VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 269/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 08
tháng 7 năm 2023
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TRẦN LƯU QUANG TẠI HỘI NGHỊ TRỰC TUYẾN VỚI CÁC
TỈNH, THÀNH PHỐ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngày 28 tháng 6 năm 2023, tại Trụ sở Ủy ban nhân
dân thành phố Cần Thơ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang chủ trì Hội nghị
trực tuyến với các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long về công tác
lãnh đạo, chỉ đạo chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không
theo quy định; phân giới cắm mốc; phòng, chống tội phạm, ma túy, mua bán người;
chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và một số hoạt động khác. Cùng dự
buổi làm việc với Phó Thủ tướng Chính phủ có đồng chí Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên
Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an và lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Kế hoạch và
Đầu tư, Y tế, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn phòng Chính phủ, Tập đoàn Dầu
khí Việt Nam, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; đại diện các cơ quan: Tài chính,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngoại giao, Tư pháp, Văn phòng Thường trực
389.
Sau khi nghe lãnh đạo một số tỉnh, thành phố vùng Đồng
bằng sông Cửu Long báo cáo; ý kiến của lãnh đạo các Bộ, cơ quan, Phó Thủ tướng
Chính phủ kết luận như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, biểu dương, ghi nhận
đánh giá cao kết quả đã đạt được của các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu
Long trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không
báo cáo và không theo quy định; phân giới cắm mốc; phòng, chống tội phạm, ma
túy, mua bán người; chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả trong thời
gian qua: Các tỉnh ven biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã tích cực thực hiện
nhiệm vụ chống khai thác IUU; đã sáng tạo ứng dụng công nghệ thông tin để theo
dõi, quản lý tàu cá tại địa phương. Các tỉnh: Long An, Đồng Tháp, An Giang và
Kiên Giang có đường biên giới trên đất liền với Campuchia đã thực hiện tốt công
tác quản lý đường biên, mốc giới và từng bước hoàn thành phân giới cắm mốc. Các
tỉnh, thành phố trong Vùng đã chủ động bám sát các chủ trương, chỉ đạo của Đảng,
Nhà nước và Ban Chỉ đạo 138/CP, kịp thời triển khai, vận dụng sáng tạo, linh hoạt,
phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương trong việc lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn, nhất là
giải quyết các vấn đề, vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự được dư luận xã hội
quan tâm; đã làm tốt công tác ổn định thị trường, chống thất thu thuế, góp phần
quan trọng trong quá trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, so với với yêu cầu gỡ cảnh báo “Thẻ
vàng” của Ủy ban Châu Âu (EC) vẫn chưa đạt được; tình hình tội phạm, tội phạm
mua bán người và tệ nạn xã hội trên địa bàn các tỉnh, thành phố trong Vùng còn
diễn biến phức tạp, tội phạm ma túy có chiều hướng tăng mạnh; số người nghiện,
người sử dụng trái phép chất ma túy còn ở mức cao; cơ sở vật chất các cơ sở cai
nghiện ma túy tại một số địa phương xuống cấp, thiếu nhân lực y tế; quản lý sau
cai nghiện, hỗ trợ học nghề, tạo việc làm chưa phù hợp với thực tế. Tình trạng
buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới đối với các mặt hàng như: Thuốc
lá, đường cát, xăng dầu, vàng, ngoại tệ, thiết bị điện tử, mỹ phẩm... vẫn diễn
biến phức tạp.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
TRONG THỜI GIAN TỚI
Cơ bản thống nhất với Báo cáo của các tỉnh, thành
phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long và ý kiến phát biểu, thảo luận của các Bộ, cơ
quan, địa phương về 4 nội dung tại Hội nghị, đề nghị tập trung vào một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác sau:
1. Về chống khai thác hải sản bất
hợp pháp, không theo quy định và không khai báo (IUU):
a) Các Bộ, ngành, địa phương có liên quan tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo, hành động quyết liệt thực hiện các nhiệm vụ trước mắt, các
giải pháp trọng tâm chống khai thác IUU, chuẩn bị kỹ kế hoạch, nội dung làm việc
với Đoàn Thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 4, phấn đấu mục tiêu đến tháng 10
năm 2023 gỡ cảnh báo “Thẻ vàng”.
