BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 55-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày
11 tháng 02 năm 2020
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG QUỐC GIA
CỦA VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Sau 15 năm thực hiện Kết luận số 26-KL/TW, ngày 24/10/2003 của Bộ Chính trị khoá
IX về Chiến lược và quy hoạch phát triển ngành điện lực Việt Nam và 10 năm thực
hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2007
của Bộ Chính trị khoá X về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia
của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050, ngành năng lượng nói chung và
ngành điện lực nói riêng đã có bước phát triển nhanh, tương đối đồng bộ trong tất
cả các phân ngành, lĩnh vực; bám sát định hướng và đạt được nhiều mục tiêu cụ
thể đề ra.
Cung cấp năng lượng, đặc biệt là cung cấp điện
cơ bản đáp ứng đủ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng ngày càng
được cải thiện. Công nghiệp khai thác dầu khí và lọc hoá dầu phát triển mạnh; sản
lượng khai thác dầu khí tăng cao, hình thành được một số cơ sở lọc hoá dầu quy
mô lớn. Đã đầu tư xây dựng nhiều dự án mỏ than có công suất lớn; sản lượng khai
thác than thương phẩm tăng; thuỷ điện phát triển nhanh, gần đây điện gió và điện
mặt trời bắt đầu phát triển với tốc độ cao. Đầu
tư xây dựng hạ tầng cung cấp điện có sự phát triển mạnh mẽ, là điều kiện quan
trọng cho việc bảo đảm an ninh cung ứng điện. Đưa điện lưới quốc gia tới hầu hết
mọi miền của đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo. Tiêu thụ năng lượng gia tăng đáng kể, cơ cấu tiêu thụ năng lượng chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá. Việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả
ngày càng được quan tâm. Đã tích cực thực hiện chuyển đổi ngành năng lượng sang
hoạt động theo cơ chế thị trường; huy động được nguồn lực lớn cho đầu tư phát
triển với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, nòng cốt là các doanh nghiệp
nhà nước. Ngành năng lượng trở thành ngành kinh tế năng động, đóng góp rất quan
trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh tại nhiều địa phương và đất nước.
2. Tuy
vậy, ngành năng lượng nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Mục tiêu bảo đảm
an ninh năng lượng quốc gia còn nhiều thách thức; các nguồn cung trong nước
không đủ đáp ứng yêu cầu, phải nhập khẩu năng lượng ngày càng lớn; nhiều dự án
điện bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch; một số chỉ tiêu bảo đảm an ninh năng
lượng đang biến động theo chiều hướng bất lợi. Công tác quản lý, khai thác nguồn
tài nguyên năng lượng còn một số hạn chế. Hiệu quả khai thác, sử dụng năng lượng
còn thấp. Cơ sở hạ tầng ngành năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ. Trình độ
công nghệ trong một số lĩnh vực thuộc ngành năng lượng chậm được nâng cao, việc
nội địa hoá và hỗ trợ thị trường từ các dự án trong ngành năng lượng cho hàng
hoá cơ khí chế tạo sản xuất trong nước còn hạn chế. Chất lượng
nguồn nhân lực, năng suất lao động trong một số lĩnh vực còn thấp. Thị trường
năng lượng cạnh tranh phát triển chưa đồng bộ, thiếu liên thông giữa các phân
ngành, giữa phát điện với truyền tải điện; chính sách giá
năng lượng còn bất cập, chưa hoàn toàn phù hợp với cơ chế thị trường,
chưa tách bạch với chính sách an sinh xã hội. Một số dự án năng
lượng do doanh nghiệp nhà nước đầu tư còn thua lỗ; một số dự án năng lượng
đầu tư ra nước ngoài tiềm ẩn nhiều khả năng mất vốn. Công tác bảo
vệ môi trường trong ngành năng lượng có nơi, có lúc chưa được quan tâm đúng mức,
gây bức xúc xã hội.
