TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
02/2018/TT-TANDTC
|
Hà Nội, ngày 21
tháng 09 năm 2018
|
THÔNG TƯ
QUY
ĐỊNH CHI TIẾT VIỆC XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CÓ NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG LÀ NGƯỜI DƯỚI
18 TUỔI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Căn cứ Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân ngày 24 tháng 11 năm 2014;
Căn cứ Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 22 tháng 6 năm 2015;
Căn cứ vào khoản 7 Điều 423 của Bộ
luật Tố tụng hình sự ngày 27 tháng 11 năm 2015;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản
lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao;
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông
tư quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người
dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
1. Thông tư này quy định về việc xét xử vụ án hình
sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi hoặc vụ án hình sự có người bị hại là người
dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện
sống, học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18
tuổi khác (sau đây gọi chung là người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi)
thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên.
2. Đối với các Tòa án chưa tổ chức Tòa gia đình và
người chưa thành niên thì việc xét xử các vụ án quy định tại khoản 1 Điều này
do Thẩm phán chuyên trách thực hiện.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
1. Người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn
thương nghiêm trọng về tâm lý là người luôn ở trong trạng thái hoảng loạn,
sợ hãi, suy nhược về tinh thần và thể chất, rối loạn tâm thần và hành vi do tác
động bởi hành vi phạm tội gây ra.
2. Người cần có sự hỗ trợ về điều kiện sống, học
tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác
là người có hoàn cảnh không bình thường (như: mồ côi, cha mẹ ly hôn, hay bị bạo
hành, có cha mẹ nghiện rượu, ma túy, vi phạm pháp luật...) dẫn đến bị thiếu thốn
về vật chất, tinh thần, không có nơi ở, bỏ học hoặc không được đi học như những
người dưới 18 tuổi khác.
3. Người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người
dưới 18 tuổi là người có thâm niên công tác trong lĩnh vực tư pháp, quản
lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục người dưới 18 tuổi; người được đào tạo
về giáo dục thanh, thiếu niên, nhi đồng hoặc những người khác có kinh nghiệm,
hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi.
Ví dụ: Thẩm phán chuyên trách xét xử các vụ án có
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi đã nghỉ hưu; giáo viên đã nghỉ
hưu; cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em; cán bộ làm công tác xã hội, cộng tác
viên trẻ em; người đã tham gia công tác tại cơ quan, tổ chức liên quan đến hoạt
động đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục người dưới 18 tuổi; người làm
công tác bảo vệ trẻ em; đại diện Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội bảo vệ quyền
trẻ em, Hội Cựu chiến binh có kinh nghiệm trong quản lý, giáo dục, giúp đỡ người
phạm tội và người vi phạm pháp luật là người dưới 18 tuổi.
4. Phòng xét xử thân thiện là Phòng xử án và
giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành
niên quy định tại Điều 6 của Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC
ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về phòng
xử án.
Điều 3. Thẩm quyền xét xử các vụ
án hình sự của Tòa gia đình và người chưa thành niên
Tòa gia đình và người chưa thành niên có thẩm quyền
xét xử các vụ án hình sự sau đây:
1. Vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18 tuổi.
2. Vụ án hình sự có người bị hại là người dưới 18
tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống,
học tập do không có môi trường gia đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi
khác.
Điều 4. Những vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên xét xử tại Phòng xử án
hình sự
1. Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Vụ án hình sự có bị cáo là người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phạm một trong các tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 151, 168, 169,
170, 171, 248, 249, 250, 251, 252 và 299 của Bộ luật Hình sự.
3. Vụ án hình sự vừa có bị cáo là người dưới 18 tuổi
vừa có bị cáo là người từ đủ 18 tuổi trở lên.
4. Vụ án hình sự mà bị cáo là người từ đủ 18 tuổi
trở lên nhưng người bị hại là người dưới 18 tuổi bị tổn thương nghiêm trọng về
tâm lý hoặc cần sự hỗ trợ về điều kiện sống, học tập do không có môi trường gia
đình lành mạnh như những người dưới 18 tuổi khác.
Điều 5. Những vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên xét xử tại Phòng xét xử
thân thiện
1. Những vụ án hình sự có bị cáo là người dưới 18
tuổi thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên nếu không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 4 của Thông tư này thì xét xử tại
Phòng xét xử thân thiện.
2. Đối với các Tòa án chưa có Phòng xét xử thân thiện
thì khi xét xử các vụ án quy định tại khoản 1 Điều này, phòng xử án phải được bố
trí thân thiện, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi.
Điều 6. Phân công Thẩm phán, Hội
thẩm
Khi giải quyết vụ án hình sự có người tham gia tố tụng
là người dưới 18 tuổi, Chánh án Tòa án phân công Thẩm phán, Hội thẩm phải bảo đảm
các điều kiện sau đây:
1. Thẩm phán là người có kinh nghiệm xét xử các vụ
án liên quan đến người dưới 18 tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về
kỹ năng giải quyết các vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người dưới 18
tuổi hoặc đã được đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục
đối với người dưới 18 tuổi.