b) Các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quốc
phòng, Ngoại giao và các Bộ, ngành, địa phương liên quan thực hiện nghiêm chỉ đạo
của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 81/QĐ-TTg ngày 13 tháng 02 năm 2023 về
“Kế hoạch hành động chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và
không theo quy định”.
c) Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn và các Bộ, ngành, địa phương có liên quan có giải pháp
hiệu quả ngăn chặn, không để tàu cá vi phạm khai thác hải sản bất hợp pháp ở
vùng biển nước ngoài. Bộ Công an khẩn trương củng cố hồ sơ, đưa ra truy tố các
đối tượng môi giới, móc nối đưa tàu cá, ngư dân Việt Nam đi khai thác bất hợp
pháp ở vùng biển nước ngoài. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ven biển thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ,
tái tạo nguồn lợi thủy sản. Chú trọng phát triển các mô hình chuyển đổi nghề hiệu
quả.
d) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương ven biển:
- Khẩn trương thành lập Kiểm ngư địa phương theo
quy định tại Luật Thủy sản và các văn bản hướng dẫn liên quan. Phối hợp chặt chẽ
với Bộ Quốc phòng ngăn chặn, xử lý không để tàu cá địa phương vi phạm khai thác
bất hợp pháp ở vùng biển nước ngoài.
- Thực hiện nghiêm công tác quản lý tàu cá; kiểm
soát chặt chẽ hoạt động của tàu cá địa phương và tàu cá của tỉnh khác hoạt động
tại địa phương; tập trung cao điểm thực thi pháp luật, xử phạt triệt để các
hành vi khai thác IUU.
- Tuân thủ công tác xác nhận, chứng nhận và truy xuất
nguồn gốc thủy sản khai thác theo quy định. Điều động, luân chuyển, biệt phái đảm
bảo bố trí đủ nhân lực, kinh phí thực hiện nhiệm vụ quản lý tàu cá, bảo vệ, tái
tạo nguồn lợi thủy sản, chống khai thác IUU.
2. Về phân giới cắm mốc: Các Bộ,
ngành, địa phương phối hợp tổ chức tuyên truyền, giáo dục cán bộ, chiến sĩ và
người dân, đặc biệt là người dân tại khu vực biên giới về các quy định liên
quan đến đường biên mốc giới tại các văn kiện pháp lý song phương và pháp luật
Việt Nam để nâng cao ý thức tuân thủ, thực thi pháp luật của người dân, tránh
vi phạm quy chế biên giới.
3. Về công tác phòng, chống tội phạm,
ma túy, mua bán người
a) Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai quyết liệt
các Kế hoạch phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy, phòng, chống mua bán
người của Ban Chỉ đạo 138/CP và Ủy ban Quốc gia. Kiểm soát tốt việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm từ cấp xã, chủ động nhận diện tội phạm,
triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm hình sự nổi lên, nhất
là “tội phạm đường phố”, tội phạm “tín dụng đen”, tội phạm cướp ngân hàng, tiệm
vàng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản,...
b) Thực hiện tốt Đề án 06 của Chính phủ về phát triển
ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số
quốc gia giai đoạn 2021 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, phục vụ quản lý nghiệp vụ,
phòng, chống tội phạm; chuyển đổi trạng thái các mặt công tác từ “truyền thống”
sang “hiện đại” vào công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm.
c) Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cấp, các
ngành, tổ chức chính trị - xã hội trong công tác phòng, chống tội phạm, ma túy,
mua bán người, không để phát sinh vụ việc phức tạp, hình thành “điểm nóng” về
an ninh, trật tự; đẩy mạnh công tác tuyên truyền với các nội dung, hình thức
phù hợp với từng nhóm đối tượng; theo phương châm hướng về cơ sở, tập trung vào
các khu vực, địa bàn trọng điểm, phức tạp về ma túy, các nhóm nguy cơ cao, nhất
là thanh, thiếu niên, học sinh, sinh viên, công nhân; phổ biến, nhân rộng các
mô hình, điển hình tiên tiến ở cơ sở.
d) Bộ Y tế chỉ đạo các địa phương tăng cường hoạt động
truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh
viên, kết hợp tư vấn, xét nghiệm HIV để kịp thời phát hiện, điều trị sớm những
trường hợp dương tính với HIV và điều trị dự phòng lây nhiễm HIV cho các trường
hợp có nguy cơ cao lây nhiễm HIV.