3. Những hạn chế, yếu kém nêu trên
do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành
năng lượng và mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia chưa đầy đủ, quan
tâm chưa đúng mức; một số vấn đề về phát triển năng lượng chậm được tổng kết cả về lý luận và thực tiễn; chậm giải quyết những
vướng mắc về phương hướng phát triển các nguồn năng lượng và cụ thể hoá
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
năng lượng. Quy định pháp luật của ngành
năng lượng nói chung và từng phân ngành nói riêng vẫn còn nhiều hạn
chế, thiếu thống nhất, chưa bảo đảm tính tương
thích với pháp luật quốc tế. Một số cơ chế, chính sách chưa phù hợp
với cơ chế thị trường, chưa thúc đẩy việc xây dựng thị trường năng lượng
cạnh tranh. Chính sách về đầu tư phát triển, quản lý tài nguyên
năng lượng còn thiếu, chưa đồng bộ. Chính sách khoa học và công nghệ đối với
ngành năng lượng chậm đổi mới. Một số chiến lược,
quy hoạch năng lượng chậm được hoàn thiện, chưa sát với
tình hình thực tế và nguồn lực thực hiện, chưa thực sự gắn
kết với các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và một số
ngành khác. Bộ máy quản lý nhà nước ngành năng lượng nói chung và
ngành điện nói riêng thiếu ổn định; việc phân công, phối hợp giữa các bộ, ngành
và địa phương trong một số trường hợp chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ. Công tác
nghiên cứu, dự báo còn yếu; công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chính sách,
pháp luật về năng lượng thiếu quyết liệt.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC
TIÊU VÀ TẦM NHÌN
1. Quan điểm chỉ đạo
- Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia
là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Ưu
tiên phát triển năng lượng nhanh và bền vững, đi trước một bước, gắn với bảo vệ
môi trường sinh thái, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Phát triển năng lượng quốc gia phải phù hợp với
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu thế hội nhập quốc tế;
nhanh chóng xây dựng thị trường năng lượng đồng bộ, cạnh tranh, minh bạch, đa dạng
hoá hình thức sở hữu và phương thức kinh doanh; áp dụng giá thị trường đối với
mọi loại hình năng lượng. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các
thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân tham gia phát triển năng lượng;
kiên quyết loại bỏ mọi biểu hiện bao cấp, độc quyền, cạnh tranh không bình đẳng,
thiếu minh bạch trong ngành năng lượng.
- Phát triển đồng bộ, hợp lý và đa dạng hoá các
loại hình năng lượng; ưu tiên khai thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn
năng lượng tái tạo, năng lượng mới, năng lượng sạch; khai thác và sử dụng hợp
lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều
tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ
trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập
khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện. Phân bổ tối ưu hệ thống
năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng
vùng, địa phương.
- Chú trọng nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong phát triển tất cả các phân
ngành, lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng
bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết
bị năng lượng.
- Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ
môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội.
Tăng cường kiểm toán năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ
mạnh và khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị
tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động
và đổi mới mô hình tăng trưởng.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu tổng quát
Bảo đảm vững
chắc an ninh năng lượng quốc gia; cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất
lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển
kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống
của nhân dân, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Ngành năng lượng phát triển
hài hoà giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ
tiên tiến của khu vực ASEAN. Xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh, minh bạch,
hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước kết hợp
với xuất, nhập khẩu năng lượng hợp lý; triệt để thực hành tiết kiệm và sử dụng
hiệu quả năng lượng. Chủ động sản xuất được một số thiết bị chính trong các
phân ngành năng lượng; nâng cấp,
xây dựng lưới điện truyền tải, phân phối điện tiên tiến, hiện đại.
b) Một số mục tiêu cụ thể
- Cung cấp đủ
nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng cho các mục tiêu của Chiến lược phát triển
kinh tế xã hội 10 năm 2021 - 2030; trong đó, năng lượng sơ cấp đến năm 2030 đạt
khoảng 175 - 195 triệu TOE (tấn dầu quy đổi), đến năm 2045, đạt khoảng 320 -
350 triệu TOE; tổng công suất của các nguồn điện đến năm 2030 đạt khoảng 125 -
130 GW, sản lượng điện đạt khoảng 550 - 600 tỉ KWh.
- Tỉ lệ các
nguồn năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt khoảng 15 - 20%
vào năm 2030; 25 - 30% vào năm 2045.
- Tổng tiêu thụ
năng lượng cuối cùng đến năm 2030 đạt mức 105 - 115 triệu TOE, năm 2045 đạt mức
160 - 190 triệu TOE. Cường độ năng lượng sơ cấp năm 2030 đạt từ 420 - 460 kgOE/1.000
USD GDP, năm 2045 từ 375 - 410 kgOE/1.000 USD GDP.
