cao; cụ thể:
1.1. Phát triển ngành logistics
Thành phố tập trung phát triển ngành
dịch vụ cảng, logistics. Đây là thế mạnh của Thành phố và có giá trị gia tăng
cao (ngành logistic chiếm 10,6% trong GRDP trong khu vực dịch vụ). Đồng thời,
Thành phố nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, cửa ngõ giao lưu quốc tế nên có
nhiều lợi thế về giao lưu kinh tế - văn hóa. Việc phát triển ngành logistic trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng, đúng chủ trương, chính sách của
Thành phố; phát huy vai trò trung tâm giao dịch, lưu chuyển hàng hóa giữa các tỉnh/thành
phía Nam và cả nước nói riêng và khu vực nói chung.
1.2. Khuyến
khích phát triển các hình thức mua sắm hiện đại, thông minh; đẩy mạnh thương mại
điện tử theo hướng đáp ứng nhu cầu mua sắm của từng cá nhân; khuyến khích ứng dụng
thương mại điện tử theo hướng kết hợp chặt chẽ, đan xen với các loại hình phân
phối hiện hữu (có địa điểm bán hàng cụ thể) để tạo thành phương thức phân phối
đa kênh; khuyến khích phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại
điện tử góp phần đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp của doanh nghiệp trẻ trên địa
bàn Thành phố.
Thực tế, trong thời gian qua, ngành
thương mại phát triển theo hướng hiện đại, nhất là thương mại điện tử, đáp ứng
yêu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân; chiếm 17,9% trong GRDP trong khu
vực dịch vụ. Việc phát triển ngành thương mại điện tử trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
là nhiệm vụ quan trọng, đúng chủ trương, chính sách của Thành phố.
1.3.
Ngành tài chính - tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm: Tập trung nghiên cứu, xây dựng
định chế tài chính, phát triển sản phẩm và thị trường tài chính. Khuyến khích mở
rộng thị trường ra cả nước và bước đầu tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
Các chương trình tín dụng đã phát huy
được hiệu quả, hệ thống các tổ chức tín dụng đã có nhiều hoạt động hỗ trợ đối với
doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân với lãi suất ưu đãi và cơ chế tín dụng được điều
chỉnh tích cực, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Việc đầu tư và ứng dụng
công nghệ đã thúc đẩy hoạt động thanh toán qua ngân hàng phát triển, góp phần
nâng cao chất lượng dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán của ngân hàng đối với khách
hàng và nền kinh tế.
Việc phát triển ngành tài chính trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng, đúng chủ trương, chính sách của
Thành phố. Ủy ban nhân dân Thành phố đã giao Công ty đầu tư tài chính nhà nước
Thành phố phối hợp với các sở, ngành nghiên cứu Đề án Phát triển trung tâm tài
chính Thành phố. Do đó, việc thành lập Hội đồng phát triển ngành tài chính cũng
phù hợp với chủ trương của Thành phố và góp phần đẩy nhanh việc triển khai thực
hiện đề án Phát triển trung tâm tài chính Thành phố.
1.4. Dịch
vụ tư vấn, khoa học - công nghệ: Tập trung phát triển các dịch vụ khoa học,
công nghệ và tư vấn để tạo bước phát triển đột phá trong giai đoạn cạnh tranh
và hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển lĩnh vực thiết kế, tạo mẫu và lĩnh vực
quảng cáo; phát triển thị trường công nghệ. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác, kết
nối các thành phần để hình thành hệ sinh thái hợp tác giữa Trường - Viện với
khu vực công nghiệp, thúc đẩy các hoạt động hợp tác với cộng đồng khởi nghiệp để
thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Cơ cấu và thực hiện có hiệu quả Chương trình
nghiên cứu khoa học - phát triển công nghệ theo hướng lấy doanh nghiệp làm
trung tâm, nghiên cứu phát triển sản phẩm mục tiêu phục vụ doanh nghiệp đặc biệt
trong lĩnh vực công nghệ phục vụ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và các
chương trình đột phá của Thành phố. Đẩy mạnh việc triển khai các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ hợp tác với nước ngoài nhằm chuyển giao công nghệ, rút ngắn thời
gian đưa kết quả nghiên cứu vào sử dụng.
1.5. Dịch
vụ bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin - truyền thông: Mở rộng phát
triển dịch vụ gia công, xử lý, quản lý dữ liệu từ xa, gắn với dịch vụ viễn
thông - tin học - truyền thông; phát triển dịch vụ đa chức năng, khai thác các
dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng lưới viễn thông trong kỷ nguyên kỹ thuật số
4.0. Để tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực này, Ủy ban nhân dân Thành phố
đã xây dựng và đang triển khai Đề án xây dựng Thành phố thành đô thị thông
minh.
1.6.
Ngành du lịch
Du lịch được xác định là ngành kinh tế
mũi nhọn, tiếp tục dẫn đầu cả nước, cứ 02 khách quốc tế đến Việt Nam thì có 01
khách đến Thành phố; đóng góp 11 % trong cơ cấu GRDP của Thành phố và 17% vào
nhóm ngành dịch vụ của Thành phố, góp phần tạo ra việc làm cho 140.000 lao động
trực tiếp; được đánh giá, xếp hạng cao trên bản đồ du lịch của khu vực và trên
thế giới. Tuy nhiên, hoạt động phát triển ngành du lịch chưa tương xứng với tiềm
năng và vị thế của Thành phố. Thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du
lịch; tuy nhiên Ban Chỉ đạo hoạt động theo nguyên tắc chỉ đạo tập trung, thống
nhất nên hầu như toàn bộ các thành viên đều là đại diện lãnh đạo các cơ quan,
đơn vị nhà nước.
Ngoài tính liên ngành, liên vùng, du
lịch còn mang tính “liên cấp, liên cơ quan”. Vì vậy, để du lịch Thành phố phát
triển hơn nữa cần phải huy động trí tuệ tập thể của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều
cơ quan, đơn vị, cần có sự chung tay, chung sức của doanh nghiệp, các nhà
nghiên cứu và của các tổ chức tín dụng và người dân để xác lập các nội dung, giải
pháp hỗ trợ mà Thành phố cần thực hiện trong phát triển du lịch.
Triển khai có hiệu quả Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Bộ Chính trị về phát triển ngành du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược
phát triển du lịch đến năm 2030. Trong đó, tập trung vào các nội dung: Xây dựng
và phát triển thương hiệu du lịch Thành phố; liên kết với các tỉnh, thành phố
xây dựng và phát triển các khu du lịch đạt tiêu chuẩn quốc tế; xây dựng sản phẩm
du lịch hấp dẫn, đặc trưng và chủ lực của Thành phố nhằm thu hút du khách; tập
trung nâng chất các sự kiện và biến sự kiện trở thành sản phẩm quảng bá và thu
hút khách, tăng độ dài lưu trú, chi tiêu bình quân và tỷ lệ quay lại của khách
du lịch; nâng cao công tác nghiên cứu thị trường, tăng cường công tác truyền
thông quảng bá du lịch để thu hút và phục vụ du khách trong và ngoài nước.
1.7.
Ngành dịch vụ kinh doanh bất động sản
Ngành kinh doanh bất động sản chiếm
6,7% trong GRDP trong khu vực dịch vụ. Việc phát triển ngành bất động sản trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế là nhiệm vụ quan trọng, đúng chủ trương, chính sách của
Thành phố.
Các chủ thể tham gia thị trường bất động
sản từng bước được hoàn thiện, góp phần cho thị trường phát triển. Đội ngũ
doanh nghiệp kinh doanh bất động sản trong nước, cũng như nước ngoài, các đơn vị
tư vấn, doanh nghiệp xây dựng, vật liệu xây dựng; hệ thống dịch vụ hỗ trợ cho
thị trường bất động sản như các sàn giao dịch bất động sản, hệ thống thông tin
bất động sản, công chứng, đăng ký sở hữu, hệ thống cung cấp dịch vụ tư vấn, môi
giới, quản lý bất động sản tại thành phố ngày càng phát triển về quy mô và chất
lượng cao hơn.
