ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH GIA LAI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 977/KH-UBND
|
Gia Lai, ngày 27 tháng 04 năm 2023
|
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2023 TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH GIA LAI
Thực hiện Báo cáo số 164/BC-BCĐ
ngày 09/01/2023 của Ban Chỉ đạo đổi mới phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã
về việc báo cáo tình hình phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2022 và kế
hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2023; Ủy ban nhân dân tỉnh Gia
Lai ban hành kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2023 trên địa
bàn tỉnh Gia Lai như sau:
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC
XÃ NĂM 2022
I. TÌNH
HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ
1. Đánh giá chung
a) Về số lượng, doanh thu và
thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, THT (sau đây viết tắt là HTX, LH
HTX, THT)
- Về HTX: Tính đến 31/12/2022
trên địa bàn tỉnh hiện có 388 HTX[1], trong đó có 318 HTX đang hoạt động theo Luật Hợp tác xã năm
2012, 47 HTX ngưng hoạt động, 23 HTX chưa chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm
2012; doanh thu bình quân đạt 2.805 triệu đồng/năm; lãi bình quân đạt 101 triệu
đồng/năm.
- Về LH HTX: Tính đến 31/12/2022,
trên địa bàn tỉnh có 02 LH HTX, doanh thu bình quân của một LH HTX là 400 triệu
đồng/năm.
- Về THT: Tính đến 31/12/2022
trên địa bàn tỉnh có 504 THT, trong đó có 403 THT có đăng ký hoạt động với
chính quyền cấp xã, đa số các THT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, doanh
thu bình quân mỗi THT là 33,04 triệu đồng.
b) Về thành viên, lao động của
HTX, LH HTX, THT
- Tổng số thành viên của HTX là
18.163 người (trong đó thành viên mới là 348 người). Tổng số lao động thường
xuyên trong HTX là 6.755 người (trong đó lao động là thành viên là 4.082 người,
lao động mới là 610 người). Thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong
HTX khoảng 38 triệu đồng.
- Về LH HTX: trên địa bàn tỉnh
có 02 LH HTX với 09 HTX thành viên.
- Về THT: Tổng số thành viên
THT có 4.435 thành viên, trong đó số thành viên mới thu hút là 646 thành viên.
c) Về trình độ cán bộ quản lý
HTX, LH HTX: Tổng số cán bộ quản lý HTX, LH HTX có 1.192 người, trong đó số lượng
cán bộ quản lý đạt trình độ sơ cấp, trung cấp có 504 người, chiếm 42,28% tổng số
cán bộ quản lý; cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học có 303 người chiếm 25,41%
tổng số cán bộ quản lý.
2. Đánh giá theo lĩnh vực
- Lĩnh vực nông nghiệp: Có 308
HTX với sự tham gia của 9.900 thành viên, vốn điều lệ đăng ký 641.474 triệu đồng.
Nhìn chung, các HTX hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực và bước đầu có những đạt
được kết quả đáng ghi nhận, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho các
thành viên, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng nông thôn mới.
Một số HTX hoạt động có hiệu quả,
điển hình như: HTX Mộc Nguyên, HTX An Phú Thịnh tại thành phố Pleiku sản xuất sản
phẩm nông nghiệp theo quy trình khép kín; HTX nông nghiệp Chư A Thai tại huyện
Phú Thiện đang triển khai xây dựng cánh đồng mẫu lớn sản xuất gạo an toàn; HTX
nông nghiệp Tân Tiến tại huyện Ia Pa và HTX nông lâm nghiệp và dịch vụ vận tải
Nam Yang tại huyện Kông Chro đang triển khai xây dựng cánh đồng mẫu lớn đối với
cây mì và cây mía; một số HTX hoạt động hiệu quả như HTX mật ong Phương Di tại
huyện Ia Grai; HTX Nông nghiệp và dịch vụ Hùng Thơm Gia Lai tại huyện Mang
Yang,…
Tuy nhiên, bên cạnh những HTX
hoạt động hiệu quả, vẫn tồn tại các HTX hoạt động sản xuất kinh doanh còn yếu,
thiếu tính ổn định, năng lực cạnh tranh yếu, thiếu nguồn vốn đầu tư cho sản xuất,
thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, phương thức hoạt động kinh doanh chưa phù hợp
và chưa theo kịp với sự phát triển chung của thị trường. Việc chủ động tìm kiếm
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm còn yếu. Các HTX hoạt động còn manh mún,
nhỏ lẻ, chủ yếu hoạt động các dịch vụ “đầu vào”, số HTX làm dịch vụ “đầu ra”
còn hạn chế.
- Lĩnh vực công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp: Có 16 HTX với sự tham gia của 505 thành viên, giải quyết việc
làm cho 443 lao động, vốn điều lệ đăng ký 17.822 triệu đồng. Phần lớn các HTX
có quy mô nhỏ, trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động thủ công là chính,
hiệu quả kinh doanh thấp. Một số HTX đã chủ động tìm hướng đi thích hợp, như đầu
tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giải quyết việc làm và tăng
thu nhập cho người lao động.
- Lĩnh vực vận tải: Có 36 HTX với
sự tham gia của 454 thành viên, giải quyết việc làm cho 198 lao động, vốn điều
lệ đăng ký 61.487 triệu đồng. Các HTX vận tải hoạt động theo mô hình dịch vụ hỗ
trợ là chính như khai thác luồng, tuyến, bến bãi và hợp đồng vận chuyển khách,
hàng hóa ở trong tỉnh, trong nước và nước ngoài; thành viên tự quản lý phương
tiện. Nhìn chung các HTX vận tải hoạt động khá ổn định, kinh doanh có hiệu quả.
Nhiều HTX đã huy động thành viên cùng với HTX góp vốn đổi mới phương tiện vận
chuyển, đa dạng các loại hình phục vụ vận tải hành khách, phục vụ tốt nhu cầu
đi lại của nhân dân trên địa bàn.
- Lĩnh vực xây dựng: Có 09 HTX
đang hoạt động với sự tham gia của 64 thành viên, giải quyết việc làm cho 87
người lao động, vốn điều lệ đăng ký 45.108 triệu đồng. Ngành nghề kinh doanh chủ
yếu là buôn bán vật liệu xây dựng, nhận thi công công trình... Nhìn chung, các
HTX xây dựng gặp nhiều khó khăn do các HTX có quy mô nhỏ, vốn ít, chưa đủ năng
lực để tham gia đấu thầu các công trình lớn mà chủ yếu chỉ nhận những công
trình vừa và nhỏ trên địa bàn huyện, xã như công trình giao thông nông thôn,
giao thông nội đồng, sửa chữa kênh mương, những công trình cấp IV,…
- Lĩnh vực thương mại: Có 13
HTX đang hoạt động với sự tham gia của 94 thành viên, vốn điều lệ đăng ký
38.237 triệu đồng. Phần lớn các HTX hoạt động ổn định, phát triển các hình thức
liên doanh, liên kết đem lại hiệu quả cao, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho
thành viên và người lao động. Tuy nhiên, vẫn gặp khó khăn do quy mô nhỏ, chưa đủ
điều kiện mở rộng nguồn hàng và địa bàn kinh doanh.
- Lĩnh vực quỹ tín dụng nhân
dân (QTD): Trên địa bàn tỉnh hiện có 06 QTD nhân dân đang hoạt động với 7.206
thành viên, vốn điều lệ đăng ký 23.562 triệu đồng. Các QTD nhân dân hoạt động
dưới sự quản lý và giám sát của Chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, do đó hệ thống
QTD nhân dân được tổ chức chặt chẽ, đảm bảo tính liên kết hệ thống và là lĩnh vực
hoạt động ổn định, có hiệu quả nhất hiện nay (100% quỹ hoạt động có lãi). QTD
nhân dân thực sự trở thành kênh huy động vốn và cho vay rất hiệu quả ở khu vực
nông thôn, góp phần hỗ trợ thành viên phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo,
hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi và tạo cho người dân làm quen với dịch vụ
tài chính ngân hàng.