- Xây dựng hệ
thống lưới điện thông minh, hiệu quả, có khả năng kết nối khu vực; bảo đảm cung
cấp điện an toàn, đáp ứng tiêu chí N-1 đối với vùng phụ tải quan trọng và N-2 đối
với vùng phụ tải đặc biệt quan trọng. Đến năm 2030, độ tin cậy cung cấp điện
năng thuộc tốp 4 nước dẫn đầu ASEAN, chỉ số tiếp cận điện năng thuộc tốp 3 nước
dẫn đầu ASEAN.
- Các cơ sở lọc
dầu đáp ứng tối thiểu 70% nhu cầu trong nước; bảo đảm mức dự trữ chiến lược
xăng dầu đạt tối thiểu 90 ngày nhập ròng. Đủ năng lực nhập khẩu khí tự nhiên
hoá lỏng (LNG) khoảng 8 tỉ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỉ m3
vào năm 2045.
- Tỉ lệ tiết
kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng so với kịch bản phát
triển bình thường đạt khoảng 7% vào năm 2030 và khoảng 14% vào năm 2045.
- Giảm phát thải
khí nhà kính từ hoạt động năng lượng so với kịch bản phát triển bình thường ở mức
15% vào năm 2030, lên mức 20% vào năm 2045.
3. Tầm nhìn
đến năm 2045: Bảo đảm vững chắc an
ninh năng lượng quốc gia; hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường năng
lượng cạnh tranh, minh bạch, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; các phân ngành năng lượng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả
tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; hệ thống
hạ tầng năng lượng phát triển đồng bộ, hiện đại, khả năng kết nối khu vực và quốc
tế được nâng cao; chất lượng nguồn nhân lực,
trình độ khoa học - công nghệ và năng lực quản trị ngành năng lượng đạt trình độ
tiên tiến của một nước công nghiệp phát triển hiện đại.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU
1. Phát triển các nguồn cung
năng lượng sơ cấp theo hướng tăng cường khả năng tự chủ, đa dạng hoá, bảo đảm
tính hiệu quả, tin cậy và bền vững
- Về dầu
khí: Đẩy mạnh công tác tìm kiếm,
thăm dò nhằm gia tăng trữ lượng và sản lượng khai thác dầu khí tại các khu vực
tiềm năng, nước sâu, xa bờ gắn với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển;
nâng cao hệ số thu hồi, tận thu các mỏ nhỏ, khối sót cận biên. Rà soát, có chiến
lược chủ động và hiệu quả trong hợp tác về tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu
khí ở nước ngoài. Phát triển công nghiệp khí; ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật
phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ khí tự nhiên hoá lỏng (LNG). Tiếp tục thu hút đầu
tư trong lĩnh vực lọc - hoá dầu theo hướng chế biến sâu, nâng cao chất lượng sản
phẩm xăng dầu, chủ động đáp ứng tối đa nhu cầu trong nước và hướng đến xuất khẩu.
Đối với dầu khí đá phiến, khí hydrate (băng cháy), tích cực nghiên cứu, đánh
giá sâu hơn về địa chất và áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật để mở rộng phạm
vi khảo sát; sớm triển khai đánh giá tổng thể, đẩy nhanh khai thác thử nghiệm
khi điều kiện cho phép.
- Về than: Xây dựng mới chiến lược phát triển ngành than gắn với
nhiệm vụ đầu tư hiệu quả ra nước ngoài và nhập khẩu than dài hạn. Thực hiện dự
trữ than phù hợp, đáp ứng yêu cầu cho các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản
xuất điện. Mở rộng tìm kiếm, thăm dò, nâng cao chất lượng công tác đánh giá các
cấp trữ lượng và tài nguyên. Đẩy mạnh khai thác than trong nước trên cơ sở bảo
đảm an toàn, hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên; khẩn trương nghiên cứu công nghệ
để có thể khai thác bể than đồng bằng Sông Hồng; nâng cao hệ số thu hồi than sạch
trong khai thác hầm lò. Triển khai nhanh việc xây dựng hệ thống cảng, kho dự trữ
và trung chuyển than quy mô lớn; tăng cường cơ giới hoá, hiện đại hoá thiết bị
sàng, tuyển và khai thác than. Rà soát, đánh giá nhu cầu, xây dựng kế hoạch và
tối ưu hoá các giải pháp cung cấp than ổn định cho sản xuất điện phù hợp với cơ
chế thị trường.