Các doanh nghiệp kinh doanh bất động
sản đã tái cấu trúc doanh nghiệp; tự điều chỉnh cơ cấu kinh doanh, đưa ra các
chiến lược phù hợp với tình hình thị trường; ưu tiên đầu tư những dự án có vị
trí tốt, hạ tầng giao thông thuận lợi; hướng mạnh vào phân khúc thị trường có
khả năng thanh toán như phân khúc bình dân, với mức giá hợp lý phù hợp với nhu
cầu thị trường; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án, áp dụng công nghệ thi công
tiên tiến và sử dụng vật liệu mới, tiết kiệm chi phí để giảm giá thành sản phẩm,
qua đó có thể cạnh tranh về giá, về chất lượng và phù hợp với nhu cầu của thị
trường.
2. Về công nghiệp
Thành phố tập trung vào những ngành,
lĩnh vực, những công đoạn có hàm lượng giá trị gia tăng cao; phát triển các
nhóm ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng
cao; phát triển công nghiệp thời trang ngành dệt may - da giày, công nghiệp thiết
kế; chuyển dần từ hoạt động gia công lắp ráp sang hoạt động sản xuất, xuất khẩu
và từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng trong và ngoài nước. Tập trung các giải
pháp thu hút đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, hỗ trợ phát triển
nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực và nhóm sản phẩm công nghiệp tiềm năng của
thành phố.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và tiềm
năng phát triển khu vực công nghiệp của Thành phố xác định ngành nghề ưu tiên
phát triển cần xây dựng dựa trên một số tiêu chí và nguyên tắc như sau:
+ Dựa vào lợi thế của doanh nghiệp
trên địa bàn Thành phố.
+ Là ngành có khả năng tham gia vào mạng
sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
+ Có ý nghĩa nền tảng, có tác động
lan tỏa cao đến các ngành kinh tế khác.
+ Sử dụng các công nghệ sạch, thân
thiện môi trường.
+ Có khả năng tạo ra giá trị gia tăng
cao.
+ Phát triển công nghiệp tập trung
vào một số ngành công nghiệp đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng nhanh xuất khẩu.
- Căn cứ tình hình phát triển và một
số tiêu chí định hướng nêu trên, Thành phố ưu tiên phát triển một số ngành, nghề
sau:
+ 4 ngành công nghiệp trọng yếu, chú
trọng và ngành cơ khí và ngành điện tử.
+ Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp
hỗ trợ: Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị); sản xuất
thiết bị điện; sản xuất hàng điện tử; sản xuất chế biến thực phẩm; sản xuất sản
phẩm từ cao su - plastic.
3. Về nông nghiệp
Tập trung vào phát triển nông nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp đô thị, công nghệ sinh học;
thực hiện mạnh mẽ cơ cấu lại và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp; tập
trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất giống cây, giống con
chất lượng và năng suất cao, từng bước hình thành trung tâm giống cây, giống
con của khu vực; đẩy mạnh phát triển các làng nghề truyền thống ở nông thôn,
nông nghiệp sinh thái gắn với dịch vụ du lịch; tăng năng suất lao động và thu
nhập lao động nông nghiệp và nông thôn.
Thực hiện Kết luận số 379 - KL/TU
ngày 17/9/2018 của Ban Thường vụ Thành ủy về xác định danh mục nhóm sản phẩm chủ
lực và công tác điều hành, cơ chế chính sách phát triển nhóm sản phẩm chủ lực của
Thành phố, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 4545/QĐ-UBND
ngày 15/10/ 2018 về danh mục nhóm sản phẩm chủ lực ngành nông nghiệp. Vì vậy, để
phát triển giống cây, con và nông nghiệp công nghệ cao Thành phố phát triển hơn
nữa cần phải huy động trí tuệ tập thể của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều cơ
quan, đơn vị, cần có sự chung tay, chung sức của doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu
và của người dân để xác lập các nội dung, giải pháp bảo trợ mà lãnh đạo Thành
phố chỉ đạo trong phát triển nông nghiệp.
4. Định hướng xây dựng và triển
khai các chính sách phát triển các ngành kinh tế trong giai đoạn tới
Để nâng cao chất lượng xây dựng và
triển khai các chính sách phát triển các ngành kinh tế, đề xuất một số định hướng
như sau:
- Quá trình xây dựng chính sách phải
có sự tham gia của các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội trên nguyên tắc
phát huy trí tuệ tập thể và phản biện xã hội; đảm bảo các chính sách phù hợp với
chủ trương, định hướng phát triển kinh tế của quốc gia, của Thành phố; quy định
của pháp luật nhưng cũng phải đảm bảo theo sát với thị trường, được các thành
phần kinh tế tiếp thu và triển khai có hiệu quả, đem lại hiệu quả thiết thực
cho doanh nghiệp.
- Các chính sách được xây dựng và ban
hành phải huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế trong phát triển
kinh tế Thành phố; phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, phát
triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường góp phần
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững các ngành kinh tế, đảm bảo các nguồn lực
cơ bản phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội Thành phố. Tiếp tục hoàn thiện
cơ chế quản lý, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Các chính sách sau khi ban hành phải
được giám sát quá trình triển khai thực hiện; kịp thời ghi nhận và tiếp thu các
khó khăn,vướng mắc trong quá trình thực hiện để có sự điều chỉnh linh hoạt, kịp
thời phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả.
Chương III
CÁC NỘI DUNG CỤ
THỂ VỀ VIỆC THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN NGÀNH KINH TẾ THÀNH PHỐ
I. XÁC ĐỊNH CÁC
NGÀNH KINH TẾ CẦN HÌNH THÀNH HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN NGÀNH KINH TẾ
Từ những thành tựu, tồn tại hạn chế
trong thời gian qua và định hướng phát triển các ngành của Thành phố trong giai
đoạn tới và ý kiến của các sở, ngành có liên quan, đề xuất thành lập Hội đồng
phát triển các ngành như sau:
1. Các hội đồng phát triển ngành
kinh tế đã được thành lập
Ngày 22/5/2020, Ủy ban nhân dân Thành
phố đã ban hành Quyết định số 1790/QĐ-UBND về việc thành lập các Hội đồng phát
triển ngành công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh; bao gồm:
- Hội đồng phát triển ngành công nghệ
thông tin - điện tử - viễn thông
- Hội đồng phát triển ngành cơ khí
- Hội đồng phát triển ngành cao su -
nhựa
- Hội đồng phát triển ngành công nghiệp
thực phẩm.
2. Các hội đồng phát triển ngành đề
xuất thành lập bổ sung
- Trong lĩnh vực dịch vụ:
+ Hội đồng phát triển ngành thương mại
điện tử
+ Hội đồng phát triển ngành dịch vụ vận
tải, kho bãi, hệ thống cảng, logistics
+ Hội đồng phát triển ngành tài chính
- tín dụng - ngân hàng - bảo hiểm (gọi tắt là Hội đồng phát triển ngành tài
chính)
+ Hội đồng phát triển ngành dịch vụ tư
vấn, khoa học - công nghệ
+ Hội đồng phát triển ngành kinh
doanh bất động sản
+ Hội đồng phát triển ngành du lịch
- Trong lĩnh vực nông nghiệp:
+ Hội đồng phát triển ngành nông nghiệp
đô thị
II. CƠ CHẾ HÌNH
THÀNH VÀ PHÁT HUY, CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CÁC HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN
NGÀNH KINH TẾ
1. Cơ chế hình thành
1.1. Thành phần tham gia Hội đồng
phát triển các ngành kinh tế
Để đạt được mục đích nêu trên, cần có
sự tham gia của các nhóm đối tượng sau:
- Đại diện các cơ quan nhà nước: Lãnh
đạo Ủy ban nhân dân Thành phố; các cơ quan chuyên môn quản lý chuyên ngành gồm
các sở, ngành chuyên môn quản lý ngành và đại diện sở, ngành có liên quan.
- Nhà khoa học: Đại diện từ các trường
đại học, viện nghiên cứu, chuyên gia từ các tổ chức quốc tế hoặc các chuyên gia
(nhà nghiên cứu) độc lập có uy tín trong và ngoài nước.