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh có
02 LH HTX nông nghiệp với 09 HTX thành viên (LH HTX tinh dầu Bạc Hà Tây Bắc Gia
Lai với 04 HTX thành viên và LH HTX Nông dược Tây Nguyên với 05 HTX thành
viên), với tổng vốn điều lệ là 10.500 triệu đồng. Hiện nay các LH HTX có hợp đồng
liên kết tiêu thụ sản phẩm ổn định và có khả năng mở rộng quy mô phát triển các
sản phẩm nông nghiệp; áp dụng tốt tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào trồng trọt;
các LH HTX bước đầu đáp ứng được các dịch vụ cho các thành viên HTX; tập trung
đẩy mạnh hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các HTX thành viên, hỗ trợ nhau
trong hoạt động và đáp ứng nhu cầu khác của các thành viên tham gia. Tuy nhiên,
trình độ cán bộ quản lý, điều hành còn hạn chế, còn nhiều cán bộ HTX chưa qua
đào tạo, thiếu cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và thiếu vốn lưu động
phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
3. Đánh giá tác động của
HTX, LH HTX, THT tới thành viên, kinh tế hộ thành viên
Tình hình phát triển HTX trên địa
bàn đã có bước tiến triển mạnh về số lượng, một số HTX nông nghiệp hoạt động
theo mô hình HTX kiểu mới, hiệu quả, phát huy tốt những lợi thế của địa phương,
góp phần phát triển kinh tế xã hội, tạo việc làm cho người dân.
Cùng với tái cơ cấu sản xuất
ngành nông nghiệp, các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể (viết
tắt là KTTT), HTX đã thúc đẩy kinh tế hợp tác của tỉnh có bước phát triển, nội
dung phương thức hoạt động HTX từng bước được đổi mới, đa dạng về ngành nghề và
quy mô tổ chức sản xuất kinh doanh. Liên kết giữa HTX với doanh nghiệp, hộ
thành viên trong sản xuất, bao tiêu sản phẩm từng bước hình thành. KTTT, HTX là
nhân tố quan trọng góp phần xây dựng nông thôn mới, thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn, nhất là ở lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Thông
qua hoạt động liên doanh, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, các HTX đã thể
hiện được vai trò cầu nối, tạo điều kiện cho các thành viên, hộ nông dân chuyển
dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nâng
cao năng suất, chất lượng sản phẩm, góp phần giải quyết việc làm và tăng thêm
thu nhập cho người lao động, tạo được niềm tin cho thành viên. Nhiều HTX nông
nghiệp đã giảm được chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng sản phẩm, đem lại thu
nhập ổn định cho các thành viên, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân
dân.
Bên cạnh những tác động tích cực
của HTX, LH HTX, THT tới thành viên, kinh tế hộ thành viên cũng tồn tại những hạn
chế như: việc bảo vệ quyền lợi của các hộ thành viên chưa tốt liên quan đến các
vấn đề về quyền tài sản, nhất là đối với đất đai chưa được xác định rõ và có
các giải pháp xử lý căn cơ, bài bản; còn gây nhiều tranh chấp, xung đột. Một số
cơ chế chính sách ban hành chưa thật sự sát với yêu cầu thực tiễn nên hiệu quả
mang lại chưa cao như: Chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm;
chính sách thuế, phí và lệ phí; chính sách khoa học - công nghệ và xúc tiến
thương mại; điều kiện hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ còn hạn chế, trùng lắp, mức hỗ
trợ còn hạn chế, hồ sơ thủ tục rườm rà nên số HTX thụ hưởng chính sách chưa nhiều,
việc tiếp cận nguồn vốn gặp nhiều khó khăn nên còn lúng túng trong việc định hướng,
xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh.
4. Một số mô hình hoạt động
hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ
cao
Việc liên kết giữa HTX với các
hộ nông dân, doanh nghiệp và các tổ chức có liên quan trong tham gia vào chuỗi
giá trị sản phẩm (sản xuất - chế biến - tiêu thụ nông sản) đã có sự chuyển biến
tích cực. Phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị ngày càng hoạt động có hiệu
quả và được các cấp, các ngành chú trọng, tạo điều kiện phát triển. Đã hình
thành nhiều vùng nguyên liệu hàng hóa tập trung và có nhiều mô hình liên kết
trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất, chất
lượng sản phẩm, ổn định được đầu ra sản phẩm, nâng cao thu nhập cho nông dân,
đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, giải quyết việc làm
ở nông thôn, tạo nên mối liên kết bền chặt giữa người nông dân , HTX và doanh
nghiệp.
Hiện nay, trên toàn tỉnh có khoảng
136.604 ha diện tích các loại cây trồng thực hiện liên kết sản xuất gắn với
tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; đối tượng tham gia liên kết gồm 81 HTX, 72 THT với
trên 22.663 hộ nông dân và trên 42 doanh nghiệp tham gia đầu chuỗi tham gia
liên kết. Điển hình là chuỗi liên kết do Công ty TNHH Vĩnh Hiệp làm đầu chuỗi,
đã hình thành quy mô liên kết cà phê là 20.000 ha (quy trình 4C: 10.000 ha, quy
trình UTZ: 1.241 ha, quy trình Organic: 45 ha) và 8.714 ha liên kết với các hộ
nông dân trồng cà phê trực tiếp; sản lượng thu mua hàng năm đạt 70.000 tấn cà
phê nhân; đến nay có 10 HTX và 7.000 hộ tham gia liên kết với công ty, triển
khai trên địa bàn 06 huyện. Tập đoàn Lộc Trời đã triển khai liên kết 1.242,6 ha
(1.013 ha cây ngô sinh khối và 229,6 ha lúa nước), với 08 HTX và 02 THT trên địa
bàn 9 huyện, thị xã. Công ty TNHH một thành viên xuất nhập khẩu rau quả Doveco
Gia Lai đang thực hiện liên kết 2.090,6 ha, với 05 HTX, 71 THT và 1.075 hộ nông
dân tham gia, triển khai trên địa bàn 12 huyện, thị xã. Công ty Đông Nam dược
Gia Lai thực hiện liên kết các chuỗi cây dược liệu với diện tích khoảng 24,73ha
trên địa bàn 10 huyện, thị xã. Công ty TNHH phát triển khoa học quốc tế Trường
Sinh đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến dược liệu, hình thành liên kết chuỗi
giá trị sản xuất - tiêu thụ dược liệu trên địa bàn tỉnh với 02 HTX, 07 hộ dân
và 01 doanh nghiệp với tổng diện tích 231,45ha.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh có
32 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (chiếm 10,4% tổng số HTX nông nghiệp),
như: Áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm, công nghệ nhà lưới, nhà màng, bảo quản
nông sản lạnh nhanh, công nghệ sinh học trong xử lý chất thải chăn nuôi, áp dụng
dây chuyền chế biến, đóng gói, sử dụng phần mềm bán hàng, phần mềm kế toán,....
Trong thời gian tới, tiếp tục thúc đẩy và nhân rộng các mô hình HTX ứng dụng
công nghệ cao trong nông nghiệp; tăng cường thực hiện các chính sách hỗ trợ nguồn
vốn, hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ công nghệ… để tăng chất lượng, giá trị kinh tế
và năng suất của các sản phẩm trên một đơn vị diện tích…
II. KẾT QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KTTT
1. Kết quả
triển khai Luật và các văn bản hướng dẫn
Tiếp tục triển khai thực hiện
Luật Hợp tác xã năm 2012; Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013
của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012; Nghị
định số 107/2017/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã năm 2012; Kết luận số 56-KL/TW, ngày
21 tháng 02 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 Khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
KTTT; Kết luận số 70-KL/TW ngày 09 tháng 3 năm 2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả KTTT; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII và Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02/02/2023 của
Chính phủ về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai
đoạn mới; Chỉ thị số 19/CT-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ
về việc đẩy mạnh triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012 và các Thông tư
hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương; các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban
nhân dân tỉnh như: Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 30 tháng 5 năm 2017 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp đẩy mạnh phát triển HTX trên
địa bàn tỉnh; Chương trình số 46-CTr/TU ngày 09 tháng 12 năm 2022 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022;
Chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 12 tháng 01 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về đẩy
mạnh phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Gia Lai; Chỉ thị 06/CT-UBND , ngày 11
tháng 7 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh về tiếp tục tăng cường công tác triển
khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012,…
Hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh
đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, địa phương rà soát, tham mưu xây dựng kế hoạch,
chính sách hỗ trợ, phát triển HTX trên địa bàn tỉnh, đồng thời thành lập Ban Chỉ
đạo phát triển KTTT nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước và hỗ trợ phát
triển KTTT, HTX trên địa bàn; tổ chức nhiều buổi làm việc trực tiếp với các sở,
ban, ngành, địa phương, tổ chức các buổi đi thăm, làm việc với một số HTX để nắm
bắt tình hình hoạt động, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nhằm giúp các
HTX hoạt động ổn định và phát triển sản xuất, kinh doanh.