4. Về chống buôn lậu, gian lận
thương mại và hàng giả:
a) Triển khai quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm
vụ, giải pháp tại Nghị quyết 41/NQ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về
đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả
trong tình hình mới, các chương trình, kế hoạch, văn bản chỉ đạo của Ban Chỉ đạo
389 quốc gia.
b) Quan tâm phát triển kinh tế khu vực biên giới để
người dân ổn định cuộc sống, không tham gia tiếp tay cho các hành vi buôn lậu,
vận chuyển trái phép hàng hóa. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống buôn lậu và ma
túy qua biên giới, nhất là tình trạng phân bón giả và buôn lậu xăng dầu trên biển.
c) Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo 389 quốc gia tổng
hợp kiến nghị, của các địa phương; đôn đốc, kiểm tra, phối hợp, hỗ trợ các địa
phương triển khai thực hiện, báo cáo Trưởng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia.
III. VỀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Về nâng cấp và xây mới các cơ sở cai nghiện ma
túy vùng Đồng bằng sông Cửu Long:
a) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng
sông Cửu Long nghiên cứu, bố trí quỹ đất xây dựng khu vực nông nghiệp công nghệ
cao để học viên cai nghiện ma túy lao động trị liệu và học nghề phù hợp với đặc
điểm của từng địa phương; bảo đảm cơ sở vật chất để tiếp nhận học viên cai nghiện
ma túy bắt buộc và cai nghiện ma túy tự nguyện trên địa bàn.
b) Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các cơ quan liên quan:
- Cân đối nguồn vốn để bố trí xây mới, nâng cấp cơ
sở cai nghiện ma túy hiện có tại các địa phương, đặc biệt ưu tiên bố trí nguồn
vốn cho thành phố Cần Thơ và tỉnh Hậu Giang.
- Nghiên cứu, hỗ trợ kinh phí cải tạo, sửa chữa,
nâng cấp cơ sở cai nghiện ma túy hiện có của thành phố Cần Thơ đặt tại tỉnh Hậu
Giang để thực hiện nhiệm vụ cai nghiện ma túy bắt buộc cho người nghiện ma túy
tại 02 địa phương; cân đối nguồn vốn đầu tư để bố trí cho thành phố Cần Thơ xây
mới cơ sở cai nghiện ma túy trên địa bàn. Sau khi cơ sở cai nghiện ma túy của
thành phố Cần Thơ hoàn thành, tiến hành bàn giao cơ sở cai nghiện cũ cho tỉnh Hậu
Giang theo quy định pháp luật về tài sản công.
c) Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ và Ủy ban nhân
dân tỉnh Hậu Giang khẩn trương bố trí quỹ đất, lập dự án đầu tư, gửi Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo Thủ tướng
Chính phủ trong Quý III năm 2023.
2. Về hỗ trợ y tế cho các cơ sở cai nghiện ma túy: Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long khẩn trương có giải
pháp điều động có thời hạn bác sỹ từ các cơ sở y tế thuộc ngành Y tế sang hỗ trợ
tại các cơ sở cai nghiện ma túy thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để
bảo đảm các cơ sở cai nghiện ma túy có nhân sự bác sỹ đáp ứng quy định của pháp
luật; tạo điều kiện để đội ngũ y, bác sỹ đang công tác tại cơ sở cai nghiện ma
túy công lập được đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn; đội ngũ y sỹ hiện có
được học liên thông lên bác sỹ. Điều động, bố trí xe cứu thương hỗ trợ cho các
cơ sở cai nghiện ma túy công lập.
3. Về hoàn thiện phần mềm trong công tác chống khai
thác IUU: Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Ủy
ban nhân dân tỉnh Cà Mau trong tháng 8 năm 2023 để hỗ trợ hoàn thiện phần mềm,
đồng thời nghiên cứu để nhân rộng áp dụng tại các địa phương.
4. Về việc sớm sửa đổi các văn bản pháp quy liên
quan đến thủy sản, trong đó: (i) Ban hành quy định thời gian cụ thể về thực hiện
trách nhiệm, thủ tục dân sự trong mua bán tàu cá; (ii) chuyển đổi hạn ngạch giấy
phép khai thác thủy sản vùng khơi; (iii) tăng hình thức xử lý đối với vi phạm
quy định về đăng ký tàu cá; (iv) chính sách hỗ trợ mua tàu cá cũ, quá hạn sử dụng
để đánh chìm làm rạn nhân tạo, khu trú ngụ thủy sản (tỉnh Cà Mau); (v)
cơ chế khoanh nợ tàu khai thác thủy sản chờ chuyển đổi ngành nghề (tỉnh Kiên
Giang):
Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ
trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành liên quan tổng hợp kiến nghị của
các địa phương (trong đó có tỉnh Cà Mau và tỉnh Kiên Giang) trong quá trình
hoàn thiện dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 15 tháng
5 năm 2019, dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
26/2019/NĐ-CP ngày 8 tháng 03 năm 2019 và dự thảo Nghị định thay thế Nghị định
số 67/2014/NĐ-CP ngày 07 tháng 7 năm 2014, trình Chính phủ trước ngày 15 tháng
7 năm 2023.