- Doanh nghiệp: Lãnh đạo các hiệp hội
doanh nghiệp, các hội ngành nghề hoặc các nhà điều hành các doanh nghiệp mạnh
trong ngành kinh tế.
- Tổ chức tài chính: Lãnh đạo các
ngân hàng, quỹ đầu tư, tổ chức tài chính.
1.2. Về quy trình thành lập Hội đồng
phát triển ngành kinh tế
- Bước 1: Xác định nhân sự tham gia
vào Hội đồng phát triển ngành kinh tế trên cơ sở cơ cấu Hội đồng ngành đã được
xác định tại Đề án
Trên cơ sở chủ trương thành lập các Hội
đồng phát triển ngành kinh tế, Ủy ban nhân dân Thành phố giao nhiệm vụ cho sở,
ngành chuyên môn chủ trì phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp, hội ngành nghề,
các trường - viện đề xuất danh sách cá nhân phù hợp theo các nhóm đối tượng
trên (kèm theo các thông tin cơ bản về lý lịch, quá trình công tác, các hoạt động
nghiên cứu trong và ngoài nước,..) báo cáo, đề xuất Ủy ban nhân dân Thành phố
có ý kiến trước khi mời tham gia Hội đồng.
- Bước 2: Quyết định thành lập Hội đồng
phát triển ngành kinh tế và cơ quan thường trực.
Căn cứ kết quả làm việc với các cá
nhân đã được Ủy ban nhân dân Thành phố dự kiến mời tham dự Hội đồng phát triển ngành
kinh tế, sở, ngành chuyên môn phối hợp với Sở Nội vụ trình Ủy ban nhân dân
Thành phố danh sách dự kiến thành lập Hội đồng phát triển ngành kinh tế.
Trong trường hợp cần thiết, Ủy ban
nhân dân Thành phố sẽ xem xét cụ thể nhân sự, báo cáo Thường trực Thành ủy cho
ý kiến trước khi ban hành Quyết định thành lập Hội đồng.
- Bước 3: Xây dựng quy chế hoạt động
của Hội đồng phát triển ngành kinh tế
Hội đồng phát triển ngành kinh tế sau
khi được thành lập sẽ chủ động xây dựng, đề xuất quy chế hoạt động trên cơ sở
các nguyên tắc hoạt động đã được xác định tại Đề án. Đồng thời, xác định cơ
quan thường trực Hội đồng phát triển ngành kinh tế là cơ quan giúp việc cho Hội
đồng phát triển ngành kinh tế.
Quy chế sẽ được trình Ủy ban nhân dân
Thành phố ban hành, làm cơ sở triển khai hoạt động của Hội đồng phát triển
ngành kinh tế.
- Bước 4: Hội đồng phát triển ngành
kinh tế được thành lập sẽ đề xuất cụ thể các nội dung cần triển khai.
Trên cơ sở Quy chế hoạt động được ban
hành, Hội đồng phát triển ngành kinh tế sẽ chủ động đề xuất chương trình làm việc
cụ thể.
2. Số lượng, thành phần và cơ cấu
Hội đồng phát triển các ngành kinh tế
2.1. Số lượng thành viên Hội đồng
Dựa trên ý kiến của các sở, ngành và
Quyết định thành lập các Hội đồng phát triển các ngành kinh tế đã được Ủy ban
nhân dân Thành phố phê duyệt tại quyết định số 1790/QĐ-UBND ngày 22 tháng 5 năm
2020, đề xuất số lượng thành viên Hội đồng từ 15 đến 17 thành viên.
2.2. Thành phần tham gia Hội đồng
và cơ cấu Hội đồng
- Đề xuất bao gồm 4 thành phần cơ bản
gồm: Cơ quan quản lý nhà nước (có thể 5 - 6 thành viên, chiếm khoảng 30%); hiệp
hội doanh nghiệp, hội ngành nghề hoặc đại diện doanh nghiệp; trường - viện
nghiên cứu hoặc các nhà nghiên cứu có uy tín; đại diện các tổ chức tài chính.
- Cơ cấu hội đồng gồm: Chủ tịch, 02
phó chủ tịch, các thành viên; trong đó:
+ Chủ tịch Hội đồng do một đồng chí
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố đảm nhiệm.
+ Phó Chủ tịch Hội đồng do 01 đại diện
lãnh đạo sở (đơn vị chủ trì phụ trách việc nghiên cứu, xây dựng, theo dõi quá
trình triển khai thực hiện chính sách).
+ Phó Chủ tịch Hội đồng là đại diện của
doanh nghiệp hoặc hiệp hội doanh nghiệp).
+ Các thành viên Hội đồng.
- Cơ quan thường trực Hội đồng: là sở
chủ trì phụ trách việc nghiên cứu, xây dựng, theo dõi quá trình triển khai thực
hiện chính sách.
+ Tổ chuyên viên giúp việc cho Hội đồng
hoặc Ban Thư ký Hội đồng: Do Chủ tịch Hội đồng quyết định trên cơ sở đề xuất của
các thành viên Hội đồng.
3. Nội dung, phương thức hoạt động
và cơ chế vận hành
3.1 Nội dung hoạt động
- Dự báo, đề xuất định hướng phát triển
các ngành trên cơ sở xu hướng phát triển của thế giới, đảm bảo phát triển bền vững
về kinh tế - xã hội; tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố việc nghiên cứu,
xây dựng và theo dõi quá trình triển khai thực hiện các chính sách, các chương
trình, kế hoạch phát triển ngành kinh tế mũi nhọn; kịp thời phát hiện, thẩm định
các vấn đề cụ thể mà ngành đang phải đối mặt, đề xuất các giải pháp phù hợp và
khả thi thông qua việc khảo sát, đánh giá, thu thập thông tin về các hoạt động
của ngành và các ngành có liên quan khác.
- Tạo diễn đàn để thảo luận, cập nhật
các thông tin mới nhất về ngành liên quan đến lĩnh vực mình đang hoạt động, cụ
thể: (1) các cơ quan quản lý nhà nước cung cấp thông tin về chủ trương, định hướng,
các quy định pháp luật mới của nhà nước; (2) thành viên là hiệp hội doanh nghiệp
và doanh nghiệp sẽ thông tin về thực tế tình hình hoạt động của các doanh nghiệp
trong ngành; định hướng đầu tư phát triển của doanh nghiệp; những khó khăn, vướng
mắc doanh nghiệp đang gặp phải; khả năng thực thi và tính hiệu quả của các cơ
chế, chính sách phát triển ngành đối với hoạt động của doanh nghiệp; các kiến
nghị, đề xuất; (3) thành viên là các nhà khoa học cung cấp thông tin về xu hướng
phát triển của thế giới, các nghiên cứu khoa học có liên quan (nếu có); khả
năng tham gia các đề tài nghiên cứu theo đặt hàng của các cơ quan nhà nước hoặc
các doanh nghiệp;... (4) thành viên là đại diện các tổ chức tài chính cung cấp
thông tin về tình hình hoạt động của ngành, các chính sách ưu đãi hoặc gói hỗ
trợ của ngành, khả năng tham gia kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp,... Trên cơ sở
đó, Hội đồng sẽ định hướng xây dựng, đề xuất các giải pháp thiết thực để tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, tạo sự kết nối giữa các thành phần kinh tế.
- Hỗ trợ Ủy ban nhân dân Thành phố và
huy động các nguồn lực khác của xã hội trong việc phát triển ngành.
- Các thành viên Hội đồng có thể
tương tác, trao đổi với nhau về các khả năng hợp tác giữa các bên để cùng góp
phần cho sự phát triển chung của ngành và lợi ích của các bên.
3.2 Phương thức hoạt động
- Thành viên Hội đồng phát triển
ngành kinh tế (các thành viên không là đại diện các cơ quan quản lý nhà nước)
hoạt động trên cơ sở tự nguyện, không vì mục đích sinh lợi cho riêng cá nhân
hay tổ chức nào, nhằm nghiên cứu, tư vấn, hỗ trợ Ủy ban nhân dân Thành phố về
các vấn đề liên quan đến phát triển các ngành.