2. Có 01 Hội thẩm là giáo viên, cán bộ Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới
18 tuổi.
Điều 7. Xét xử vụ án hình sự có
bị cáo, người bị hại là người dưới 18 tuổi
1. Khi xét xử vụ án hình sự quy định tại Điều 5 của Thông tư này, Tòa án phải thực hiện các quy định sau
đây:
a) Phòng xử án phải được bố trí thân thiện, bảo đảm
lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi theo đúng quy định tại Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC ngày 28 tháng 7 năm 2017 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định về phòng xử án;
b) Thẩm phán mặc trang phục làm việc hành chính của
Tòa án nhân dân (không mặc áo choàng);
c) Việc tổ chức phiên tòa và bảo vệ phiên tòa thực
hiện theo quy định tại Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC
ngày 28 tháng 7 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế
tổ chức phiên tòa;
d) Đối với những vụ án có người bị hại là người dưới
18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì Tòa án phải xét xử
kín; đối với những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi, người đại diện
của họ hoặc để giữ bí mật đời tư, bảo vệ người dưới 18 tuổi thì Tòa án cũng có
thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai theo quy định tại Điều
327 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
đ) Không xét xử lưu động đối với vụ án hình sự có
người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi.
2. Khi xét xử vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại
là người dưới 18 tuổi quy định tại Điều 4 của Thông tư này,
Tòa án phải thực hiện theo quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này.
Điều 8. Việc tham gia phiên tòa
của người đại diện, nhà trường, cơ quan, tổ chức
1. Những người sau đây phải có mặt tại phiên tòa
theo quyết định của Tòa án:
a) Người đại diện của người dưới 18 tuổi;
b) Đại diện nhà trường nơi người dưới 18 tuổi học tập;
c) Đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người dưới 18
tuổi lao động, sinh hoạt.
2. Trường hợp những người được quy định tại khoản 1
Điều này vắng mặt lần thứ nhất hoặc vắng mặt lần thứ hai vì lý do bất khả
kháng, do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.
Trường hợp những người quy định tại khoản 1 Điều
này vắng mặt lần thứ hai không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại
khách quan nhưng để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi thì Tòa án
cũng có thể hoãn phiên tòa.
Điều 9. Việc tham gia của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại là người dưới 18 tuổi
1. Người bị hại là người dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ,
người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ có quyền nhờ những người sau đây
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi:
a) Luật sư;
b) Trợ giúp viên pháp lý;
c) Bào chữa viên nhân dân;
d) Người khác.
2. Tòa án phải thông báo cho người bị hại là người
dưới 18 tuổi hoặc cha mẹ, người đại diện hợp pháp, người giám hộ của họ về quyền
nhờ những người quy định tại khoản 1 Điều này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị hại là người dưới 18 tuổi. Trường hợp họ không lựa chọn được người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại nhưng có văn bản đề nghị thì
Tòa án yêu cầu Đoàn luật sư phân công tổ chức hành nghề luật sư cử luật sư hoặc
Trung tâm trợ giúp pháp lý cử Trợ giúp viên pháp lý, luật sư hoặc Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử bào chữa viên nhân dân bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là người dưới 18 tuổi.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị hại là người dưới 18 tuổi có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can,
có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có
quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người định giá tài sản
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 10. Việc tiếp xúc giữa
người bị hại là người dưới 18 tuổi với bị cáo
1. Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải
cách ly người bị hại là người dưới 18 tuổi với bị cáo trong những trường hợp
sau đây:
a) Những vụ án có người bị hại là người dưới 18 tuổi
bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán;
b) Những vụ án có người bị hại là người dưới 10 tuổi;
c) Những vụ án khác có yêu cầu của người dưới 18 tuổi
hoặc người đại diện của họ và Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly để bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi.
2. Trong quá trình xét xử những vụ án quy định tại
khoản 1 Điều này, người bị hại tham gia phiên tòa ở phòng cách ly. Thông tin về
diễn biến phiên tòa cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ được truyền
qua hệ thống truyền hình trực tuyến có âm thanh hoặc được thực hiện bằng phương
thức khác nhưng phải bảo đảm cho họ theo dõi đầy đủ diễn biến phiên tòa và thực
hiện được quyền, nghĩa vụ của mình.
3. Người đại diện, người giám hộ, chuyên gia hoặc
cán bộ tâm lý - xã hội, người làm công tác bảo vệ trẻ em phải có mặt ở phòng
cách ly để hỗ trợ người bị hại tham gia phiên tòa.
Điều 11. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01
tháng 12 năm 2018.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Ủy ban Pháp luật của Quốc hội;
- Ủy ban Tư pháp của Quốc hội;
- Ban Nội chính Trung ương;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ 02 bản (để đăng Công báo);
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Bộ Tư pháp;
- Bộ Công an;
- Các TAND và TAQS các cấp (để thực hiện);
- Các Thẩm phán và các đơn vị TANDTC (để thực hiện);
- Cổng TTĐT TANDTC (để đăng tải);
- Lưu: VT, Vụ PC&QLKH TANDTC.
|
CHÁNH ÁN
Nguyễn Hòa Bình
|