- Về năng
lượng tái tạo: Xây dựng các cơ chế,
chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn
năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch. Ưu tiên
sử dụng năng lượng gió và mặt trời cho phát điện; khuyến khích đầu tư xây dựng
các nhà máy điện sử dụng rác thải đô thị, sinh khối và chất thải rắn đi đôi với
công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế tuần hoàn. Hình thành và phát
triển một số trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và các địa phương có lợi
thế. Sớm nghiên cứu, đánh giá tổng thể về tiềm năng và xây dựng định hướng phát
triển năng lượng địa nhiệt, sóng biển, thuỷ triều, hải lưu; triển khai một số
mô hình ứng dụng, tiến hành khai thác thử nghiệm để đánh giá hiệu quả. Thực hiện
nghiên cứu công nghệ, xây dựng một số đề án thử nghiệm sản xuất và khuyến khích
sử dụng năng lượng hydro phù hợp với xu thế chung của thế giới.
- Về các
nguồn năng lượng khác: Kịp thời nắm
bắt các thông tin liên quan để nghiên cứu, phát triển trong điều kiện cho phép
về tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nguồn nhân lực, khả năng tài chính và những yếu
tố cần thiết khác.
2. Phát triển nhanh và bền vững
ngành điện đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Xây dựng và
triển khai Chiến lược phát triển ngành điện lực Việt Nam cho giai đoạn mới.
Phát triển nhanh và bền vững các nguồn phát điện với cơ cấu và phân bố hợp lý,
bảo đảm an toàn, tin cậy, ổn định theo hướng đa dạng hoá, chú trọng nâng cao hệ
số công suất khả dụng và có dự phòng công suất phù hợp; đáp ứng các yêu cầu về
bảo vệ môi trường sinh thái.
Đối với thuỷ
điện: Huy động tối đa các nguồn
thuỷ điện hiện có. Phát triển có chọn lọc, bổ sung một số thuỷ điện nhỏ và vừa,
thuỷ điện tích năng. Có chiến lược hợp tác phát triển thuỷ điện gắn với nhập khẩu
điện năng dài hạn từ nước ngoài.
Đối với điện
gió và điện mặt trời: Ưu tiên phát
triển phù hợp với khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp
lý. Khuyến khích phát triển điện mặt trời áp mái và trên mặt nước. Xây dựng các
chính sách hỗ trợ và cơ chế đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi gắn với
triển khai thực hiện Chiến lược biển Việt Nam.
Đối với nhiệt
điện: Khuyến khích các dự án nhiệt
điện đồng bộ từ khâu cung ứng, lưu trữ nhiên liệu và xây dựng nhà máy trên cơ sở
giá bán điện xác định thông qua đấu thầu. Phát triển nhiệt điện khí theo hướng
ưu tiên sử dụng nguồn khí trong nước. Chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí
sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ
trợ cho điều tiết hệ thống.
Phát triển nhiệt
điện than ở mức hợp lý theo hướng ưu tiên những tổ máy công suất lớn, hiệu suất
cao, sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại như công nghệ siêu tới hạn trở lên;
bảo đảm thực hiện đầy đủ pháp luật về an toàn môi trường sinh thái, phù hợp với
các tiêu chuẩn quốc tế. Rà soát tổng thể và có kế hoạch sớm triển khai nâng cấp
công nghệ của các nhà máy điện than hiện có để đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường;
kiên quyết đóng cửa đối với các nhà máy không thực hiện nâng cấp công nghệ theo
quy định.
Đối với điện
sinh khối, rác thải và chất thải rắn: Khai thác tối đa nguồn điện sinh khối đồng phát; tăng cường
phát triển các nguồn điện từ rác thải đô thị, chất thải rắn và sinh khối.
- Đầu tư hiện
đại hoá ngành điện từ khâu sản xuất, truyền tải đến phân phối đáp ứng yêu cầu
phát triển của thị trường điện, có khả năng tích hợp quy mô lớn nguồn năng lượng
tái tạo; nâng cao khả năng bảo đảm an ninh mạng lưới điện và chất lượng dịch vụ
điện. Tích cực thực hiện các chương trình quản lý nhu cầu điện và điều chỉnh phụ
tải; quản lý chặt chẽ hơn cường độ tiêu thụ điện năng; giảm thiểu tối đa tổn thất
điện năng; hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích và thúc đẩy triển khai
tích trữ điện năng. Hiện đại hoá hệ thống điều
độ điện, từng bước triển khai áp dụng những công nghệ giám sát kỹ thuật tự động,
thông minh; nghiên cứu ứng dụng truyền tải siêu cao áp, truyền tải một chiều trong ngành điện.
