QUỐC
HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số:
60/2018/QH14
|
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2018
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ TIẾP TỤC HOÀN
THIỆN VÀ ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN,
TÀI SẢN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP VÀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn cứ Nghị quyết số 35/2017/QH14 ngày 12
tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2018 và
Nghị quyết số 45/2017/QH14 ngày 21 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội về thành lập
Đoàn giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng
vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
giai đoạn 2011-2016;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 16/BC-ĐGS ngày
25 tháng 5 năm 2018 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại
doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016 và ý kiến
của đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Đánh giá kết quả
thực hiện
Tán thành nội dung Báo cáo kết quả giám sát số 16/BC-ĐGS ngày 25 tháng 5 năm 2018 của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách,
pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2016 với những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Hệ thống
chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước được ban hành
khá đầy đủ, phạm vi điều chỉnh bao quát hơn so với
giai đoạn trước. Doanh nghiệp nhà nước đã chuyển dịch theo hướng
tập trung hơn vào những ngành, nghề then chốt của nền kinh tế hoặc những lĩnh
vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không tham gia, tiếp tục
giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, góp phần bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước xét trên các tiêu chí như: lợi nhuận, nộp ngân
sách nhà nước, bảo toàn và tăng trưởng vốn đạt kết quả tích cực… Kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có vốn nhà nước có xu hướng tăng
trưởng ổn định và phát triển. Quá trình thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nhìn chung được thực hiện theo kế hoạch đề ra. Tiền lương,
thu nhập và quyền lợi của người lao động cơ bản được bảo đảm ổn định.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đạt được một
số kết quả tích cực. Nhìn
chung doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động minh bạch hơn, hầu hết có quy mô,
cơ cấu nguồn vốn hợp lý, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn, nộp ngân sách và
thu nhập của người lao động được nâng lên.
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, vướng mắc, bất cập, vi phạm pháp luật
trong kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, quản lý tài chính và vi phạm nguyên
tắc thị trường; chưa hoàn toàn tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước
với chức năng đại diện chủ sở hữu, vẫn còn tình trạng chưa bảo đảm công khai,
minh bạch trong việc định giá, mua bán tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với vị trí và nguồn lực
được giao quản lý, sử dụng. Một số dự án đầu tư quy mô lớn nhưng triển khai chậm, không
hiệu quả, thất thoát, lãng phí; hoạt động đầu tư ra ngoài ngành, nghề kinh
doanh chính, đầu tư ra nước ngoài nhìn chung hiệu quả thấp. Tỷ lệ vốn Nhà nước nắm giữ ở các công ty cổ phần còn cao. Mô hình quản trị doanh nghiệp
chậm được đổi mới. Việc thu hút nhà đầu tư chiến lược còn
hạn chế. Công tác quản lý tài chính trong quá trình cổ phần hóa, xác định giá trị
doanh nghiệp vẫn còn bất cập và có một số vi phạm, nhất là xác định giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị thương hiệu của doanh nghiệp nhà nước. Quản lý sử
dụng Quỹ Hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại các tập đoàn, tổng công ty còn tồn tại,
hạn chế.
Những hạn chế, vướng mắc, bất
cập nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ
quan là chủ yếu. Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý, sử dụng vốn,
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vẫn
còn chồng chéo, thiếu thống nhất với một số luật khác. Việc xử lý, cơ cấu lại một số tập
đoàn, tổng công ty, dự án đầu tư thua lỗ và thu hồi vốn nhà nước từ các
dự án đầu tư không hiệu quả còn chậm. Hoạt động kiểm tra, giám sát của đại diện chủ sở hữu phần vốn
nhà nước tại doanh nghiệp, công tác thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ chưa thường xuyên, kém hiệu quả. Công tác tổ chức cán
bộ chưa tốt, năng lực quản lý còn bất cập, trách nhiệm chưa rõ, một số trường
hợp cố ý vi phạm quy định của pháp luật gây lãng phí và hậu quả nghiêm trọng.