5. Về việc ban hành hướng dẫn áp dụng các Điều 347, 348, 349, 350 của Bộ Luật Hình sự: Giao Bộ Tư pháp chủ
trì, phối hợp với Bộ Công an và các cơ quan liên quan làm việc với Tòa án nhân
dân Tối cao trong tháng 8 năm 2023, sớm ban hành hướng dẫn để khắc phục những bất
cập, vướng mắc trong điều tra, xử lý hành vi môi giới đưa tàu cá, ngư dân Việt
Nam đi khai thác hải sản trái phép vùng biển nước ngoài.
6. Về việc cơ quan chức năng của các nước có liên
quan cung cấp thông tin, hồ sơ, chứng cứ xử lý vi phạm tàu cá khai thác thủy sản
trái phép vùng biển nước ngoài: Bộ Ngoại giao tiếp tục phối hợp với các nước
(nơi bắt giữ, xử lý tàu cá Việt Nam vi phạm) để kịp thời nắm bắt, thu thập
thông tin, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan củng cố
hồ sơ, điều tra, xử lý dứt điểm các vụ việc tàu cá vi phạm khai thác bất hợp
pháp ở vùng biển nước ngoài theo đúng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ - Trưởng
Ban chỉ đạo Quốc gia về IUU tại Thông báo kết luận số 209/TB-VPCP ngày 07 tháng
6 năm 2023 của Văn phòng Chính phủ.
7. Đối với các kiến nghị cụ thể, đặc thù của địa
phương:
Các Bộ, cơ quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao,
xem xét xử lý kiến nghị theo thẩm quyền (gửi văn bản trả lời địa phương có kiến
nghị trong tháng 8 năm 2023) trong đó hướng dẫn cụ thể để tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc trong quá trình triển khai thực hiện các quy định, cơ chế, chính sách tại địa
phương, trường hợp vượt thẩm quyền, tham mưu đề xuất với cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định (Chi tiết tại Phụ lục kèm theo).
Văn phòng Chính phủ thông báo để Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các Bộ, cơ quan, địa phương
liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan: Công an, Quốc phòng,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế,
Ngoại giao, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư,
Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường, Tư pháp,
Khoa học và Công nghệ, Công Thương,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Ủy ban Dân tộc, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam,
Văn phòng Thường trực 389;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý,
Thư ký TTgCP, Thư ký các PTTgCP,
Cổng TTĐTCP, các Vụ, Cục: NC, KTTH,
CN, NN, PL, TH, QHQT, KGVX, V.I;
- Lưu: VT, QHĐP (3b). Huyền
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Cao Huy
|
PHỤ LỤC
KIẾN NGHỊ CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG
(Kèm theo Thông báo số 269/TB-VPCP ngày 08 tháng 7 năm 2023 của Văn phòng
Chính phủ)
I. UBND THÀNH PHỐ CẦN THƠ
1. Bộ Y tế:
a) Nghiên cứu phác đồ điều trị cho người nghiện ma
túy tổng hợp vì hiện nay người nghiện ma túy tổng hợp chiếm tỷ lệ cao chưa có
phác đồ điều trị hiệu quả.
b) Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu
tác động của khí N20 (khí cười) đối với người lạm dụng khí này, đề xuất,
báo cáo Chính phủ đưa khí N20 vào danh mục quản lý.
2. Các Bộ: Công Thương, Y tế, Tài chính chỉ
đạo đơn vị chức năng tăng cường kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện, xử lý
nghiêm các hành vi mua bán, vận chuyển, lưu hành các mặt hàng không rõ nguồn gốc,
xuất xứ, không để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi “pha trộn”, “tẩm
ướp” ma túy dưới dạng thực phẩm, đồ uống, thảo mộc, thuốc lá điện tử... loại
ma túy dạng “núp bóng” rất dễ ngộ độc, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng
con người, nhất là giới trẻ, học sinh, sinh viên.