- Nghiên cứu,
hoàn thiện các cơ chế tài chính và huy động vốn đặc biệt cho đầu tư phát triển
ngành điện. Rà soát, điều chỉnh các quy định về kiểm soát và điều phối thị trường
điện lực. Có cơ chế cho phép phát triển các nhà máy điện sản xuất tại chỗ, tự
cung cấp trong các khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất...
- Đẩy nhanh lộ trình
thực hiện thị trường điện cạnh tranh, cơ chế hợp đồng mua bán điện trực tiếp giữa
nhà sản xuất và khách hàng tiêu thụ, cơ chế đấu thầu, đấu giá cung cấp năng lượng
phù hợp, đặc biệt trong các dự án đầu tư năng lượng tái tạo, năng lượng mới;
minh bạch giá mua bán điện. Có cơ chế khuyến khích thu hút vốn ngoài nhà nước đầu
tư xây dựng vào hệ thống truyền tải điện quốc gia. Vận hành hệ thống truyền tải
điện quốc gia độc lập dưới sự kiểm soát của Nhà nước.
3. Cơ cấu lại các ngành và khu vực tiêu thụ năng lượng song
song với thực hiện chính sách về sử dụng năng lượng sạch, tiết kiệm và hiệu quả
- Cơ cấu lại các ngành
tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài để giảm thiểu cường
độ năng lượng. Có chính sách khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp tiêu
thụ ít năng lượng và có hiệu quả về kinh tế - xã hội.
- Rà soát, điều chỉnh
phân bố các nguồn tiêu thụ năng lượng linh hoạt theo hướng phân tán, hạn chế việc
tập trung quá mức vào một số địa phương, kết hợp chặt chẽ với phân bố lại không
gian phát triển công nghiệp và đô thị trên phạm vi cả nước, từng vùng và địa
phương.
- Rà soát, hoàn thiện Chương
trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2020 -
2030. Triển khai áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc kèm theo chế tài về
sử dụng hiệu quả năng lượng đối với những lĩnh vực, ngành và sản phẩm có mức
tiêu thụ năng lượng cao. Có chính sách khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng
năng lượng sạch, tái tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông; thúc đẩy
phát triển các phương tiện giao thông sử dụng điện năng phù hợp với xu thế
chung trên thế giới.
4. Phát triển hạ tầng năng lượng bền vững, kết nối khu vực;
nâng cao nội lực ngành công nghiệp chế tạo, dịch vụ phục vụ ngành năng lượng
- Có chính sách ưu
tiên đầu tư phát triển hạ tầng năng lượng bền vững; chú trọng xây dựng cơ sở hạ
tầng xuất, nhập khẩu năng lượng, kết nối khu vực. Xác định danh mục hạ tầng
năng lượng có thể dùng chung và xây dựng cơ chế dùng chung phù hợp với cơ chế
thị trường. Xoá bỏ mọi độc quyền, rào cản bất hợp lý trong sử dụng cơ sở vật chất
và dịch vụ hạ tầng năng lượng; có cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng hệ
thống truyền tải điện, tách bạch với độc quyền nhà nước về truyền tải điện. Thực hiện xã hội hoá tối đa trong đầu tư và khai
thác, sử dụng cơ sở vật chất, dịch vụ ngành năng lượng, bao gồm cả hệ thống
truyền tải điện quốc gia trên cơ sở bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Thúc đẩy
nhanh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; xây dựng và triển khai Chương trình
quốc gia về phát triển hạ tầng năng lượng thông minh; hoàn thiện cơ chế, xây dựng
cơ sở dữ liệu, thực hiện thống kê năng lượng quốc gia phục vụ công tác quản lý,
điều hành hiệu quả ngành năng lượng.