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế
đóng vai trò là cầu nối giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp, các
nhà nghiên cứu và người dân về những vấn đề đang được các bên quan tâm giải quyết
trong ngành. Đồng thời, để tham vấn giải quyết các vấn đề, xác định định hướng
và lập kế hoạch hành động nhằm phát triển các ngành bền vững.
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế họp
một năm hai lần, họp thường niên và đột xuất. Thời gian, địa điểm, nội dung và
hình thức họp do Chủ tịch Hội đồng quyết định. Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội đồng
chủ tọa phiên họp.
3.3 Cơ chế vận hành
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế hoạt
động trên cơ sở phát huy tinh thần tự nguyện, chủ động, phản biện khoa học với
mục đích đóng góp vào sự phát triển chung của Thành phố. Mọi ý kiến đều được lắng
nghe, thảo luận và ghi nhận để báo cáo cấp có thẩm quyền, làm cơ sở Thành phố
hoạch định chính sách và thực thi công tác điều hành.
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế sẽ
báo cáo trực tiếp và chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố. Nội dung
làm việc, thảo luận của Hội đồng sẽ xuất phát từ 2 nguồn: (1) Từ chỉ đạo của Ủy
ban nhân dân thành phố và (2) chủ động đề xuất của Hội đồng. Trong trường hợp
nhận được chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phố, Hội đồng có trách nhiệm thực
hiện các nhiệm vụ đảm bảo chất lượng, đúng thời gian được giao và phải thực hiện
việc báo cáo, giải trình khi Ủy ban nhân dân Thành phố yêu cầu. Trong trường hợp
xuất phát từ đề xuất của Hội đồng, Chủ tịch Hội đồng là người có thẩm quyền cuối
cùng quyết định các nội dung sẽ đề xuất lên Ủy ban nhân dân Thành phố.
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế
hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận. Các thành viên tham gia thảo luận góp ý
các nội dung và thống nhất quan điểm để đề xuất Ủy ban nhân dân Thành phố. Trường
hợp có thành viên Hội đồng bảo lưu quan điểm khác, báo cáo của Hội đồng phải
lưu ý về ý kiến đề nghị được bảo lưu của thành viên.
- Hội đồng phát triển ngành kinh tế
có quyền yêu cầu các sở, ban, ngành và Ủy ban nhân dân các quận, huyện cung cấp
các tài liệu, số liệu thống kê có liên quan đến các nội dung làm việc của Hội đồng.
Các đơn vị được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp
thời cho Hội đồng. Trường hợp không thể cung cấp, phải có văn bản trả lời cụ thể
để Hội đồng được biết.
- Chủ tịch Hội đồng phát triển ngành
kinh tế là người quyết định thời gian, địa điểm họp và nội dung thảo luận. Chủ
tịch Hội đồng chịu trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố về tình hình
hoạt động của Hội đồng và các thành viên trong Hội đồng theo định kỳ và đột xuất
theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố. Phó Chủ tịch Hội đồng và các thành
viên Hội đồng có thể đề xuất Chủ tịch Hội đồng tổ chức buổi họp đột xuất khi
phát hiện có vấn đề mới, cấp bách liên quan đến ngành cần trao đổi, thảo luận gấp.
- Cơ quan thường trực Hội đồng chịu
trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, cơ sở vật chất, trang bị để tổ chức họp Hội đồng,
soạn thảo các báo cáo về tình hình hoạt động của Hội đồng, các đề xuất chính
sách để trình Chủ tịch Hội đồng ký thay mặt Hội đồng.
- Thành viên Hội đồng có trách nhiệm
thực hiện các công việc sau:
+ Chủ động đề xuất các nội dung cần
đưa ra thảo luận tại các cuộc họp của Hội đồng, nghiên cứu, đóng góp ý kiến đối
với các nội dung do Hội đồng đề xuất thảo luận hoặc các nội dung do Ủy ban nhân
dân Thành phố chỉ đạo.
+ Làm việc, trao đổi với nhóm đối tượng,
cơ quan, tổ chức mà mình là người đại diện nhằm tiếp thu các vấn đề cần giải
quyết, các phản hồi chính sách và các đề xuất, kiến nghị khác.
+ Tích cực làm cầu nối giữa cơ quan,
tổ chức, nhóm đối tượng mình là đại diện với các cơ quan tổ chức và nhóm đối tượng
khác thông qua các thành viên trong Hội đồng (như giữa đại diện của doanh nghiệp
với đại diện các cơ quan nghiên cứu, đại diện các tổ chức tài chính) nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động chung của ngành.
+ Nghiên cứu sâu, đóng góp cụ thể vào
các đề xuất chính sách và kiến nghị các giải pháp cho chính quyền Thành phố,
tránh việc chỉ nêu vấn đề mà không đề xuất được giải pháp.
- Trong quá trình nghiên cứu, tham
mưu cho Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố các nội dung liên quan đến phát triển
ngành kinh tế, đối với các nội dung mới, phức tạp, cần thiết phải có sự nghiên
cứu sâu, Hội đồng phát triển ngành kinh tế có thể đề xuất Ủy ban nhân dân Thành
phố giao thành viên là các nhà khoa học (hoặc các tổ chức khoa học có năng lực
và chức năng) triển khai nghiên cứu các chương trình, đề án cụ thể phục vụ quá
trình nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách phát triển ngành.
4. Mối quan hệ với các tổ chức,
đơn vị liên quan
4.1. Ủy ban nhân dân Thành phố
Hội đồng phát triển ngành kinh tế hoạt
động dưới sự điều hành của một đồng chí Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố
phụ trách. Hội đồng báo cáo định kỳ, đột xuất tình hình hoạt động, các ý kiến đề
xuất, kiến nghị của Hội đồng cho Ủy ban nhân dân Thành phố theo chế độ quy định;
tham gia đầy đủ các cuộc họp do Ủy ban nhân dân Thành phố triệu tập; cùng bàn bạc
triển khai thực hiện các quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân Thành phố có
liên quan.
4.2. Đối với đơn vị khác có liên
quan (doanh nghiệp ngành, các nhà khoa học, các tổ chức tài chính,...)
Hội đồng phát triển ngành kinh tế có
trách nhiệm tiếp nhận các ý kiến đề xuất, kiến nghị của các nhóm đối tượng khác
thông qua các thành viên trong Hội đồng hoặc qua các nguồn thông tin khác để
cùng thảo luận, bàn bạc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước tháo gỡ hoặc tư vấn, kiến
nghị Ủy ban nhân dân Thành phố giải quyết theo thẩm quyền. Đồng thời, liên kết
các nguồn lực trong cộng đồng doanh nghiệp ngành nhằm phát triển ngành theo hướng
bền vững.
4.3. Đối với sở chủ trì Hội đồng
Hội đồng phát triển ngành kinh tế có
trách nhiệm thông tin, báo cáo định kỳ các nội dung, kết quả hoạt động cho sở
chủ trì; phối hợp chặt chẽ với sở trong việc huy động các nguồn lực, xác định định
hướng và lập kế hoạch hành động nhằm tăng sức cạnh tranh và phát triển các
ngành theo hướng bền vững.
III. MỘT SỐ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA ĐỂ PHÁT HUY HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN NGÀNH KINH TẾ
1. Để đảm
bảo các Hội đồng phát triển ngành kinh tế hoạt động có hiệu quả, cần phải có cơ
chế, chính sách để khuyến khích và nâng cao tinh thần trách nhiệm, quyền lợi của
các thành viên Hội đồng, đặc biệt là các thành viên Hội đồng không thuộc các cơ
quan quản lý nhà nước của Thành phố. Thực tế cho thấy, bên cạnh yếu tố vì sự
đóng góp, cống hiến cho sự phát triển và xã hội của Thành phố nói chung, việc
tham gia các Hội đồng phát triển ngành kinh tế của các thành phần kinh tế khác
(hiệp hội doanh nghiệp; viện, trường, nhà nghiên cứu; tổ chức tài chính;..)
cũng phải mang lại các hiệu quả nhất định cho hoạt động của các thành phần kinh
tế này thì mới đảm bảo các thành viên Hội đồng thực sự toàn tâm, toàn ý trong
công việc và đảm bảo các định hướng, cơ chế, chính sách cho sự phát triển các
ngành có tính thực tế, hiệu quả cao, linh hoạt đảm bảo theo kịp sự biến động của
thị trường.