II. UBND TỈNH BẾN TRE
1. Bộ Tư pháp: Sửa đổi, bổ sung Nghị định số
118/2021/NĐ-CP , trong đó, quy định rõ như thế nào là sử dụng trái phép
để áp dụng thống nhất. Cụ thể như sau:
Tại khoản 1 Điều 126 Luật Xử lý vi
phạm hành chính (XLVPHC); Điều 23, Nghị định số
118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định: Tang vật, phương tiện đang bị tạm
giữ do bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi phạm hành chính thuộc trường hợp
bị tịch thu thì trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp
pháp; cá nhân, tổ chức vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ngân sách nhà nước....”.
Tuy nhiên, hiện nay khái niệm “sử dụng trái
phép phương tiện để vi phạm hành chính” vẫn chưa được văn bản quy phạm
pháp luật nào giải thích rõ, dẫn đến mỗi đơn vị, địa phương hiểu và áp dụng
khác nhau, thậm chí lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trả lại phương tiện cho chủ
sở hữu.
Có ý kiến cho rằng; Người sử dụng phương tiện tự ý
vi phạm (như vận chuyển hàng lậu, hàng cấm, hàng giả,...) chủ sở hữu
không biết là sử dụng trái phép và thực hiện theo quy định trên.
Trường hợp, chủ phương tiện và người sử dụng phương tiện có sự thỏa thuận trước
với nhau theo Luật Dân sự như cho mượn, cho thuê, giao sử dụng thì không
xem là sử dụng trái phép và bị xử lý tịch thu theo quy định, người sử dụng
phương tiện để vi phạm có trách nhiệm bồi thường cho chủ phương tiện theo quy định
về dân sự.
Thực tế vừa qua nhiều vụ việc bắt giữ vận chuyển
hàng cấm nhưng đương sự bỏ tang vật, phương tiện không đến giải quyết, cơ quan
xử lý phải tìm và trả lại cho chủ sở hữu phương tiện. Mặt khác, người vi phạm
là người thuê, mướn phương tiện hoặc người làm công được giao sử dụng phương tiện,
không có tài chính, tài sản nên việc yêu cầu nộp khoản tiền tương đương trị giá
tang vật, phương tiện vi phạm để thay thế cho việc tịch thu tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính là không khả thi và rất khó thực hiện.
2. Bộ Y tế: Tham mưu sửa đổi, bổ sung Thực
phẩm bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số
15/2018/NĐ-CP để tránh tình trạng lợi dụng kẽ hở pháp luật và rất khó quản
lý của cơ quan chức năng.
Theo quy định của pháp luật về An toàn thực phẩm
Tại khoản 23 Điều 2 Luật An toàn thực
phẩm ghi: Thực phẩm chức năng là thực phẩm dùng để hỗ trợ chức năng của
cơ thể con người, tạo cho cơ thể tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng, giảm
bớt nguy cơ mắc bệnh, bao gồm thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực
phẩm dinh dưỡng y học. Tuy nhiên, tại Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày
02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An
toàn thực phẩm quy định: Đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe phải đăng ký công
bố đến Bộ Y tế; Đối với thực phẩm dinh dưỡng y học, thực phẩm dùng cho chế độ
ăn đặc biệt đăng ký công bố đến cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền do UBND
cấp tỉnh chỉ định, không quy định thực phẩm bổ sung phải đăng ký
công bố, đây là kẽ hở dẫn đến bất cập trong quản lý. Thực tế, trên thị
trường rất nhiều sản phẩm, thực phẩm ghi tên sản phẩm là thực phẩm bổ sung
nhưng ghi công dụng thì rất đa dạng bao gồm cả công dụng y học, bảo vệ sức khỏe
và dùng cho chế độ ăn đặc biệt nhưng doanh nghiệp cho rằng chỉ tự công bố, nên
không thể bắt lỗi loại sản phẩm này vi phạm không đăng ký công bố theo quy định.
3. Các Bộ: Y tế, Công Thương, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ điều chỉnh lại
việc công bố thực phẩm. Cụ thể, tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 4 Nghị định số 15/2018/NĐ-CP (Mẫu số 01 Phụ lục
I Ban hành kèm theo Nghị định số 15/2018/NĐ-CP) phải kết hợp tự công bố an
toàn thực phẩm và công bố tiêu chuẩn áp dụng, công bố hợp quy theo Luật Tiêu
chuẩn, quy chuẩn và Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hàng hóa, ghi đầy đủ chỉ tiêu
chất lượng của sản phẩm.