- Xây dựng cơ chế,
chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát triển công nghiệp chế tạo và dịch vụ phục
vụ ngành năng lượng theo hướng tăng cường nội lực, hướng đến xuất khẩu; ưu tiên
phát triển các ngành chế tạo máy, thiết bị điện, dầu khí, dịch vụ dầu khí. Hoàn
thiện khung pháp lý, khuyến khích và đẩy mạnh triển khai mô hình các công ty dịch
vụ năng lượng. Khẩn trương xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách khuyến
khích nâng cao tỉ lệ nội địa hoá trong ngành năng lượng; bảo đảm thực hiện tốt
các yêu cầu, chỉ tiêu cụ thể về tỉ lệ nội địa hoá đối với các nhà máy điện nói
riêng và dự án năng lượng nói chung. Hoàn thiện chính sách đặt hàng sản xuất của
Nhà nước để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thực hiện những công
trình, dự án phức tạp, kỹ thuật cao trong ngành năng lượng đáp ứng các tiêu chuẩn
chất lượng quốc tế.
5. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng; khuyến khích kinh tế tư nhân
tham gia xã hội hoá phát triển năng lượng
- Cơ cấu lại toàn diện
các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực năng lượng theo hướng tập trung vào
các lĩnh vực cốt lõi, có thế mạnh; tách bạch chức năng kinh doanh với chức năng
quản lý nhà nước; áp dụng các mô hình và thông lệ quản trị tiên tiến, nâng cao
hệ số tín nhiệm quốc tế, triệt để thực hiện công khai, minh bạch hoá trong hoạt
động; chú trọng nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hạ tầng năng lượng quốc
gia. Hoàn thiện các quy định về đánh giá các nguồn lực, tài sản phù hợp với
thông lệ quốc tế và thực tiễn; xử lý, tái cơ cấu triệt để các dự án, doanh nghiệp
nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ trong lĩnh vực năng lượng. Nghiên cứu, triển
khai thí điểm cơ chế bán có thời hạn hoặc cho thuê dài hạn đối với các nhà máy
điện, kho nhiên liệu, nhà máy lọc dầu... thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhà nước.
- Rà soát, bổ sung, điều
chỉnh các cơ chế, chính sách đặc thù cho một số dự án năng lượng quan trọng, đặc
biệt đối với các dự án đầu tư nguồn điện cấp bách; bảo đảm đầy đủ vốn cho các
doanh nghiệp năng lượng nhà nước thực hiện các mục tiêu chiến lược và nhiệm vụ
gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Tạo lập môi trường
thuận lợi, minh bạch; công khai quy hoạch, danh mục các dự án đầu tư, xoá bỏ mọi
rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án
năng lượng trong và ngoài nước, chú trọng những dự án phát điện và các hoạt động
bán buôn, bán lẻ điện theo cơ chế thị trường. Tiếp tục khuyến khích, thu hút đầu
tư nước ngoài có quy mô, chất lượng và hiệu quả cho ngành năng lượng. Đẩy nhanh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
thuộc ngành điện; xây dựng cơ chế đầu tư thông thoáng, cải cách thủ tục hành
chính để bảo đảm tiến độ các công trình điện.
6. Đổi mới cơ chế, chính sách, phát triển thị trường năng
lượng đồng bộ, liên thông, hiện đại và hiệu quả, phù hợp với định hướng xã hội
chủ nghĩa
- Phát triển thị trường
năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng
lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Xoá bỏ mọi rào cản để
bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định; không thực hiện bù
chéo giá điện giữa các nhóm khách hàng, giữa các vùng, miền; Nhà nước điều tiết
hợp lý thông qua các công cụ thị trường (thuế, phí, các quỹ…) và chính sách an
sinh xã hội phù hợp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, các công cụ có tính thị trường
để đẩy mạnh sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
- Rà soát, điều chỉnh
và hoàn thiện các chính sách về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, sử dụng mặt
nước, chống đầu cơ, trục lợi, lợi ích nhóm trong lĩnh vực năng lượng. Đổi mới
chính sách tài chính theo hướng khuyến khích, thu hút mạnh các nguồn vốn đầu tư
ngoài nhà nước; khuyến khích các dự án đầu tư năng lượng theo hình thức đối tác
công tư (PPP). Thực hiện chính sách tín dụng linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp năng lượng tiếp cận các nguồn vốn, đặc biệt là các
doanh nghiệp có dự án năng lượng xanh. Hoàn
thiện chính sách thuế khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, tái tạo.
Xây dựng cơ sở pháp lý để có thể hình thành và vận hành hiệu quả các quỹ về
phát triển năng lượng bền vững, thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu
quả theo hướng xã hội hoá, bảo đảm độc lập về tài chính, không trùng lặp
với nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước và hạn chế việc làm tăng chi
phí hoạt động, sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh. Hoàn thiện cơ chế và thực hiện chính sách về tiêu
chuẩn tỉ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu đầu tư và cung cấp năng lượng.