2. Trong
quá trình hoạt động, Hội đồng phát triển ngành kinh tế phải đảm bảo tính khách
quan, công tâm trong việc đề xuất chính sách và phản biện chính sách. Hội đồng
phát triển các ngành kinh tế gồm các thành viên ở nhiều thành phần kinh tế,
trong đó có một số thành phần kinh tế có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trực
tiếp đến các định hướng, cơ chế, chính sách sẽ được tham mưu đề xuất khi xây dựng
Chương trình phát triển các ngành kinh tế trọng điểm của Thành phố (các hiệp hội
doanh nghiệp, tổ chức tài chính) nên cũng cần phải có giải pháp để đảm bảo tính
minh bạch, khách quan trong quá trình tổ chức thực hiện; tránh trường hợp “thao
túng” trong quá trình xây dựng, đề xuất chủ trương, định hướng, cơ chế, chính
sách phát triển các ngành kinh tế hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Về tổ
chức, theo dõi tình hình hoạt động của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế
3.1. Đối
với từng Hội đồng phát triển ngành kinh tế, cần có bộ phận điều phối, tổng hợp
các kiến nghị về chính sách của từng Hội đồng phát triển ngành kinh tế (đóng
vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng); tổng hợp kết quả làm việc của Hội
đồng để báo cáo Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố và triển khai các công việc
khác để đảm bảo hoạt động của Hội đồng có hiệu quả cao (các công việc sự vụ như
lên lịch họp, mời họp, theo dõi tổng hợp các nội dung báo cáo, đề nghị của các
thành viên Hội đồng,...).
3.2. Hội
đồng phát triển ngành kinh tế cần định kỳ (có thể hàng năm) đánh giá, tổng kết
hoạt động của Hội đồng và báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố kết quả làm việc của
Hội đồng và từng thành viên trong Hội đồng.
Trên cơ sở kết quả hoạt động của Hội
đồng và từng thành viên, định hướng các chính sách cần xây dựng trong thời gian
tới, Ủy ban nhân dân Thành phố xem xét điều chỉnh cơ cấu tổ chức, thay đổi
thành viên trong trường hợp cần thiết để phục vụ hoạt động của Hội đồng trong
giai đoạn tiếp theo được hiệu quả.
4. Các cơ
chế, chính sách đột phá đối với thành phố phần lớn phải có sự chấp thuận của
Chính phủ và đồng thuận của các bộ ngành. Trong điều kiện các cơ chế quản lý
đang phân mảng theo ngành, vẫn còn tình trạng chồng lấn, bất cập, việc thiết kế
các cơ chế, chính sách riêng cho Thành phố sẽ gặp nhiều khó khăn để đảm bảo
tính khả thi. Để đảm bảo tính hiệu quả của Hội đồng phát triển ngành kinh tế, cần
có cơ chế tổng hợp kiến nghị về chính sách kịp thời, phối hợp với Đoàn Đại biểu
Quốc hội Thành phố để kịp thời đưa thông tin, vấn đề tồn tại và các kiến nghị đề
xuất đến cấp có thẩm quyền, từ đó có các quyết sách phù hợp, bảo đảm luật,
chính sách đi vào thực tiễn.
5. Các
thành viên Hội đồng phát triển ngành kinh tế đến từ nhiều khu vực kinh tế khác
nhau nên cần có cơ chế để thành viên Hội đồng được tiếp cận các thông tin, dữ
liệu cần thiết phục vụ việc đề xuất chính sách. Theo đó, cho phép thành viên Hội
đồng được tiếp cận các số liệu thống kê thuộc lĩnh vực ngành từ phía các cơ
quan quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm cung cấp các
số liệu có liên quan định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của Hội đồng.
6. Về vấn
đề liên quan đến tài chính để đảm bảo hoạt động của Hội đồng phát triển ngành
kinh tế:
Mặc dù Hội đồng phát triển ngành kinh
tế hoạt động trên cơ sở tự nguyện, không vì mục đích sinh lợi nhằm nghiên cứu,
tư vấn, hỗ trợ Ủy ban nhân dân Thành phố về các vấn đề liên quan đến phát triển
các ngành. Tuy nhiên, vẫn cần có nguồn kinh phí ổn định để phục vụ cho hoạt động
có hiệu quả, cụ thể:
- Chi phí cho bộ phận tổng hợp, hành
chính, tổ chức hội họp, hội thảo, hội nghị.
- Chi phí bồi dưỡng thêm cho các
thành viên Hội đồng (theo tháng, hoặc theo ngày họp cụ thể,..).
- Chi phí cho các hoạt động nghiên cứu
khoa học (chương trình, đề án,..) chuyên sâu phục vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất
các chủ trương, chính sách phát triển ngành trong trường hợp cần thiết. Trong
trường hợp này, các đề án cần được nghiên cứu
IV. CƠ CHẾ, CHÍNH
SÁCH, GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN NGÀNH
KINH TẾ
Trên cơ sở các vấn đề đặt ra nêu
trên, cần có một số cơ chế, chính sách, giải pháp và kiến nghị để phát huy hiệu
quả hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế như sau:
1. Tạo điều
kiện để các đối tượng nhận được lợi ích cộng hưởng từ việc cử người đại diện
tham gia vào Hội đồng phát triển ngành kinh tế một cách công khai, minh bạch và
đúng quy định của pháp luật. Đây là nội dung quan trọng, có tính cốt yếu nhằm gắn
kết các bên tham gia, tạo động lực đóng góp vào sự phát triển của ngành kinh tế.
Những người tham gia Hội đồng phát triển ngành kinh tế phải thấy được lợi ích
lâu dài từ việc đầu tư công sức, thời gian và các nguồn lực khác vào việc phát
triển các chính sách. Nếu thiếu sự gắn kết về lợi ích có
thể dẫn đến nguy cơ việc thành lập và duy trì Hội đồng phát triển ngành kinh tế
chỉ mang tính chất hình thức, qua loa. Hoạt động của Hội đồng phát triển ngành
kinh tế cần đáp ứng ứng lợi ích và sự quan tâm của các nhóm đối tượng, cụ thể:
1.1. Đối với đại diện nhóm các trường
đại học, viện nghiên cứu, các nhà khoa học:
- Phải tạo điều kiện để nhóm đối tượng
này được tiếp cận và được cung cấp đầy đủ các dữ liệu, số liệu thống kê và các
tình huống phát sinh trong thực tế của hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy sẽ tạo điều kiện để các nhà nghiên cứu có
tài liệu để thực hiện các nghiên cứu khoa học. Các nghiên cứu này cũng sẽ mang
tính chất thực tiễn, dễ đưa vào ứng dụng thay vì chỉ mang tính chất hàn lâm, lý
thuyết.
- Thông qua các vấn đề phát sinh khi
Hội đồng thảo luận, cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp có thể đặt hàng
các nhà khoa học thực hiện các đề tài nghiên cứu để giải quyết các vấn đề này.
Nguồn kinh phí sẽ một phần từ ngân sách theo đúng định mức về nghiên cứu khoa học
và một phần từ hỗ trợ của các doanh nghiệp thông qua thành viên đại diện doanh
nghiệp trong Hội đồng (đối với trường hợp đặt hàng phục vụ cho hoạt động nghiên
cứu của Hội đồng) hoặc từ phía các doanh nghiệp (trường hợp do doanh nghiệp đặt
hàng). Như vậy, một mặt sẽ giúp các nhà khoa học nhận được đặt hàng nghiên cứu,
mặt khác sẽ giúp các nghiên cứu này nhanh chóng được ứng dụng vào thực tiễn. Đồng
thời mức chi phí nghiên cứu nếu có thêm hỗ trợ từ doanh nghiệp cũng sẽ đảm bảo
chất lượng của các đề tài nghiên cứu. Từ đó, tạo động lực để giới nghiên cứu
tích cực tham gia vào hoạt động của Hội đồng.