Tham mưu Tỉnh ủy tổng kết 05
năm thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TU ngày 30 tháng 5 năm 2017 của Ban Thường vụ Tỉnh
ủy về lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp đẩy mạnh phát triển HTX trên địa bàn
tỉnh; tham mưu Ban Thường vụ Tỉnh ủy xây dựng Chương trình hành động của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng
cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới.
2. Công tác
quản lý nhà nước về KTTT
Tăng cường vai trò của Ban Chỉ
đạo đổi mới, phát triển KTTT trên địa bàn tỉnh, đã kiện toàn Ban Chỉ đạo và ban
hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT, HTX tỉnh, đồng
thời tổ chức họp Ban Chỉ đạo, qua đó lấy ý kiến thống nhất ban hành Chương
trình hỗ trợ phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Gia
Lai. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đã ban hành kế hoạch số 362/KH-UBND ngày
01/3/2022 về kế hoạch phát triển KTTT, HTX năm 2022.
Công tác tuyên truyền, hướng dẫn
các thủ tục thành lập mới, chuyển đổi, giải thể các HTX theo đúng quy định Luật
Hợp tác xã năm 2012.
Nhìn chung, công tác tổ chức và
hướng dẫn đăng ký HTX thực hiện theo đúng quy định, các cơ quan đăng ký thành lập
đã niêm yết công khai tại Bộ phận một cửa, cập nhật, đăng tải trên trang thông
tin điện tử, từ đó đã giúp các cá nhân, tổ chức đăng ký thành lập được thuận lợi,
nhanh chóng. Tăng cường chỉ đạo các sở, ngành, địa phương tăng cường xử lý các
HTX không hoạt động, khó khăn trong giải thể, chưa đăng ký và tổ chức lại theo
Luật Hợp tác xã năm 2012. Theo đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã triển khai các văn
bản đôn đốc giải thể các HTX không còn hoạt động trên địa bàn[2].
3. Kết quả triển khai chính
sách hỗ trợ, ưu đãi HTX.
- Triển khai Quyết định số
1804/QĐ-TTg ngày 22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hỗ trợ phát
triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định
số 314/QĐ-UBND ngày 27/4/2022 về phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển KTTT,
HTX giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Hội đồng Nhân dân tỉnh đã
ban hành Nghị quyết số 43/2022/NQ- HĐND về quy định mức chi hỗ trợ kinh phí ăn ở
cho học viên tham gia khóa đào tạo để nâng cao năng lực và mức chi hỗ trợ đưa
lao động trẻ về làm việc tại tổ chức KTTT trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn
2021-2025, Nghị quyết số 174/NQ- HĐND ngày 09/12/2022 về phát triển KTTT, HTX tỉnh
Gia Lai giai đoạn 2021-2025.
- Về công tác xúc tiến thương mại:
Trong năm, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn phối hợp với Sở Công Thương tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh
hỗ trợ tham gia hội chợ xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tìm
kiếm mở rộng thị trường cho các HTX. Qua đó, các HTX tham gia hội chợ thương mại
đã kết nối được với một số doanh nghiệp, HTX trong việc sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa, giao lưu, học hỏi được kinh nghiệm trong việc tổ chức, sắp xếp,
marketing của các đơn vị tham gia. Ngoài ra, HTX có cơ hội quảng bá sản phẩm địa
phương, sản phẩm chủ lực vùng, miền.
Kết quả đạt được:
+ Hỗ trợ lồng ghép cho 46 HTX
tham gia gian hàng tại Hội nghị “Gặp gỡ Hàn Quốc năm 2022” tại tỉnh Bình Định;
tham gia Hội chợ “Diễn đàn sản phẩm OCOP Đồng Tháp và các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu
Long năm 2022 chủ đề “Liên kết cùng phát triển”; tham gia trưng bày hàng hóa
gian hàng giới thiệu, quảng bá sản phẩm đặc trưng tỉnh Gia Lai tại Hội chợ triển
lãm thương mại và giới thiệu sản phẩm OCOP khu vực Tây Nguyên - Gia Lai và giao
thương doanh nghiệp Nhật Bản năm 2022 tại Quảng Trường Đại Đoàn kết tỉnh Gia
Lai. Qua các kênh Hội chợ đã tạo cơ hội cho các HTX gặp gỡ, trao đổi, tìm hiểu
nhu cầu, tiêu chuẩn sản phẩm, phương thức cung ứng các đơn vị sản xuất, phân phối,
tiêu thụ sản phẩm của tỉnh Gia Lai thúc đẩy các sản phẩm OCOP Gia Lai mở rộng
thị trường, nhằm từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ,
năng lực cung ứng và sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng
và định hướng xuất khẩu.
+ Cung cấp thông tin cho HTX về
các lĩnh vực xuất khẩu, tin quốc tế và các thông tin địa phương lên Website của
Trung tâm Khuyến công và Xúc tiến thương mại qua trang thông tin điện tử
www.tipcgialai.vn. Gửi thông tin mời các doanh nghiệp, HTX tham gia Hội chợ triển
lãm, giới thiệu sản phẩm trên cả nước; tái bản ấn phẩm tuyên truyền quảng bá mặt
hàng, chỉ dẫn địa lý nổi tiếng của tỉnh Gia Lai và xuất bản 06 số bản tin hoạt
động công nghiệp và thương mại.
+ Tổ chức cho 05 HTX tham gia
Diễn đàn KTTT, HTX khu vực miền Trung
- Tây Nguyên lần thứ Nhất gắn với
năm du lịch Quốc gia Quảng Nam - 2022. Trong khuôn khổ Diễn đàn, các HTX tham
gia Ngày hội xúc tiến thương mại và Hội thi HTX tiêu biểu năm 2022, kết quả có
3/5 HTX đạt giải.
+ Duy trì hoạt động mua và bán
các sản phẩm được chứng nhận OCOP trên sàn thương mại điện tử
www.ocopgialai.vn. Hỗ trợ các chủ thể tạo gian hàng và đăng bán sản phẩm trên
các sàn thương mại điện tử.
- Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, tập
huấn:
+ Sở Công thương đã phối hợp với
Trung tâm phát triển thương mại điện tử
- Cục Thương mại điện tử và
Kinh tế số (Bộ Công Thương), Hiệp hội Thương mại điện tử - Chi nhánh Đà Nẵng tổ
chức Hội nghị tập huấn “Thương mại điện tử - Cơ hội bức tốc cho doanh nghiệp
Gia Lai thời kỳ hậu COVID-19” với sự tham gia 150 đại diện các doanh nghiệp và
HTX trên địa bàn tỉnh, Hội nghị tập huấn xu hướng Thương mại điện tử và giải
pháp tăng tốc kinh doanh cho sản phẩm nông sản địa phương, số lượng tham gia
100 người; tổ chức Hội nghị tập huấn hỗ trợ xây dựng và phát triển thương hiệu
với sự tham gia của 125 học viên đại diện các sở, ngành, doanh nghiệp và HTX
trên địa bàn tỉnh; tổ chức Hội nghị tuyên truyền về Hiệp định đối tác kinh tế
toàn diện khu vực RCEP với sự tham gia 125 học viên đại diện các sở, ngành,
doanh nghiệp và HTX trên địa bàn tỉnh, qua đó góp phần nâng cao nhận thức và kỹ
năng ứng dụng thương mại điện tử cho các HTX trên địa bàn tỉnh.
+ Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn phối hợp với các c ơ quan, đơn vị có liên quan đề xuất Ủy ban nhân
dân tỉnh phân bổ kế hoạch vốn sự nghiệp thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý cho HTX nông nghiệp với kinh phí
950 triệu đồng.
+ Liên minh Hợp tác xã tỉnh mở
01 lớp bồi dưỡng về kỹ năng lập kế hoạch và giao tiếp hiệu quả cho 48 Giám đốc
HTX trên địa bàn tỉnh; phối hợp với Trường Kinh tế- kỹ thuật và đào tạo cán bộ
HTX Miền Trung- Tây nguyên mở 6 lớp bồi dưỡng cho 339 lượt cán bộ, thành viên
HTX trên địa bàn tỉnh về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế- xã
hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2022; phối hợp với Cục Xúc
tiến thương mại thuộc Bộ Công Thương tổ chức “khoá đào tạo kỹ năng kinh doanh
trên nền tảng số, phát triển KTTT và HTX” với 25 HTX trên địa bàn tỉnh tham
gia.
+ Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị
có liên quan đã phối hợp tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực cho 273
lượt cán bộ HTX tham gia.
- Hỗ trợ áp dụng các giải pháp
quản lý, chất lượng, truy xuất nguồn gốc, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng
hóa:
Sở Khoa học và Công nghệ đang
hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc cho các chuỗi cung ứng sản phẩm nông sản
của tỉnh, cụ thể: sản phẩm “Gạo Phú Thiện” tại HTX dịch vụ nông nghiệp Chư A Thai,
huyện Phú Thiện; sản phẩm “Rau Đak Pơ” tại HTX Dịch vụ vận tải Đak Pơ, huyện
Đak Pơ nhằm phù hợp với quy trình sản xuất, kinh doanh chuỗi cung ứng và phù hợp
yêu cầu các tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc. Hiện tại, đang triển
khai 02 nhiệm vụ gồm: (1) Xây dựng mô hình áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc
phù hợp tiêu chuẩn quốc gia cho chuỗi cung ứng sản phẩm “Chôm chôm Ia Grai” tại
HTX Dịch vụ nông nghiệp Ia Tô, huyện Ia Grai và (2) Mô hình thực hiện truy xuất
nguồn gốc đối với các “Sản phẩm OCOP tỉnh Gia Lai” áp dụng giải pháp truy xuất
nguồn gốc dùng chung của Công ty cổ phần Công nghệ và Truyền thông SmartLife
theo thực tế sản xuất, kinh doanh của các sản phẩm OCOP.
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa
học và Công nghệ tỉnh đang triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ cơ sở năm
2022 “Tiếp nhận và ứng dụng Quy trình sản xuất chế phẩm sinh học Bio Grow phục
vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai” trong đó có sự tham gia của
HTX sản xuất, thương mại, dịch vụ, du lịch nông nghiệp Ia Mơ Nông, huyện Chư
Pah.
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng luôn được quan tâm đầu tư tăng cường năng lực. Đơn vị kiểm
định hơn 10.000 phương tiện đo các loại; phân tích các chỉ tiêu chất lượng cho
hơn 1.500 sản phẩm, hàng hóa phục vụ cho hoạt động nâng cao, đảm bảo chất lượng
sản phẩm hàng hóa, an toàn thực phẩm và môi trường của tổ chức và cá nhân,
trong đó có các HTX trên địa bàn tỉnh.
Đẩy mạnh công tác tư vấn và hướng
dẫn các tổ chức, cá nhân về đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của Điểm tư
vấn xây dựng Thương hiệu và nhãn hiệu nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, HTX, người dân
trong xây dựng nhãn hiệu. Tư vấn và hướng dẫn 70[3] tổ chức, cá nhân về đăng ký bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp.
- Chính sách tiếp cận vốn và quỹ
hỗ trợ phát triển HTX: Hướng dẫn các HTX trên địa bàn tỉnh các thủ tục, hồ sơ
vay vốn và đã giải ngân 9.640 triệu đồng[4] từ nguồn vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam năm 2022;
đến nay, Quỹ hỗ trợ phát triển HTX Việt Nam đã giải ngân cho HTX dịch vụ vận tải
Đak Pơ, huyện Đăk Pơ vay 5,5 tỷ đồng.
- Hỗ trợ HTX đầu tư cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất, đời sống của cộng đồng thành viên và tham gia các chương
trình, dự án kinh tế - xã hội: đã tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX tham gia
thực hiện thi công các công trình dân sinh, công cộng như: Kênh mương nội đồng,
giao thông nông thôn,…ngoài ra còn triển khai nhiều đề tài, dự án hỗ trợ cho
các HTX như: Thay đổi giống cây trồng, vật nuôi, bảo quản, chế biến nông sản nhằm
nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa, tìm kiếm mở rộng thị trường tiêu thụ,
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh của các HTX. Cụ thể:
+ UBND thị xã An Khê đã giao
HTX kinh doanh dịch vụ tổng hợp nông nghiệp An Phú quản lý, khai thác công
trình thủy lợi trên địa bàn phường An Phú, thị xã An Khê; UBND huyện KBang hợp
đồng đặt hàng cho các HTX dịch vụ nông nghiệp thực hiện quản lý, khai thác, bảo
vệ tu sửa và điều tiết nước từ kênh mương nội đồng đến ruộng cho người sản xuất;
giao cho HTX kinh doanh khai thác, quản lý chợ, liên kết với các HTX khác thu
mua hàng nông sản sạch, có nguồn gốc rõ ràng để phân phối lại cho tiểu thương
trong chợ, cung cấp những sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,...
+ Toàn tỉnh đã hỗ trợ cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất cà phê bền vững cho 03 HTX với tổng kinh phí 15.700 triệu
đồng, cụ thể: HTX thị trấn Chư Prông, huyện Chư Prông (nâng cấp 01 km đường vào
khu sản xuất cà phê với 2.600 triệu đồng, hỗ trợ 800m2 nhà kho với
kinh phí 2.640 triệu đồng, hỗ trợ 4.000m2 sân phơi với kinh phí
1.200 triệu đồng), HTX nông nghiệp Ia Kly, huyện Chư Prông (nâng cấp 2,6 km đường
vào vùng sản xuất cà phê Suối Mơ và khu làng Thung với 3.380 triệu đồng, 01 km
đường điện vào khu sản xuất suối Mơ với kinh phí 1.200 triệu đồng, hỗ trợ
1.000m2 sân phơi với kinh phí 300 triệu đồng), HTX Nông Liên Kết,
huyện Chư Prông (đường nội đồng với kinh phí: 3.750 triệu đồng, nhà kho với
kinh phí 330 triệu đồng, sân phơi với kinh phí 300 triệu đồng).
+ Triển khai dự án đầu tư kết cấu
hạ tầng hỗ trợ HTX phát triển vùng nguyên liệu theo Đề án thí điểm xây dựng
vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
giai đoạn 2022-2025 trên địa bàn tỉnh được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn phê duyệt tại Quyết định số 1088/QĐ-BNN- KTHT ngày 25/3/2020: Nâng cấp
12,32 km đường giao thông nông thôn theo tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn
loại B vào khu vực sản xuất vùng nguyên liệu của 04 HTX nông nghiệp: HTX Nông
nghiệp thương mại và du lịch sinh thái Hàm Rồng, HTX sản xuất kinh doanh dịch vụ
nông nghiệp Ia Ring, HTX dịch vụ nông nghiệp Nghĩa Hòa, HTX Xây dựng -Thương mại
và Dịch vụ Phượng Hoàng với kinh phí 25.245 triệu đồng; Hỗ trợ nhà kho kết hợp
nhà điều hành, trưng bày sản phẩm HTX Nông nghiệp và Dịch vụ Đak Krong; đầu tư
hạng mục Silo cho HTX Xây dựng -Thương mại và Dịch vụ Phượng Hoàng và HTX Sản
xuất, Thương mại Dịch vụ Du lịch Nông nghiệp Ia Mơ Nông.
- Về thuế: Thực hiện theo đúng
quy định về các chính sách ưu đãi về miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và
các loại thuế khác theo quy định của pháp luật.