- Sửa đổi,
hoàn thiện các luật chuyên ngành về dầu khí, điện lực, sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả và các luật khác liên quan đến ngành năng lượng để làm cơ sở thực hiện hiệu quả hơn cơ chế thị trường. Nghiên cứu, thực hiện luật hoá việc điều hành giá điện và một
số ưu đãi cho dự án được khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực năng lượng. Hoàn
thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm soát và điều phối điện lực. Nghiên cứu,
xây dựng và ban hành luật về năng lượng tái tạo.
- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch phát
triển năng lượng, đặc biệt trong phân ngành điện, bảo đảm tính ổn định, đồng bộ
và linh hoạt, gắn kết với chiến lược, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương và một số ngành khác. Rà soát, điều chỉnh
và sớm ban hành các quy hoạch liên quan đến phát triển năng lượng theo Luật Quy hoạch.
7.
Phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho
ngành năng lượng
- Hình thành cơ chế
liên kết giữa lực lượng nghiên cứu và phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới
sáng tạo với các doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực năng lượng
thông qua các chương trình khoa học và công nghệ; lồng ghép hoạt động nghiên cứu
và phát triển trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển năng lượng.
Tạo cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp năng lượng tăng cường đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển; thành lập các trung tâm đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực
năng lượng. Tiếp tục triển khai chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm
quốc gia về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng giai đoạn
2021 - 2030, trọng tâm là nghiên cứu chế tạo thiết bị năng lượng và ứng dụng
các dạng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, tiết kiệm
năng lượng.
- Rà soát, sửa đổi, bổ
sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia trong lĩnh vực năng lượng phù hợp với
các quy định, tiêu chuẩn quốc tế, có xét đến các tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia
liên quan đến việc tái chế, sử dụng chất thải từ quá trình sản xuất năng lượng.
Từng bước áp dụng các biện pháp khuyến khích và bắt buộc đổi mới công nghệ, thiết
bị trong ngành năng lượng cũng như những ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng.
- Xây dựng chính sách phát triển nguồn nhân lực tổng thể và
các chương trình đào tạo cho những khâu then chốt của ngành năng lượng. Tăng cường
đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu sử dụng
trong nước, hướng tới xuất khẩu. Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào
tạo về năng lượng hạt nhân đi đôi với đào tạo nâng cao.
8. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng
các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn
và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài
- Thực hiện chính sách
đối ngoại năng lượng linh hoạt, hiệu quả, bình đẳng, cùng có lợi. Mở rộng và
làm sâu sắc hơn hợp tác năng lượng với các đối tác chiến lược, đối tác quan trọng.
Tăng cường quan hệ quốc tế về năng lượng trong tất cả các phân ngành, lĩnh vực
phù hợp với xu thế hội nhập, tận dụng cơ hội từ các hiệp định thương mại, các
quan hệ chính trị - ngoại giao thuận lợi để phát triển năng lượng.
- Khẩn trương xây dựng
chiến lược nhập khẩu năng lượng dài hạn song song với khuyến khích đầu tư, khai
thác tài nguyên năng lượng ở nước ngoài để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng
quốc gia; có cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư dự án năng lượng ở
nước ngoài, trước hết là với các dự án nguồn điện tại một số nước láng giềng để
chủ động nhập khẩu điện về Việt Nam. Mở rộng quan hệ đối tác với các công ty đầu
tư năng lượng, phát triển công nghệ năng lượng tiên tiến.
- Tích cực tham gia hợp
tác năng lượng tại tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) và khu vực Đông Nam Á
(ASEAN); liên kết lưới điện, hoàn thiện cơ chế
mua bán điện với Trung Quốc, Lào và Cam-pu-chia. Tiếp tục nghiên cứu kết
nối hệ thống khí trong khu vực, triển khai thực hiện khi điều kiện cho phép.
9. Thực thi chính sách bảo vệ môi trường ngành năng lượng gắn
với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và phát
triển bền vững
- Nghiên cứu, xây dựng
chính sách thuế các-bon thích hợp đối với việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Có
cơ chế, chính sách triển khai việc thu hồi, sử dụng khí CO2. Thực hiện đánh giá hiệu quả việc sử dụng, tái chế
tro, xỉ phát sinh trên cơ sở cân đối nhu cầu và khả năng tiêu thụ làm vật liệu
xây dựng, nhất là tại khu vực miền Nam.