- Phối hợp với các trường đại học, viện
nghiên cứu để nghiên cứu thêm cơ chế các đơn vị này thực hiện các đề tài nghiên
cứu chuyên sâu phục vụ cho hoạt động của Hội đồng từ nguồn kinh phí dành cho
nghiên cứu khoa học của Thành phố theo đúng quy định và hỗ trợ thêm từ nguồn
huy động tài trợ từ các tổ chức quốc tế, các quỹ và các nhà tài trợ khác cho hoạt
động nghiên cứu khoa học của các trường đại học, viện nghiên cứu. Các nguồn tài
trợ không hoàn lại từ các bên thứ ba cho hoạt động nghiên cứu khoa học luôn là
yếu tố quan trọng trọng đời sống nghiên cứu khoa học của các viện trường. Việc
cho phép các đơn vị nghiên cứu tiếp nhận các nguồn này không chỉ giúp giảm gánh
nặng tài chính cho ngân sách, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và còn
giúp tăng uy tín của các tổ chức nghiên cứu trên thế giới. Trên thực tế, việc
đánh giá xếp hạng các trường đại học do các tổ chức quốc tế thực hiện phụ thuộc
rất lớn vào số lượng các nghiên cứu khoa học được công bố quốc tế.
1.2. Đối với đại diện nhóm các doanh
nghiệp:
- Hội đồng cần lắng nghe, tiếp thu
các ý kiến góp ý của thành viên đại diện nhóm các doanh nghiệp về thực tế tình
hình hoạt động và khó khăn của các doanh nghiệp trong ngành, các nội dung kiến
nghị của các doanh nghiệp để nghiên cứu xây dựng, đề xuất hoặc điều chỉnh các
cơ chế, chính sách cho phù hợp với nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp trong
ngành, kịp thời giải quyết các khó khăn vướng mắc chung liên quan đến hoạt động
của doanh nghiệp trong ngành trên cơ sở các quy định của pháp luật; đảm bảo các
cơ chế, chính sách có tính thực tiễn và tính khả thi cao. Việc này cũng giúp
các đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp trong cùng ngành tập trung hơn, đại diện
cho ngành mình hơn thông qua đại diện tại Hội đồng (thay vì là những kiến nghị,
đề xuất riêng rẽ cho từng trường hợp cụ thể của từng doanh nghiệp); các đề xuất
này sẽ được truyền đạt nhanh chóng, kịp thời đến người có thẩm quyền mà không cần
qua nhiều cấp, nhiều ngành. Điều này sẽ tạo hiệu quả, công khai, minh bạch cho
các doanh nghiệp trong ngành, giúp các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và sẽ
tăng cường việc tham gia hoặc cử đại diện có năng lực tham gia Hội đồng cũng
như tài trợ cho các đề tài nghiên cứu của Hội đồng, góp phần nâng cao chất lượng
và hiệu quả hoạt động của Hội đồng.
- Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm
kiếm sự hỗ trợ để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp, tiết giảm chi
phí, nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc tham vấn ý kiến (của các nhà khoa học
và các tổ chức tài chính) và đặt hàng các nhà khoa học thông qua đại diện của
các đơn vị nghiên cứu tại Hội đồng phát triển ngành kinh tế. Từ đó, tạo sự kết
nối giữa nhà khoa học với doanh nghiệp để giải quyết các vấn đề chung.
- Khuyến khích thành viên Hội đồng
phát triển ngành kinh tế là đại diện của các tổ chức tài chính, ngân hàng
nghiên cứu, đề xuất các gói tín dụng phù hợp với quy định cho các doanh nghiệp
thuộc ngành theo các chương trình, chính sách hỗ trợ được thông qua (như chương
trình kích cầu đầu tư của Thành phố); đồng thời thông qua thành viên Hội đồng
là đại diện doanh nghiệp tạo sự kết nối, hướng dẫn các doanh nghiệp trong ngành
các thủ tục vay vốn để được tham gia chương trình.
- Doanh nghiệp có thể đặt hàng các
trường đại học thiết kế và triển khai các chương trình đào tạo đặc thù, phù hợp
với ngành mình thông qua việc trao đổi ý kiến tại Hội đồng phát triển ngành
kinh tế. Doanh nghiệp sẽ tốn ít chi phí để đào tạo và đào tạo lại nhân sự. Các
trường sẽ có các chương trình đào tạo sát với thực tế. Như vậy, sẽ tránh lãng
phí xã hội và nhanh chóng tạo việc làm cho người mới ra trường.
1.3. Đối với nhóm các Tổ chức tài
chính:
- Khuyến khích các thành viên Hội đồng
đại diện các tổ chức tài chính, ngân hàng nghiên cứu, đề xuất các gói hỗ trợ
tài chính (cho các doanh nghiệp ngành vay vốn) phù hợp với các chương trình hỗ
trợ lãi suất của thành phố đối với các dự án thuộc ngành (nếu có) theo đúng quy
định. Tạo điều kiện để các tổ chức tài chính tham gia góp ý về các chính sách
liên quan đến định chế tài chính, cơ chế, chính sách về thu hút và huy động các
nguồn vốn để phát triển ngành; đồng thời lắng nghe ý kiến phản biện và các khó
khăn, vướng mắc của các tổ chức tài chính trong quá trình triển khai thực hiện
cơ chế, chính sách có liên quan đến huy động vốn để đầu tư của các doanh nghiệp
để kịp thời tháo gỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính tiếp cận
và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp theo đúng quy định.
- Việc cử đại diện tham gia Hội đồng
phát triển ngành kinh tế giúp các tổ chức tài chính nắm bắt được nhu cầu của
các doanh nghiệp trong ngành. Từ đó, có thể thiết kế các gói hỗ trợ tín dụng
sát với nhu cầu, đặc thù của các doanh nghiệp ngành, nâng cao hiệu quả nguồn vốn.
- Các quỹ đầu tư có thể tiếp cận với
các doanh nghiệp ngành, nắm bắt tình hình hoạt động của ngành, làm cơ sở để định
hướng đầu tư vào các doanh nghiệp một cách có hiệu quả, nhanh chóng.
2. Việc
chọn những tổ chức, cá nhân tham gia vào Hội đồng phát triển ngành kinh tế phải
chọn được những người có kinh nghiệm, tâm huyết, góp ý, phản biện, đóng góp vào
sự phát triển của ngành nhưng cũng đảm bảo sự khách quan, công khai, minh bạch
trong quá trình góp ý, đề xuất cơ chế, chính sách nên cần cân nhắc, lựa chọn đối
tượng xứng đáng. Trong quá trình hoạt động của từng Hội đồng ngành sẽ rút kinh
nghiệm và điều chỉnh dần dần mô hình bộ máy, cơ chế hoạt động cho phù hợp tình
hình do đây là mô hình mới ở thành phố. Để đảm bảo triển khai hiệu quả, đề xuất
cơ chế chính sách thiết thực nhất của Thành phố, tổ chức định kỳ đánh giá, kiến
nghị kiện toàn các thành viên trong Hội đồng để bổ sung các tổ chức, cá nhân mới
có nhiều kinh nghiệm, tâm huyết đối với sự phát triển của ngành.
3. Về tổ chức, theo dõi tình hình
hoạt động của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế
Để theo đảm bảo việc tổ chức thực hiện
và theo dõi tình hình hoạt động của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế có hiệu
quả, Đề án nhận thấy cần phải nghiên cứu, thành lập và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các bổ phận sau:
3.1. Cơ quan thường trực Hội đồng
phát triển ngành kinh tế
Đây là đơn vị có trách nhiệm chuẩn bị
nội dung họp cho Hội đồng, soạn thảo các báo cáo trên cơ sở các nội dung Hội đồng
đã thảo luận, đồng thời, cũng là đơn vị đảm bảo về cơ sở vật chất, chuẩn bị tài
liệu và thực hiện thay mặt Hội đồng liên hệ, làm việc với các cơ quan có liên
quan và các công tác giúp việc khác.