Theo khoản 3 Điều 12 Luật An toàn thực
phẩm quy định: Thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn phải đăng ký bản
công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị
trường. Chính phủ quy định cụ thể việc đăng ký bản công bố hợp quy và thời hạn
của bản đăng ký công bố hợp quy đối với thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn.
Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 4 Nghị định
số 15/2018/NĐ-CP quy định công bố sản phẩm thực phẩm còn bất cập. Cụ thể,
chỉ nhóm thực phẩm chức năng, cho trẻ dưới 36 tháng tuổi phải đăng ký và được
xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước mới được sản xuất, kinh doanh; Còn lại
các sản phẩm, thực phẩm khác thì tự công bố và sản xuất đưa sản phẩm ra thị trường,
không phải đăng ký, xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy thực phẩm
dùng cho người theo quy định hiện hành quản lý không chặt chẽ bằng quản lý thức
ăn chăn nuôi. Về mặt tích cực mặc dù đã đơn giản hóa thủ tục hành chính cho
doanh nghiệp, nhưng việc quy định tự công bố sản phẩm và nội dung chỉ quy định
công bố các chỉ tiêu an toàn thực phẩm, thông tin về sản phẩm chỉ quy định
thành phần mà buông lỏng quản lý về các chỉ tiêu chất lượng chủ yếu của nhà sản
xuất đưa ra để xác định chất lượng, giá trị sử dụng, công dụng của sản phẩm nhằm
đánh giá chất lượng của sản phẩm (Mẫu số 01 Phụ lục I Ban hành kèm theo Nghị
định số 15/2018/NĐ-CP) nên không có cơ sở để đánh giá chất lượng. Không quy
định cơ quan giám sát, tiếp nhận công bố, hướng dẫn ghi các chỉ tiêu chất lượng
dẫn đến việc doanh nghiệp tự công bố và đưa sản phẩm ra lưu thông trên thị trường
rất khó kiểm soát được về chất lượng.
4. Bộ Công Thương:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 7 Điều 7
Thông tư số 38/2014/TT-BCT ngày 24/10/2014 của Bộ Công Thương nội dung “Công
ty con được thực hiện các công việc theo nội dung ủy quyền của thương nhân đầu
mối kinh doanh xăng dầu dưới hình thức phân phối phải đảm bảo đủ điều kiện
theo quy định tại Điều 13 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, Nghị
định số 95/2021/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung về kinh doanh xăng dầu.”
b) Tham mưu trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 83/2014/NĐ-CP theo hướng bỏ nhóm thương nhân phân phối xăng dầu. Cụ thể, bỏ
cụm từ thương nhân phân phối xăng dầu tại khoản 10 Điều 3
và bãi bỏ các nội dung sau: Khoản 12 Điều 10 và Mục 3 về
thương nhân phân phối xăng dầu.
Theo quy định về kinh doanh xăng dầu:
Tại khoản 18 Điều 9 Nghị định số
83/2014/NĐ-CP ngày 03/9/2014 sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 và tại Nghị định số 95/2021/NĐ-CP ngày 01/11/2021
quy định thương nhân Đầu mối kinh doanh xăng dầu: “Được ủy quyền cho Công ty
con trực thuộc thực hiện một số thẩm quyền kinh doanh xăng dầu theo hướng dẫn của
Bộ Công Thương”.
Tại khoản 7 Điều 7 Thông tư số
38/2014/TT-BCT ngày 24/10/2014 Bộ Công Thương quy định chi tiết thi hành một
số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
quy định tại Thông tư số 17/2021/TT-BCT ngày 15/11/2021 Bộ Công Thương quy định:
“7. Bán buôn xăng dầu cho đơn vị sản xuất, tiêu
dùng trực tiếp.
Công ty con của thương nhân đầu mối kinh doanh
xăng dầu theo quy định tại Luật Doanh nghiệp được thực hiện các công việc theo
nội dung ủy quyền của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, bao gồm:
a) Ký hợp đồng bán xăng dầu cho thương nhân đầu
mối kinh doanh xăng dầu khác và bán xăng dầu cho đơn vị sản xuất, tiêu dùng trực
tiếp;
b) Ký hợp đồng bán xăng dầu cho thương nhân phân
phối xăng dầu;
c) Ký hợp đồng nhượng quyền bán lẻ xăng dầu với
thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu;
d) Ký hợp đồng giao đại lý”.