- Hoàn thiện khung
chính sách, xây dựng và bổ sung hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về khí
thải và chất thải trong ngành năng lượng theo hướng tiệm cận với những tiêu chuẩn
của các nước phát triển. Bổ sung quy định sàng lọc dự án đầu tư theo rủi ro về
môi trường. Xây dựng quy chế tài chính về môi trường, bảo đảm tính đủ các chi
phí về môi trường, xã hội trong đầu tư và giá thành sản phẩm. Tăng cường phòng
ngừa, kiểm soát các đối tượng có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; xử lý
nghiêm các vi phạm về an toàn môi trường theo quy định của pháp luật. Thông tin
tuyên truyền kịp thời và đầy đủ về công tác bảo vệ môi trường trong ngành năng
lượng.
- Xây dựng và triển
khai Đề án tích hợp mô hình kinh tế tuần hoàn vào chiến lược phát triển các
doanh nghiệp năng lượng. Phát triển hệ thống quản lý và xử lý chất thải trong sản
xuất năng lượng với công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện nước ta; bảo đảm
năng lực tự xử lý các nguồn thải trong các doanh nghiệp năng lượng. Có cơ chế,
chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp môi trường gắn với ngành năng lượng.
- Rà soát, điều chỉnh
và bổ sung những nội dung liên quan đến ngành năng lượng trong Chiến lược quốc
gia về biến đổi khí hậu, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, Chiến lược
phát triển bền vững Việt Nam, Chiến lược biển Việt Nam và các chiến lược khác
có liên quan.
10. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân và vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển ngành
năng lượng
- Nâng cao nhận
thức của các cấp uỷ đảng và cả hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò, vị
trí, tầm quan trọng của ngành năng lượng. Các cấp uỷ đảng và chính quyền từ
Trung ương đến địa phương cần xác định phát triển năng lượng quốc gia là nhiệm
vụ quan trọng, xuyên suốt, nghiêm túc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Xây
dựng cơ chế và khung pháp lý bảo đảm cho việc tuân thủ quy hoạch phát triển
năng lượng quốc gia. Xử lý nghiêm đối với các dự án đầu tư chậm triển khai, làm
ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia.
- Rà soát,
hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng. Phân định rõ
trách nhiệm, quyền hạn, cơ chế phối hợp giữa Trung ương và địa phương, giữa các
cơ quan quản lý nhà nước trong phát triển năng lượng. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành và
thực thi nghiêm túc các quy định pháp luật về năng lượng. Thực hiện tốt vai trò
định hướng, xây dựng chính sách gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
hỗ trợ thực hiện.
- Phát huy quyền
làm chủ của nhân dân; mở rộng sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của
chính sách vào quá trình xây dựng và giám sát thực hiện chiến lược, quy hoạch
và chính sách phát triển năng lượng quốc gia.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết
tới cán bộ, đảng viên; xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Nghị
quyết.
2. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật để tạo thuận
lợi cho phát triển năng lượng quốc gia theo tinh thần của Nghị quyết; tăng cường giám sát việc xây dựng và tổ chức thực
hiện chiến lược, quy hoạch và các chính sách phát triển năng lượng quốc gia.
3. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo xây dựng và triển
khai Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia và các chiến lược phát triển các
phân ngành năng lượng, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch phát
triển điện lực quốc gia phù hợp với tinh thần của Nghị quyết; ưu tiên bố trí đủ
nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết; khẩn trương triển
khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho
mục đích hoà bình; sớm tổng kết rà soát Luật Điện
lực và các luật có liên quan để trình Quốc hội sửa đổi những nội dung còn bất
cập, nhất là vấn đề quy hoạch, truyền tải điện.
4. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị
- xã hội xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
5. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì phối hợp với Ban
Kinh tế Trung ương và các cơ quan liên quan hướng dẫn việc quán triệt thực hiện
Nghị quyết.
6. Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các
cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi, hướng dẫn kiểm tra, giám sát, đôn đốc
triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực hiện, báo
cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Nơi nhận:
- Các tỉnh uỷ,
thành uỷ,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng,
đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương,
- Các đảng uỷ đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Uỷ viên
Ban Chấp hành Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|