Do đó phải có cơ chế để cơ quan thường
trực hội đồng có nguồn nhân lực, vật lực đầy đủ. Đặc biệt, về con người thì cần
phải có những người có trình độ và hạn chế việc kiêm nhiệm các công tác chuyên
môn khác.
Qua nghiên cứu, có 2 mô hình để thành
lập cơ quan thường trực cho Hội đồng phát triển ngành kinh tế:
- Mô hình thứ nhất là cách làm truyền
thống, cơ quan thường trực sẽ do một sở, ngành chuyên môn có công tác quản lý
nhà nước liên quan đến ngành kinh tế đảm nhiệm. Với mô hình này sẽ không làm
thay đổi về nhân sự, cơ sở vật chất, có thể triển khai nhanh và đảm bảo cơ chế
quản lý nhà nước, giúp Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố sâu sát trực tiếp
vào hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế. Tuy nhiên, mô hình này có
hạn chế và tính linh hoạt trong hoạt động sẽ không cao và nguồn kinh phí hoạt động
của cơ quan thường trực của Hội đồng sẽ phụ thuộc vào nguồn cấp từ ngân sách
nhà nước.
- Mô hình thứ hai có tính đổi mới hơn
là có thể để các đơn vị không phải cơ quan quản lý nhà nước chủ động đề xuất được
đảm nhiệm vai trò cơ quan thường trực. Đó có thể là các trường đại học, viện
nghiên cứu hoặc các hiệp hội doanh nghiệp của ngành. Mô hình này sẽ giúp khắc
phục được phần nào hạn chế của mô hình trên do có tính linh hoạt cao, kinh phí
hỗ trợ hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế có thể dễ dàng huy động
từ các nguồn khác nhau, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động cho
Hội đồng có thể sẽ được đảm bảo hơn. Tuy nhiên, mô hình này mới, chưa được thử
nghiệm nên có thể có những rủi ro chưa lường trước. Ngoài ra, việc thực hiện chỉ
đạo điều hành của Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố đối với hoạt động của Hội
đồng phát triển ngành kinh tế có thể không sâu sát như khi các sở, ngành là cơ
quan thường trực.
Do đó, qua phân tích, Đề án nhận thấy
trong thời gian đầu triển khai vẫn áp dụng mô hình truyền thống, giao sở, ngành
chuyên môn có công tác quản lý nhà nước liên quan đến ngành kinh tế đảm nhiệm
vai trò cơ quan thường trực cho Hội đồng phát triển ngành kinh tế. Trong quá
trình triển khai qua việc rút kinh nghiệm thực tế và chuẩn bị kỹ hơn về mọi mặt
sẽ xem xét áp dụng thêm mô hình thứ hai.
3.2. Cơ quan chỉ đạo hoạt động
chung của các Hội đồng
Thành phố dự kiến thành lập 11 Hội đồng
phát triển ngành kinh tế. Do đó, để đảm bảo phát huy hiệu quả hoạt động của các
Hội đồng phát triển ngành kinh tế theo đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra, cần
có cơ chế họp trao đổi giữa Thường trực Ủy ban nhân dân Thành phố với các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế một cách thường xuyên, liên tục. Việc này giúp lãnh đạo
Thành phố (i) kịp thời xem xét, quyết định các chủ trương, chính sách phát triển
ngành do Hội đồng phát triển ngành kinh tế đề xuất; định hướng, chỉ đạo cho Hội
đồng ngành các vấn đề trong ngành cần tập trung tham mưu giải quyết để đảm bảo
sự phát triển của ngành đúng định hướng; (ii) tạo sự kết nối giữa các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế để đảm bảo sự thống nhất trong việc xây dựng và ban
hành các cơ chế, chính sách phát triển ngành, tránh sự chồng chéo, trùng lắp
trong các cơ chế, chính sách; (iii) trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế
chung của Thành phố, thực hiện việc lãnh đạo điều phối, có ý kiến về định hướng
hoạt động nghiên cứu, đề xuất của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế; đồng
thời, trên cơ sở báo cáo nghiên cứu của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế sẽ
chỉ đạo thực hiện hoàn thiện lại định hướng phát triển kinh tế chung của Thành
phố.
Đây là nội dung quan trọng giúp cho
hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế được tập trung, thực chất.
Trong trường hợp này, do Thành phố có nhiều Hội đồng phát triển ngành kinh tế
nên để đảm bảo việc Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo các Hội đồng ngành một
cách thường xuyên, liên tục, Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố là cơ quan đầu
mối sắp xếp chương trình làm việc của Ủy ban nhân dân Thành phố với các Hội đồng
ngành. Trong trường hợp cần thiết hoặc khi các Hội đồng phát triển ngành kinh tế
dần đi vào hoạt động ổn định và có hiệu quả, có thể nghiên cứu thành lập Ban Chỉ
đạo hoặc Hội đồng quản lý các Hội đồng phát triển ngành kinh tế để tập trung đầu
mối điều phối, chỉ đạo hoạt động của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế như
nêu ở trên. Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo hoặc Hội đồng quản lý các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế đề nghị có thể giao cho Viện Nghiên cứu phát triển
Thành phố (đơn vị đầu mối nghiên cứu, tổng hợp về cơ chế, chính sách mang tầm
vĩ mô của Thành phố).
Ngoài ra, cần nghiên cứu thêm quy định
về việc trước khi ban hành, sơ kết, tổng kết các quy định, chương trình, kế hoạch
mới hoặc các chỉ đạo có tác động rộng đến toàn bộ ngành kinh tế, cần phải có cơ
chế để lãnh đạo thành phố lắng nghe phản biện từ các Hội đồng phát triển ngành
kinh tế. Có thể xem đây là một bước bắt buộc trong quy trình xây dựng các quy định,
chương trình, kế hoạch hoạt động của Thành phố.
4. Các cơ
quan có liên quan có trách nhiệm cung cấp số liệu, các báo cáo định kỳ, và các
nội dung khác có liên quan để Hội đồng phát triển ngành kinh tế sử dụng làm tài
liệu nghiên cứu, phản biện chính sách.
Việc có được số liệu báo cáo, tổng hợp
một cách chính xác, kịp thời từ nhiều cơ quan khác nhau phục vụ công tác hoạch
định chính sách thường mất nhiều thời gian do công tác phối hợp, thu thập dữ liệu.
Trong trường hợp là các nhà khoa học hoặc doanh nghiệp riêng rẽ cần số liệu để
phân tích phục vụ các báo cáo khoa học, định hướng chính sách kinh doanh thì việc
tiếp cận các số liệu thống kê từ các cơ quan quản lý nhà nước cũng gặp phải nhiều
khó khăn.
Thông qua Hội đồng phát triển ngành
kinh tế, các số liệu đặc thù liên quan đến ngành sẽ được các cơ quan liên quan
cập nhật định kỳ, kịp thời và được bổ sung các số liệu ngoài do các nhà khoa học
và các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cung cấp. Như vậy, theo thời gian sẽ
tạo ra một cơ sở dữ liệu lớn, hoàn chỉnh và phù hợp với ngành kinh tế. Điều này
không chỉ giúp Hội đồng phát triển ngành kinh tế có cơ sở khoa học để đóng góp
ý kiến về định hướng chính sách mà còn giúp ích cho hoạt động riêng của từng
nhóm đại diện tham gia Hội đồng ngành, đặc biệt là doanh nghiệp và các nhà khoa
học.
5. Phải
có cơ chế để huy động các nguồn lực xã hội (thông qua các thành viên là đại diện
doanh nghiệp hoặc tổ chức tài chính trong Hội đồng phát triển ngành kinh tế hoặc
các nguồn tài trợ khác) phục vụ và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng một
cách công khai, minh bạch và phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc hoạt động của Hội đồng phát triển
ngành kinh tế nếu chỉ dựa trên ngân sách do nhà nước cấp phát sẽ không hiệu quả,
kịp thời do vướng mắc liên quan đến trình tự thủ tục giải ngân, nguồn vốn ngân
sách và các quy định liên quan đến định mức ngân sách.