Mặc dù Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã
có nhiều cố gắng xây dựng cơ sở pháp lý, tăng cường công tác quản lý doanh
nghiệp nhà nước, vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thực hiện chủ trương sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước nhưng hiệu quả đạt được chưa cao; còn một số Bộ chưa làm tốt trách nhiệm
được giao, chưa kịp thời đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật
liên quan, còn để xảy ra một số vụ
việc sai phạm của các doanh nghiệp nhà nước thuộc thẩm quyền quản lý nhưng
chậm phát hiện và ngăn chặn, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế. Sự phối hợp, hỗ trợ giữa các Bộ, ngành, địa phương còn có lúc chưa chặt
chẽ, kịp thời. Chính quyền ở một số địa phương còn buông lỏng quản lý
đất đai; quản lý chuyển đổi mục đích và thực hiện nghĩa vụ tài chính về sử dụng
đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa còn bất cập, thiếu minh bạch. Nhiều doanh
nghiệp nhà nước chưa tuân thủ pháp luật; chưa xây dựng được hệ thống kiểm tra,
kiểm soát nội bộ hiệu quả để kịp thời giám sát và cảnh báo các sai phạm tại
doanh nghiệp.
Điều 2. Nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu
Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập,
thực hiện có hiệu lực, hiệu quả chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn,
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, giao
Chính phủ và Kiểm toán nhà nước tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu sau đây:
1. Đối với Chính phủ:
a) Khẩn trương tổng kết, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài
sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; sớm
trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các nội dung còn vướng mắc của Luật Quản lý, sử
dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Doanh
nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đất đai và các văn bản
khác có liên quan.
b) Ban hành văn bản phân công, phân cấp việc thực hiện các quyền,
trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước và
vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp; văn bản quy định về
cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước
tại doanh nghiệp. Tổng kết, đánh giá mô hình Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh
vốn nhà nước (SCIC) và mối quan hệ với Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp.
c) Ban hành văn bản quy định về bộ
tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với doanh nghiệp
nhà nước theo từng loại hình, lĩnh vực, địa bàn hoạt động đặc thù của doanh
nghiệp (chậm nhất vào tháng 5 năm 2019).
d) Chỉ đạo các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, khắc phục những hạn chế, yếu kém trong giai
đoạn vừa qua; xử lý kịp thời các đề xuất, kiến nghị của doanh
nghiệp. Khẩn trương bàn giao phần vốn nhà nước hiện đang quản lý về cơ
quan có thẩm quyền được giao quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Đến năm 2020, xử lý dứt điểm các doanh nghiệp vi phạm pháp
luật, để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước, các dự án đầu tư chậm tiến
độ, kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài; không sử dụng ngân sách nhà nước để xử lý
thua lỗ của doanh nghiệp. Kiểm điểm và xử lý trách nhiệm theo
quy định của pháp luật đối với tập thể, cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu trong
việc để xảy ra các vi phạm về quản lý sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh
nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ
7 (tháng 5 năm 2019). Gắn kết quả của việc thực hiện sắp xếp, đổi
mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước với việc đánh giá trách nhiệm
của người đứng đầu; tiếp tục đổi mới công tác bố trí bổ nhiệm, miễn nhiệm đối
với người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước.
đ) Quản lý, giám sát chặt chẽ việc
huy động, sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước, nhất là việc vay nợ nước ngoài,
các dự án đầu tư trong nước và ra nước ngoài, nguồn vốn mua, bán, sáp nhập
doanh nghiệp; hạn chế tối đa cấp bảo lãnh của Chính phủ đối với doanh nghiệp
nhà nước.
e) Tiếp tục đổi mới cơ chế để doanh nghiệp thực
sự chủ động trong trả tiền lương, tiền thưởng dựa vào năng suất lao động, hiệu
quả sản xuất, kinh doanh; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp,
người lao động; thu hút lao động có trình độ cao vào làm việc.
g) Tiếp tục rà soát, tách bạch
giữa những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế hoặc lĩnh vực công ích mà Nhà
nước cần nắm quyền chi phối với những lĩnh vực nên huy động vốn đầu tư từ xã
hội; xác định tỷ lệ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp ở mức hợp lý nhằm thu hút
nhà đầu tư bên ngoài và thay đổi mô hình quản trị doanh nghiệp một cách thực
chất. Tách bạch giữa hoạt động sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích,
an sinh xã hội với hoạt động sản xuất, kinh doanh vì lợi nhuận của doanh
nghiệp. Tăng cường quản lý các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh, các doanh
nghiệp trực thuộc các tổ chức chính trị - xã hội. Đánh giá việc
cổ phần hoá, thoái vốn, chuyển đổi mô hình tại doanh nghiệp, cung cấp
sản phẩm, dịch vụ công ích liên quan đến các chính sách phát triển kinh tế - xã
hội, an sinh xã hội, trường hợp vẫn cần phải thoái vốn, cổ phần hoá thì phải có
chính sách phù hợp để bảo đảm phát triển kinh tế, an sinh xã hội tại vùng nông
thôn, địa bàn có điều kiện khó khăn, địa bàn chiến lược biên giới hải đảo.