III. ĐÁNH
GIÁ CHUNG
1. Những
kết quả đạt được
Năm 2022 với nhiều khó khăn và
thách thức, nhưng khu vực KTTT, HTX tiếp tục phát triển ổn định. Số lượng HTX
năm sau cao hơn năm trước; các HTX hoạt động tương đối ổn định và có lãi; tạo
việc làm, thu nhập cho người lao động và đem lại lợi ích cho thành viên. Khu vực
KTTT, HTX cũng đã góp phần lớn trong việc cung ứng dịch vụ đầu vào phục vụ sản
xuất, mở rộng ngành nghề sản xuất kinh doanh, một số HTX đã tổ chức được dịch vụ
“đầu ra” tiêu thụ nông sản cho nhân dân, góp phần giải quyết việc làm, ổn định
đời sống và phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh.
2. Các tồn
tại hạn chế
- Công tác tuyên truyền, vận động
chưa đạt được kết quả như mong muốn; cách thức tổ chức, nhận thức về HTX kiểu mới
có lúc, có nơi chưa đầy đủ và thông suốt; số lượng HTX hoạt động sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả và ổn định còn ít, chưa có sức lan tỏa...
- Một số văn bản hướng dẫn triển
khai chưa cụ thể, một số chính sách hỗ trợ được ban hành nhưng chưa đồng bộ,
chưa quy định định mức cụ thể, quy trình giải quyết và thiếu nguồn lực để triển
khai thực hiện. Các cơ chế, chính sách về hỗ trợ phát triển KTTT, HTX được ban
hành nhiều; tuy nhiên, nguồn lực để triển khai còn hạn chế, nguồn ngân sách thực
hiện các chính sách hỗ trợ chủ yếu là nguồn kinh phí lồng ghép chương trình mục
tiêu quốc gia, kinh phí sự nghiệp và các nguồn kinh phí vận động khác…
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy, chính quyền địa phương có nơi, có lúc chưa thường xuyên, liên tục;
chưa kịp thời nắm bắt được khó khăn của các HTX để kịp thời xử lý, kiến nghị.
- HTX trên địa bàn tỉnh hoạt động
còn nhiều hạn chế. Một số HTX hoạt động yếu kém, chưa đúng bản chất HTX kiểu mới;
quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý,
điều hành còn thiếu và yếu; chất lượng, hiệu quả hoạt động còn thấp và thiếu bền
vững; lợi ích đem lại cho các thành viên chưa cao. Vai trò của HTX đối với nông
nghiệp, nông thôn còn mờ nhạt, phần lớn các HTX chưa tạo được sự liên kết vững
chắc, chưa góp phần tạo nền tảng để thúc đẩy xây dựng nông thôn mới và tạo đột
phá trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
- Nhiều HTX còn thiếu cơ sở vật
chất, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất, không có tài sản thế chấp để vay vốn, chưa
xây dựng được phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả để vay vốn tín dụng, huy động
vốn của thành viên; phương thức hoạt động kinh doanh của HTX không phù hợp và
chưa theo kịp với sự phát triển chung của thị trường; xây dựng thương hiệu sản
phẩm và mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường. Một số HTX hoạt động kém hiệu quả, một số HTX tồn tại mang tính hình thức.
3. Nguyên
nhân
- Công tác tuyên truyền về HTX
kiểu mới chưa đi vào chiều sâu; chính quyền một số nơi chưa thực sự quan tâm đến
sự phát triển của HTX. Bản thân những thành viên tham gia HTX cũng chưa nhận thức
hết trách nhiệm xây dựng và phát triển tổ chức kinh tế của mình.
- Nhận thức về bản chất, nguyên
tắc và giá trị của mô hình HTX kiểu mới và tính tất yếu khách quan của phát triển
KTTT của một số cấp ủy, chính quyền và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
chưa đầy đủ, chưa đúng tầm, quan tâm chưa đúng mức và thiếu sự thống nhất. Nhận
thức vai trò của phát triển KTTT trong nông nghiệp của người dân còn nhiều hạn
chế.
- Các chính sách hỗ trợ khuyến
khích phát triển HTX của nhà nước ban hành nhiều nhưng thiếu nguồn lực; một số
chính sách quy định bố trí nguồn ngân sách địa phương thực hiện, chưa phù hợp với
vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi có điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều
khó khăn.
- Cán bộ phụ trách HTX của các
huyện, thị xã, thành phố còn thiếu, đa phần là kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi;
do đó, việc kiểm tra, theo dõi tình hình hoạt động của các HTX chưa sâu sát,
chưa kịp thời nắm bắt được khó khăn của các HTX để kiến nghị với cơ quan cấp
trên.
- Thời tiết, khí hậu, dịch bệnh
diễn biến phức tạp, khó lường gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp; giá cả hàng
hoá nông sản không ổn định. Ảnh hưởng của dịch Covid-19, một số HTX thiếu vốn để
sản xuất, hỗ trợ người lao động và thành viên, trong khi đó nguồn lực phân bổ
còn hạn chế, việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để sản xuất, kinh
doanh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn khó khăn. Việc tiếp cận các chính sách
của nhà nước về thuế, các loại phí, lãi suất, hỗ trợ người lao động, giảm giá
tiền điện… gặp nhiều khó khăn.
- Đội ngũ cán bộ quản lý của
các HTX đa phần đã lớn tuổi, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý hạn chế, dẫn
đến hiệu quả của công tác quản lý và điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
không cao, còn lúng túng trong việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tìm
kiếm thị trường tiêu thụ nông sản.
- Một số HTX mới thành lập có số
lượng thành viên và vốn thực góp của các thành viên còn thấp. Nhiều HTX còn tâm
lý trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước, chưa mạnh dạn đầu tư vốn để mở rộng sản xuất
kinh doanh.
IV. ĐỀ XUẤT,
KIẾN NGHỊ
Triển khai Quyết định số
167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án lựa chọn,
hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả
nước giai đoạn 2021-2025; theo đó, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số
523/KH-UBND ngày 11/5/2021 về thực hiện Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày
03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện,
nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn
2021-2025; đồng thời xét chọn, việc phê duyệt danh sách 05 HTX tham gia đề án lựa
chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả giai đoạn 2021-2025
trên địa bàn tỉnh Gia Lai tại Quyết định số 943/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 (gồm 05
HTX: HTX sản xuất, thương mại, dịch vụ, du lịch, nông nghiệp Ia Mơ Nông - huyện
Chư Păh; HTX Nông nghiệp Chư A Thai - huyện Phú Thiện; HTX dịch vụ vận tải Đak
Pơ - huyện Đak Pơ; HTX CNN và DV Hợp Tiến - huyện Chư Prông; HTX Nông nghiệp Tú
An 1 - thị xã An Khê).
Để hoàn thành tiến độ triển
khai Đề án, Ủy ban nhân dân tỉnh kính đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan tâm,
hướng dẫn việc triển khai thực hiện giai đoạn 2 Đề án lựa chọn, hoàn thiện,
nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn
2021-2025 theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ;
đồng thời quan tâm bố trí kinh phí hỗ trợ triển khai Đề án năm 2023 nguồn vốn
Ngân sách Trung ương, làm cơ sở hoàn thành kế hoạch triển khai đề án (nhu cầu
kinh phí hỗ trợ từ Ngân sách Trung ương đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai đề
xuất tại Văn bản số 132/BC-UBND ngày 20/9/2022).
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX NĂM 2023
I. MỘT SỐ
YÊU CẦU ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX NĂM 2023
1. Kế hoạch phát triển KTTT năm
2023 được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết số 174/NQ-HĐND của Hội đồng dân dân tỉnh
về phát triển KTTT, HTX tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch số
1765/KH-UBND ngày 25/8/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai về kế hoạch phát
triển KTTT giai đoạn 2021-2025; Kế hoạch số 1167/KH-UBND ngày 20/8/2021 của Ủy
ban nhân dân tỉnh Gia Lai về Kế hoạch thực hiện Quyết định số 1318/QĐ-TTg ngày
22/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Kế hoạch phát triển kinh tế tập
thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2025” trên địa bàn tỉnh và các chương trình, kế
hoạch triển khai của tỉnh, Chính phủ, bộ, ngành có liên quan.