Trong khi đó, để hoạt động hiệu quả,
Hội đồng phát triển ngành kinh tế cần phải tổ chức các hội nghị, hội thảo để tiếp
nhận, trao đổi thông tin, tổ chức các đoàn nghiên cứu, khảo sát thực tế, đặt
hàng các nghiên cứu chuyên sâu và tiếp cận các cơ sở dữ liệu, các thông tin,
tài liệu phải trả phí do bên thứ ba cung cấp.
Do đó, việc cho phép Hội đồng phát
triển ngành kinh tế tiếp nhận các hỗ trợ và hợp tác với các tổ chức khác là cần
thiết, giúp Hội đồng vận hành hiệu quả. Điều này giúp giảm gánh nặng cho ngân
sách Thành phố.
Việc huy động các nguồn lực xã hội chỉ
phục vụ cho: Các hoạt động nghiên cứu đề tài chuyên sâu của Hội đồng để lựa chọn
được các tổ chức nghiên cứu có tính chuyên nghiệp (kể cả các tổ chức nước
ngoài) nhằm đảm bảo chất lượng của các đề tài nghiên cứu; thuê các chuyên gia
quốc tế tham gia nghiên cứu trong các trường hợp cần thiết; các hội nghị, hội
thảo để tiếp nhận, trao đổi thông tin, tổ chức các đoàn nghiên cứu, khảo sát thực
tế; hỗ trợ chi phí nghiên cứu cho đội ngũ các nhà khoa học thuộc các trường, viện
tham gia Hội đồng để toàn tâm, toàn ý cho hoạt động của Hội đồng.
Đối với các chi phí liên quan đến văn
phòng phẩm, các cơ sở vật chất cho hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh
tế đề nghị sử dụng từ nguồn vốn ngân sách thành phố cấp cho cơ quan Thường trực
Hội đồng.
6. Khi
nghiên cứu, tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố ban hành Quy chế hoạt động của
Hội đồng, cơ quan Thường trực Hội đồng cần nghiên cứu, bổ sung các nội dung về
cơ chế nêu trên để đảm bảo phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng.
Chương IV
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Giao
các sở, ngành chuyên môn chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan căn cứ nội
dung của Đề án này tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố phương án cụ thể về
thành lập các Hội đồng phát triển ngành kinh tế của Thành phố trong quý I năm
2021, cụ thể như sau:
1.1. Giao
Sở Công Thương, Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì phối hợp với sở, ngành
liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập các
Hội đồng phát triển ngành theo đúng định hướng của đề án này và Quyết định số
1790/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân Thành phố.
1.2. Giao
Sở Công Thương chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy ban
nhân dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập Hội đồng phát triển ngành
thương mại điện tử và Hội đồng phát triển ngành dịch vụ vận tải, kho bãi, hệ thống
cảng, logistics.
1.3. Giao
Sở Du lịch chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy ban nhân
dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập Hội đồng phát triển ngành du lịch.
1.4. Giao
Sở Xây dựng chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy ban nhân
dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập Hội đồng phát triển ngành bất động
sản.
1.5. Giao
Sở Tài chính chủ trì phối hợp với Công ty đầu tư tài chính nhà nước Thành phố
và các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố việc hoàn thiện
phương án thành lập Hội đồng phát triển ngành tài chính.
1.6. Giao
Sở Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu Ủy
ban nhân dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập Hội đồng phát triển ngành
dịch vụ tư vấn, khoa học - công nghệ.
1.7. Giao
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên
quan tham mưu Ủy ban nhân dân Thành phố hoàn thiện phương án thành lập Hội đồng
phát triển ngành nông nghiệp đô thị.
2. Các Sở
ngành được giao nhiệm vụ tại mục 1 nêu trên có trách nhiệm:
- Nghiên cứu, tham mưu cho Ủy ban
nhân dân Thành phố ban hành Quy chế hoạt động của Hội đồng.
- Chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân
Thành phố ban hành Kế hoạch chi tiết, cụ thể về cơ chế, số lượng, thành phần Hội
đồng phát triển ngành do cơ quan mình phụ trách, đảm bảo đạt chất lượng, đúng
quy định.
- Định kỳ báo cáo tình hình hoạt động
về Sở Kế hoạch và Đầu tư những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị (nếu có) để Sở
này tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố giải quyết theo thẩm quyền.
3. Giao Sở
Nội vụ chủ trì phối hợp với Văn phòng Ủy ban nhân dân Thành phố và các cơ quan
có liên quan tham mưu cho Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định thành lập các Hội
đồng phát triển ngành kinh tế.
4. Giao Sở
Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện việc hướng dẫn và hỗ trợ các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế về quy trình, thủ tục liên quan đến việc thực hiện các
đề tài nghiên cứu chuyên sâu theo đề nghị của Hội đồng phát triển ngành kinh tế.
5. Giao Sở
Tài chính chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất Ủy ban nhân dân
Thành phố nguồn kinh phí cho hoạt động của các Hội đồng phát triển ngành kinh tế;
các quy định cho các hoạt động nghiên cứu chuyên sâu của Hội đồng.
6. Giao Sở
Kế hoạch và Đầu tư:
- Chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ
nghiên cứu, xây dựng cơ chế hoạt động mẫu của các Hội đồng phát triển ngành kinh
tế để thống nhất thực hiện trong tất cả các Hội đồng phát triển ngành kinh tế của
Thành phố.
- Theo dõi, tổng hợp quá trình triển
khai thực hiện Đề án để báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố tiến độ triển khai thực
hiện và các khó khăn, vướng mắc phát sinh nếu có trong quá trình thực hiện để kịp
thời chỉ đạo giải quyết nhằm đảm bảo quá trình triển khai thực hiện có hiệu quả.
- Nghiên cứu, đề xuất Ủy ban nhân dân
Thành phố thành lập Ban Chỉ đạo hoặc Hội đồng quản lý các Hội đồng phát triển
ngành kinh tế để tập trung đầu mối điều phối, chỉ đạo hoạt động của các Hội đồng
phát triển ngành kinh tế./.
MỤC
LỤC
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết việc xây dựng đề án:
II. Căn cứ pháp lý:
III. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mục tiêu nghiên cứu:
2. Nhiệm vụ:
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH KINH TẾ THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2021 - 2025
I. Thực trạng tình hình phát triển
các ngành kinh tế giai đoạn 2016 - 2020
1. Về phát triển dịch vụ:
2. Về phát triển công nghiệp:
3. Về phát triển nông nghiệp:
II. Thực trạng công tác xây dựng và
triển khai thực hiện các chính sách phát triển các ngành kinh tế của Thành phố:
1. Công tác xây dựng chính sách:
2. Về công tác triển khai các chính
sách phát triển các ngành kinh tế:
III. Mục tiêu, định hướng phát triển
các ngành kinh tế Thành phố
1. Về dịch vụ:
2. Về công nghiệp:
3. Về nông nghiệp:
4. Định hướng xây dựng và triển khai
các chính sách phát triển các ngành kinh tế trong giai đoạn tới:
Chương 3: CÁC NỘI DUNG CỤ THỂ VỀ VIỆC
THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG PHÁT TRIỂN NGÀNH KINH TẾ THÀNH PHỐ
I. Xác định các ngành kinh tế cần
hình thành Hội đồng:
1. Các Hội đồng phát triển ngành kinh
tế đã được thành lập:
2. Các Hội đồng phát triển ngành đề
xuất thành lập bổ sung:
II. Cơ chế hình thành và phát huy, cơ
cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động các Hội đồng phát triển ngành kinh tế
1. Cơ chế hình thành:
2. Số lượng, thành phần và cơ cấu Hội
đồng phát triển ngành kinh tế
3. Nội dung, phương thức hoạt động và
cơ chế vận hành
4. Mối quan hệ với các tổ chức, đơn vị
liên quan
III. Một số vấn đề đặt ra để phát huy
hiệu quả hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế:
IV. Cơ chế, chính sách, giải pháp để
phát huy hiệu quả hoạt động của Hội đồng phát triển ngành kinh tế
Chương 4: TỔ CHỨC THỰC HIỆN