h) Tổng kết, đánh giá và tập
trung hoàn thành mục tiêu cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước theo đúng lộ trình
và quy định của pháp luật, bảo đảm các nguyên tắc và cơ chế thị trường; minh
bạch, công khai thông tin; xem xét cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó
khăn trong xử lý các vấn đề về tài chính, đất đai, lao động, chính sách khoa
học, công nghệ... nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của một số doanh
nghiệp đã cơ cấu lại nhưng tình hình sản xuất, kinh doanh còn chưa khả quan; áp dụng biện pháp giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật, nhất
là doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng giải thể, phá sản mà không có
phương án cơ cấu lại khả thi.
i) Rà soát diện tích đất của các
doanh nghiệp nhà nước, hoàn thành việc cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thực hiện việc xác định giá đất cụ thể phù hợp với quy định của Luật Đất đai để
xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa,
tính đúng, tính đủ tiền thuê đất của doanh nghiệp, tránh thất thu cho ngân sách
nhà nước. Quản lý chặt chẽ, tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra việc sử
dụng đất của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, bảo đảm tuân thủ phương án sử
dụng đất đã được phê duyệt trong phương án cổ phần hóa doanh nghiệp; trường hợp
được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khác với phương án
đã được phê duyệt thì tổ chức thu hồi và đấu giá công khai theo quy định của pháp
luật; nghiêm túc thực hiện quy định của pháp luật đất đai về thu hồi đất đối
với các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai. Tiến hành thanh tra việc chuyển
đổi mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất của doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp cổ phần hoá sang kinh doanh đất, xây dựng nhà ở giai đoạn 2011- 2017,
báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10 năm 2019).
k) Tăng cường minh bạch thông tin đối với tất cả
các doanh nghiệp nhà nước theo các tiêu chuẩn áp dụng đối với
công ty đại chúng; nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về doanh nghiệp
nhà nước.
l) Tăng cường kiểm tra, thanh tra,
giám sát để kịp thời phát hiện vi phạm và có biện pháp xử lý, khắc phục; thực
hiện nghiêm, dứt điểm các kết luận của các cơ quan thanh tra, kiểm toán, có chế
tài xử lý đối với các trường hợp không thực hiện, chậm thực hiện kết luận của
các cơ quan thanh tra, kiểm toán. Tăng cường thực hiện công tác
thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật
về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát vốn,
tài sản nhà nước.
m) Đánh giá việc quản lý
và sử dụng nguồn thu từ thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và hiệu quả hoạt
động của Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp, có biện pháp nâng cao
chất lượng quản lý và sử dụng Quỹ; báo cáo Quốc hội việc quản
lý, sử dụng Quỹ tại kỳ họp Quốc hội tháng 10 hằng năm.
n) Nghiên cứu trình Quốc hội xem
xét ban hành Nghị quyết về quản lý và sử dụng
nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo
tinh thần khoản thu này phải nộp đầy đủ, kịp thời và phải được đưa vào
dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, kế hoạch tài chính, kế hoạch đầu tư công
trung hạn; chỉ được bố trí dự toán chi cho đầu tư phát triển, tạo
nguồn lực lâu dài; các trường hợp thu vượt, đột xuất cần báo cáo Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định việc quản lý và sử dụng nguồn thu này
theo quy định của pháp luật.
2. Đối với Kiểm toán Nhà
nước:
Thực hiện kiểm toán Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát
triển doanh nghiệp và việc sử dụng nguồn thu từ đất của các doanh nghiệp nhà
nước đã cổ phần hóa giai đoạn 2011-2017, báo cáo Quốc hội kết quả tại kỳ họp
thứ 7 (tháng 5 năm 2019).
Điều 3. Tổ chức, kiểm tra và giám sát thực
hiện
1. Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, chỉ đạo tổ chức, kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết này.
2. Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại
biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2018.
|
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn Thị Kim Ngân
|