2. Phát triển KTTT, HTX xuất
phát từ nhu cầu chung thực tế của các thành viên trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã
hội, trên các địa bàn trong tỉnh; phải theo đúng giá trị và các nguyên tắc cơ bản
của HTX.
3. Các chỉ tiêu kế hoạch phải
được khả thi, phù hợp với kết quả, tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch
dài hạn của địa phương. Ngoài các chỉ tiêu số lượng, cần chú trọng các chỉ tiêu
phản ánh chất lượng, hiệu quả.
II. NỘI
DUNG KẾ HOẠCH PHÁT KTTT, HTX NĂM 2023
1. Dự báo
những thuận lợi, khó khăn
- Thuận lợi
+ Việt Nam tham gia ngày càng
sâu rộng vào tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với cam kết mở
rộng thị trường về thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư theo các Hiệp định mậu
dịch tự do song phương, khu vực. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo những
Hiệp định mậu dịch tự do, Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang mở ra cho
nước ta nhiều cơ hội, như: Các HTX có nhiều cơ hội được học hỏi, nâng cao kinh
nghiệm, năng lực; tiếp nhận công nghệ sản xuất và quản lý mới. Thu hút đầu tư,
liên kết, hợp tác. Mở rộng thị trường tiêu thụ. Hội nhập cũng tạo điều kiện thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực cạnh canh của nền kinh tế…
+ Nhận thức về KTTT và trách
nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp được nâng lên. Nhiều nơi đã chú trọng và
có biện pháp đẩy mạnh phát triển KTTT, HTX, tạo điều kiện cho KTTT mà nòng cốt
là HTX phát triển; nền kinh tế của tỉnh có tốc độ tăng trưởng khá qua nhiều
năm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng khả năng cạnh tranh và
phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, tỷ trọng công nghiệp- xây dựng và dịch
vụ tiếp tục tăng.
+ Cơ cấu sản xuất nông nghiệp
đã có bước chuyển biến tích cực theo hướng hiệu quả kinh tế, chú trọng cả trồng
trọt và chăn nuôi; cơ cấu trong nội bộ từng ngành từng bước chuyển dịch gắn với
thị trường trong nước và xuất khẩu là lợi thế cho việc phát triển KTTT.
+ Công tác tuyên truyền chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế hợp tác được tổ chức thường
xuyên, nội dung và hình thức tuyên truyền được đổi mới.
- Khó khăn:
+ Tỉnh Gia Lai cơ bản vẫn là một
tỉnh nghèo, kinh tế hàng hóa phát triển chậm, hạn chế khả năng phát triển HTX;
xuất phát điểm của các HTX thấp, lực lượng sản xuất chưa phát triển, tích lũy nội
bộ ít nên hạn chế trong đầu tư thiết bị, đổi mới công nghệ, khả năng hợp tác, cạnh
tranh còn yếu.
+ KTTT trên địa bàn tỉnh chậm có
sự thay đổi về chất, quy mô HTX còn nhỏ, phạm vi hoạt động chưa được mở rộng.
Năng lực, trình độ cán bộ quản lý của các HTX còn nhiều hạn chế, không đáp ứng
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhu cầu chung của thành viên trong điều kiện hiện
nay.
+ Cạnh tranh hàng hoá diễn ra
ngày càng gay gắt, sản phẩm hàng hóa đòi hỏi phải thẩm mỹ hơn, chất lượng hơn
và an toàn hơn, đảm bảo các tiêu chuẩn trong nước và các tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó quá trình đô thị hóa, tự động hóa và trí tuệ nhân tạo ngày một phát
triển, khí hậu, dịch bệnh ngày càng diễn biến phức tạp là thách thức lớn đối với
người lao động, sản xuất, đặc biệt là lao động thủ công và sản xuất nông nghiệp.
Trước tình hình đó, đòi hỏi các tổ chức kinh tế, người dân phải năng động, sáng
tạo, chủ động nắm bắt và chia sẻ thông tin, tiếp cận khoa học công nghệ vào sản
xuất, kinh doanh.
2. Định
hướng chung về phát triển KTTT, HTX
Khuyến khích phát triển KTTT
trong các ngành nghề, lĩnh vực có tiềm năng và thế mạnh của tỉnh; ưu tiên xây dựng
các mô hình HTX gắn với chuỗi giá trị, liên kết các HTX và các thành phần kinh
tế khác, chương trình OCOP, ứng dụng công nghệ cao, xây dựng nông thôn mới,...
Hỗ trợ phát triển các mô hình HTX hoạt động có hiệu quả, nhiều thành viên, trở
thành kiểu mẫu để nhân rộng.
3. Mục
tiêu tổng quát
Đẩy mạnh củng cố, nâng cao năng
lực tổ chức và hoạt động của khu vực KTTT, HTX trên địa bàn tỉnh; phát triển
KTTT năng động, hiệu quả, bền vững thực sự là thành phần quan trọng trong nền
kinh tế với nhiều mô hình liên kết, hợp tác trên cơ sở tôn trọng bản chất, các
giá trị và nguyên tắc của KTTT, thu hút nông dân, hộ kinh tế cá thể, cá nhân và
nhiều tổ chức tham gia KTTT, HTX; góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc
sống của các thành viên, hộ gia đình, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
4. Một số
chỉ tiêu cụ thể năm 2023
- Tiếp tục củng cố, đẩy mạnh hoạt
động hiệu quả của các HTX hiện có. Đến cuối năm 2023, toàn tỉnh có khoảng 390
HTX với 18.257 thành viên, 529 THT (trong đó có khoảng 423 THT có đăng ký hoạt
động với chính quyền địa phương), 03 LH HTX với 13 HTX thành viên.
- Tỷ lệ cán bộ quản lý HTX tốt
nghiệp cao đẳng, đại học đạt ít nhất 34% trên tổng số cán bộ quản lý HTX; khoảng
48% giám đốc HTX được đào tạo sơ cấp nghề.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
cao trong lĩnh vực nông nghiệp, phấn đấu đến cuối năm 2023 cả tỉnh có trên 8,8
% HTX ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản.
- Tăng cường liên kết theo chuỗi
giá trị giữa doanh nghiệp và HTX, phấn đấu có khoảng 31% HTX nông nghiệp liên kết
với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị.
- Giải thể dứt điểm các HTX
ngưng hoạt động trong thời gian dài nhưng chưa giải thể thuộc diện vướng mắc có
thể xử lý được.
5. Các giải
pháp phát triển KTTT, HTX năm 2023
5.1. Tiếp tục tập trung
tuyên truyền, tập huấn pháp luật về KTTT, HTX
- Các cấp, các ngành tiếp tục
tuyên truyền Luật Hợp tác xã năm 2012; Nghị định số 193/2013/NĐ-CP ngày 21
tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác
xã năm 2012; Kết luận số 56-KL/TW ngày 21 tháng 02 năm 2013 của Ban Chấp hành
Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Kết luận số 70-KL/TW ngày 09 tháng 3
năm 2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX
về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Nghị quyết số
20-NQ/TW, ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIII
và Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2023 của Chính phủ về tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT trong giai đoạn mới; Chỉ thị số
19/CT-TTg ngày 24 tháng 7 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ; Chương trình số
46-CTr/TU ngày 09 tháng 12 năm 2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
khác của Trung ương và của tỉnh về phát triển KTTT, HTX, nhằm tạo sự thống nhất
trong nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền các cấp và người dân đối với
phát triển KTTT.
- Các sở, ban ngành, cơ quan
đoàn thể, ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố và các cơ quan truyền
thông trên địa bàn tỉnh tiếp tục tích cực tuyên truyền có hiệu quả về KTTT, đẩy
mạnh công tác phổ biến pháp luật về HTX, giới thiệu, biểu dương những mô hình
điển hình, tiên tiến trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng về kiến thức quản lý, kỹ năng tiếp cận và nghiên cứu phát triển thị trường
cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ; đề xuất chính sách hỗ trợ đào tạo cán bộ cho
HTX.
5.2. Huy động và ưu tiên các
nguồn lực để thực hiện chính các chính sách hỗ trợ
- Tiếp tục cân đối, bố trí các
nguồn vốn để thực hiện triển khai các nội dung Chương trình hỗ trợ phát triển
KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 1804/QĐ-TTg ngày 13 tháng 11
năm 2021 và Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Thủ tướng
Chính phủ. Hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra và đôn đốc các sở, ban, ngành, địa
phương trong việc triển khai thực hiện.
- Tạo điều kiện cho các HTX tiếp
cận được nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, quỹ hỗ trợ phát triển HTX; lồng
ghép các nguồn lực để hỗ trợ HTX, THT.
- Có kế hoạch hợp tác với các
trung tâm ứng dụng khoa học công nghệ, viện nghiên cứu để làm cầu nối tư vấn, hỗ
trợ các tổ chức KTTT ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng
chuyển đổi số vào hoạt động, sản xuất kinh doanh. Tăng cường hoạt động khuyến
nông, khuyến công ở khu vực nông thôn với sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, cùng với
sự huy động vốn các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân.
- Tìm kiếm, mời gọi sự tham gia
của các doanh nghiệp đủ tầm, đủ năng lực và tâm huyết. Tăng cường kết nối giữa
doanh nghiệp thu mua, phân phối, tiêu thụ sản phẩm đầu ra của người dân thông
qua hợp đồng hợp tác giữa doanh nghiệp với HTX, nhằm xây dựng chuỗi giá trị
nông sản bền vững.
- Tăng cường nghiên cứu dự báo
nhu cầu thị trường, tư vấn cho các tổ chức KTTT, nông dân để có thể sản xuất
theo đúng nhu cầu thị trường. Hỗ trợ xúc tiến thương mại và tiêu thụ sản phẩm,
thiết kế logo, bao bì và các ấn phẩm quảng bá khác giúp các HTX nông nghiệp có
được nhãn hiệu hàng hoá uy tín, có vị thế vững chắc trên thị trường.
- Có kế hoạch hỗ trợ các HTX
nông nghiệp trên địa bàn tham gia các sàn thương mại điện tử để giới thiệu, quảng
bá sản phẩm, tìm kiếm cơ hội tiêu thụ sản phẩm và mở rộng thị trường, cũng như
tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng về ứng dụng thương mại điện tử.
- Hướng dẫn các HTX ứng dụng
công nghệ thông tin vào kinh doanh, giảm chi phí marketing truyền thống, cung cấp
đầy đủ thông tin cho khách hàng một cách nhanh chóng và từ đó tăng cường cơ hội
liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
5.3. Tiếp tục rà soát, bổ
sung, hoàn thiện khung pháp luật và chính sách hỗ trợ phát triển KTTT, HTX
- Rà soát, hoàn thiện văn bản quy
phạm pháp luật, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện để HTX phát
triển bền vững, phù hợp với xu thế phát triển HTX quốc tế và tình hình thực tế
trong mỗi giai đoạn phát triển.
- Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
các chính sách hỗ trợ, ưu đãi để thúc đẩy phát triển HTX phù hợp nhu cầu, trình
độ phát triển của tổ chức KTTT, đặc biệt chú trọng chính sách hỗ trợ HTX đối với
những vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi; việc hỗ trợ cần tập trung,
tránh dàn trải, phân tán. Tập trung chỉ đạo, triển khai có hiệu quả các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ HTX tại địa phương.
- Khẩn trương tổ chức, đưa hoạt
động của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX theo đúng quy định, để tạo điều kiện hỗ trợ
HTX vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Ứng dụng công nghệ vào xây dựng,
quản lý và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về HTX trên toàn tỉnh; tổ
chức, tham gia diễn đàn kinh tế hợp tác, HTX hàng năm.
5.4. Tăng cường và nâng cao
hiệu quả công tác quản lý nhà nước
- Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước
về KTTT theo hướng dẫn của Trung ương, triển khai đầy đủ nội dung quản lý Nhà
nước về HTX theo Nghị định 193/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính
phủ; Nghị quyết số 134/NQ-CP ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 70- KL/TW ngày 09
tháng 3 năm 2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Quyết định số
744/QĐ-UBND ngày 25 tháng 12 năm 2020 về ban hành Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết số 134/NQ-CP của Chính phủ,....
- Củng cố và tăng cường vai
trò, trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực KTTT trên cơ sở đổi mới phương thức hoạt động và nâng cao số lượng
và chất lượng đội ngũ cán bộ cả về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, am
hiểu sát cơ sở và nhiệt tình với phong trào KTTT, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo đổi mới, phát triển KTTT, HTX tỉnh và Ban Chỉ
đạo đổi mới, phát triển KTTT, HTX cấp huyện.
- Tiếp tục triển khai thực hiện
cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cấp, đổi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh HTX và giải quyết các thủ tục hồ sơ liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của HTX.
- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ công chức đảm nhiệm công tác quản lý Nhà nước về KTTT, HTX để nâng cao
chất lượng xây dựng và thực thi chính sách, đáp ứng được nhu cầu phát triển của
HTX. Tăng cường hoạt động kiểm tra, thanh tra tình hình thực hiện chính sách
pháp luật về KTTT, HTX để chấn chỉnh, phòng ngừa sai phạm và làm cơ sở kiến nghị
cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện thể chế, chính sách.
5.5. Đổi mới, nâng cao hiệu
quả hoạt động KTTT, HTX
- Tổ chức, củng cố lại hoạt động
của các HTX theo đúng Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản hướng dẫn. Phát
huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của thành viên trong HTX; vận động
thành viên HTX góp vốn và nâng mức vốn góp; thu hút thêm thành viên mới, tháo gỡ
rào cản, quy định nhằm huy động nguồn lực, nâng cao tiềm lực tài chính và quy
mô hoạt động của HTX.
- Tiếp tục hướng dẫn xử lý đối
với các trường hợp HTX không đăng ký và tổ chức lại hoạt động theo Luật Hợp tác
xã năm 2012, kiên quyết giải thể các HTX không hoạt động, tồn tại hình thức và
các HTX hoạt động không đúng bản chất; xử lý nợ tồn đọng khác để lành mạnh hóa
khu vực KTTT, HTX.
- Tiếp tục thực hiện tốt chính
sách đào tạo và thu hút cán bộ trẻ có trình độ về công tác tại các HTX, đặc biệt
đối với vùng sâu, vùng xa, vùng địa bàn khó khăn.
- Tăng cường năng lực quản trị
HTX theo hướng công khai, minh bạch; củng cố bộ máy kế toán. Tạo điều kiện cho
HTX tham gia thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên
địa bàn. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại để nâng cao năng lực
quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Tiếp tục xây dựng mô hình HTX
và tổng kết mô hình HTX hoạt động hiệu quả, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm
theo chuỗi giá trị; sản xuất thông minh, ứng dụng thương mại điện tử trong xúc
tiến thương mại sản phẩm của HTX. Khuyến khích các HTX phát triển sản phẩm tham
gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP).
- Tăng cường áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật mới trong sản xuất, thực hiện sản xuất theo quy trình VietGAP tiết kiệm
và sử dụng nguồn lực đầu vào (đất đai, lao động, vốn,...) hợp lý, hiệu quả nhằm
giảm chi phí, tăng năng suất, chất lượng , an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường;
thực hiện chuyển giao các tiến bộ khoa học, công nghệ mới, tiên tiến, nhất là
công nghệ về giống, công nghệ về sơ chế, bảo quản - chế biến nông sản, tạo bước
đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm.
5.6. Phát huy vai trò của
Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội
trong phát triển KTTT, HTX.
- Tăng cường trách nhiệm của
Liên minh Hợp tác xã tỉnh với vai trò nòng cốt trong phát triển KTTT, HTX; là tổ
chức đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên; thống nhất về
tổ chức và hoạt động, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực, hiệu
quả hoạt động. Hình thành mạng lưới tổ chức tư vấn, hỗ trợ các HTX thành lập mới,
xây dựng và quản trị sản xuất, kinh doanh
- Đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam tỉnh, Hội Nông dân tỉnh, Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, Tỉnh đoàn, Hội Cựu
chiến binh tỉnh và các tổ chức hội, hiệp hội khác tăng cường vai trò trong việc
vận động quần chúng, thành viên tự nguyện tham gia phát triển KTTT, HTX và thực
hiện các quy định pháp luật về KTTT; xây dựng chương trình, kế hoạch hành động,
phối hợp với các tổ chức thành viên trong việc phát triển.
5.7. Huy động các lực lượng
xã hội, các tổ chức đoàn thể tham gia thúc đẩy phát triển KTTT
- Tiếp tục hỗ trợ các tổ chức
KTTT tham gia giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ trong và ngoài nước; tham gia
các phiên chợ hàng Việt, chương trình kết nối cung cầu giữa các nhà sản xuất,
các cơ sở sản xuất hàng nông sản trên địa bàn với các doanh nghiệp, trung tâm
thương mại, siêu thị nhằm giới thiệu, hỗ trợ, giúp các cơ sở sản xuất tiêu thụ
sản phẩm.
- Tranh thủ và phối hợp với các
bộ, ngành để huy động các nguồn lực đầu tư, không ngừng nâng cao năng lực cho
khu vực KTTT, HTX; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin trên các trang
thông tin điện tử của các đơn vị; hỗ trợ các HTX tiếp cận thị trường trong nước,
ngoài nước, tìm đối tác, thúc đẩy đầu tư, liên doanh liên kết, chuyển giao công
nghệ, tăng cường công tác xúc tiến thương mại…
- Đẩy mạnh các hình thức hợp
tác quốc tế trong phát triển KTTT, HTX, nhất là trong việc tiếp thu kinh nghiệm
tốt của các nước, các tỉnh trong nước có phong trào HTX mạnh. Tiếp thu các hỗ
trợ kỹ thuật phát triển trong việc thành lập và nâng cao năng lực HTX. Thành lập
và nâng cao năng lực cơ cấu trợ giúp tổ chức HTX.
Trên đây là kế hoạch phát triển
KTTT, HTX năm 2023 trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Đề nghị các sở, ban, ngành, UBND
các huyện, thị xã, thành phố và các tổ chức, đoàn thể liên quan triển khai thực
hiện./.
Nơi nhận:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (b/c);
- Bộ Tài chính (b/c);
- TT. Tỉnh uỷ; TT. HĐND tỉnh (b/c);
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- UB MTTQ Việt Nam tỉnh;
- Các sở, ban, ngành;
- Các Hội, đoàn thể;
- UBND các huyện, thị xã, thành phố;
- CVP, các PCVP UBND tỉnh;
- Lưu: VT, NL, KTTH.
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Hữu Quế
|
PHỤ LỤC
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KTTT, HTX NĂM 2022 VÀ KẾ HOẠCH NĂM
2023
(Kèm theo Kế hoạch số 977/KH-UBND ngày 27/4/2023 của UBND tỉnh Gia Lai)
STT
|
Chỉ tiêu
|
Đơn vị tính
|
Thực hiện năm 2021
|
Năm 2022
|
Kế hoạch năm 2023
|
Kế hoạch
|
Thực hiện cả
|
I
|
Hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số hợp tác xã
|
HTX
|
353
|
372
|
388
|
390
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số hợp tác xã đang hoạt động
|
HTX
|
330
|
349
|
349
|
389
|
|
Số hợp tác xã thành lập mới
|
HTX
|
29
|
31
|
48
|
48
|
|
Số hợp tác xã giải thể
|
HTX
|
7
|
12
|
13
|
46
|
|
Số hợp tác xã đạt loại tốt,
khá (*)
|
HTX
|
59
|
69
|
60
|
80
|
|
Số HTX ứng dụng công nghệ cao
|
HTX
|
12
|
12
|
32
|
35
|
|
Số HTX nông nghiệp liên kết với
DN theo chuỗi giá trị
|
HTX
|
81
|
81
|
81
|
122
|
2
|
Tổng số thành viên hợp tác xã
|
Người
|
17.815
|
18.195
|
18.163
|
18.257
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số thành viên mới
|
Thành viên
|
290
|
310
|
348
|
40
|
|
Số thành viên ra khỏi hợp tác
xã
|
Thành viên
|
28
|
84
|
84
|
280
|
3
|
Tổng số lao động thường xuyên
trong HTX
|
Người
|
6.475
|
6.755
|
6.755
|
6.790
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số lao động thường xuyên mới
|
Người
|
603
|
610
|
610
|
508
|
|
Số lao động thường xuyên là
thành viên HTX
|
Người
|
3.595
|
4.082
|
4.082
|
4.135
|
4
|
Tổng số cán bộ quản lý hợp
tác xã
|
Người
|
926
|
956
|
1.192
|
1.198
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số cán bộ quản lý HTX đã qua
đào tạo đạt trình độ sơ, trung cấp
|
Người
|
500
|
510
|
504
|
514
|
|
Số cán bộ quản lý HTX đã qua đào
tạo đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên
|
Người
|
290
|
330
|
303
|
313
|
5
|
Doanh thu bình quân một hợp
tác xã
|
Tr đồng/năm
|
2.550
|
2.805
|
2.805
|
2.945
|
|
Trong đó: Doanh thu của hợp
tác xã với thành viên
|
Tr đồng/năm
|
1.694
|
1.863
|
1.863
|
1.956
|
6
|
Lãi bình quân một hợp tác xã
|
Tr đồng/năm
|
92
|
101
|
101
|
104
|
7
|
Thu nhập bình quân của lao động
thường xuyên trong hợp tác xã
|
Tr đồng/năm
|
36
|
38
|
38
|
39
|
II
|
Liên hiệp hợp tác xã
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số liên hiệp hợp tác xã
|
LH HTX
|
2
|
3
|
2
|
3
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số liên hiệp hợp tác xã đang
hoạt động
|
LH HTX
|
1
|
2
|
2
|
2
|
|
Số liên hiệp HTX thành lập mới
|
LH HTX
|
1
|
1
|
-
|
1
|
|
Số liên hiệp HTX giải thể
|
LH HTX
|
-
|
-
|
-
|
-
|
2
|
Tổng số hợp tác xã thành viên
|
HTX
|
9
|
13
|
9
|
13
|
3
|
Tổng số lao động trong liên
hiệp HTX
|
Người
|
20
|
40
|
20
|
40
|
4
|
Doanh thu bình quân của một
liên hiệp HTX
|
Tr đồng/năm
|
381
|
400
|
400
|
430
|
5
|
Lãi bình quân của một liên hiệp
HTX
|
Tr đồng/năm
|
12
|
15
|
15
|
17
|
III
|
THT
|
|
|
|
|
|
1
|
Tổng số THT
|
THT
|
490
|
421
|
504
|
529
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số THT có đăng ký hoạt động với
chính quyền xã/phường/thị trấn
|
THT
|
392
|
337
|
403
|
423
|
2
|
Tổng số thành viên THT
|
Thành viên
|
4.410
|
3.789
|
4.435
|
4.657
|
|
Trong đó:
|
|
|
|
|
|
|
Số thành viên mới thu hút
|
Thành viên
|
20
|
(621)
|
646
|
222
|
3
|
Doanh thu bình quân một THT
|
Tr đồng/năm
|
20,04
|
33,04
|
33,04
|
34,692
|
4
|
Lãi bình quân một THT
|
Tr đồng/năm
|
5,08
|
6,61
|
6,61
|
6,9405
|
[1]
Trong đó có 300 HTX nông nghiệp, 16 HTX công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 08
HTX xây dựng, 36 HTX vận tải, 11 HTX thương mại, 06 Quỹ tín dụng.
[2]
Công văn số 1939/SKHĐT-DN ngày 21/6/2022 của Sở Kế hoạch và Đầu tư về tiếp tục
triển khai công tác giải thể HTX không hoạt động.
[3]
Hỗ trợ thủ tục pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu cho HTX Nông nghiệp và Phát triển
CNC Đức Cơ, HTX Nông nghiệp và Dịch vụ An Nhiên, …
[4]
HTX dịch vụ vận tải Đăk Pơ- huyện Đăk Pơ với 9.000 triệu đồng và HTX Nông nghiệp
và dịch vụ An Nhiên huyện Kông Chro vay 640 triệu đồng.