Qua đó, trên thực tế phát hiện Công ty con của đơn
vị đầu mối xăng dầu kinh doanh xăng dầu dưới hình thức phân phối ký hợp đồng và
mua bán xăng dầu với nhiều thương nhân đầu mối, phân phối khác và cả các đại lý
của công ty mẹ nhưng không có xác nhận đủ điều kiện, không tổ chức hệ thống đại
lý bán lẻ. Vì vậy, Công ty con hoạt động kinh doanh xăng dầu với hình thức là
thương nhân phân phối nhưng không đáp ứng điều kiện quy định tại Điều
13 Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về điều kiện đối với thương nhân phân phối
xăng dầu.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công Thương
phối hợp thống nhất quy định về quản lý đối với dấu hợp quy của sản phẩm khí dầu
mỏ hóa lỏng đóng chai lưu thông trên thị trường có nhãn hàng hóa thì phải gắn dấu
hợp quy mới đúng quy định của pháp luật và công bằng với sản phẩm, hàng hóa
khác.
*Về sử dụng dấu hợp quy khí dầu mỏ hóa lỏng -
LPG chai
Tại khoản 3 Điều 16 Thông tư số
28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về
công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá phù hợp với tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật quy định: “Sử dụng dấu hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa
đã được công bố hợp quy theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư này trước
khi đưa ra lưu thông trên thị trường”. Tuy nhiên, thực tế hiện nay nhiều sản
phẩm LPG chai lưu thông trên thị trường có nhãn hàng hóa nhưng không có dấu hợp
quy theo quy định. Vấn đề xuất phát từ Quy chuẩn QCVN 8:2019/BKHCN về khí dầu mỏ
hóa lỏng không có quy định về gắn dấu hợp quy và quan điểm của cơ quan quản lý
nhà nước về đo lường chất lượng không bắt buộc phải gắn dấu hợp quy do LPG ở dạng
lỏng mà có thể lựa chọn các hình thức thể hiện trên bao bì hoặc trong tài liệu
kỹ thuật kèm theo hoặc trên nhãn gắn trên sản phẩm, hàng hóa ở vị trí dễ thấy,
dễ đọc theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư số
28/2012/TT-BKHCN. Do đó, quan điểm như trên là không đúng quy định pháp luật,
vì pháp luật quy định là không được thực hiện hoặc phải thực hiện, cơ quan
chuyên môn không thể sử dụng từ “có thể”.
III. UBND TỈNH KIÊN GIANG
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với
các Bộ, cơ quan: Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc: Chính phủ có chủ trương, chính sách đồng
bộ từ Trung ương đến địa phương về đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội cho khu
vực biên giới, hỗ trợ về cơ sở vật chất, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi công
việc, giúp cho cư dân biên giới thoát nghèo, ổn định được cuộc sống, từ đó
không bị lợi dụng, tiếp tay cho các đối tượng buôn lậu, vận chuyển hàng lậu,
hàng cấm.
2. Bộ Tư pháp: Chính phủ trình Quốc hội sửa
đổi quy định tại khoản 4 Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, được sửa đổi, bổ sung tại điểm b khoản 65 Điều 1
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020
theo hướng rút ngắn thời hạn xử lý vi phạm trong trường hợp vắng chủ.
3. Các Bộ, cơ quan: Tài chính, Công an, Quốc
phòng, Ban Chỉ đạo 389 quốc gia: Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ tỉnh Kiên Giang
tăng cường lực lượng, phương tiện, trang thiết bị để hoàn thành tốt nhiệm vụ đấu
tranh, ngăn chặn buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và trên
biển trong thời gian tới.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
a) Quan tâm, tăng cường nguồn lực cho tỉnh nhằm sớm
hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá; trong đó, triển khai xây dựng cảng cá động lực
thuộc Trung tâm nghề cá lớn tại Kiên Giang.
b) Bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thủy sản cho Chi Cục trưởng Chi cục Kiểm ngư địa phương vào Nghị
định 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ.
c) Theo Thông báo số 99/TB-VPCP ngày 05/4/2022 của
VPCP về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với
lãnh đạo tỉnh Kiên Giang. Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo: “Về cơ
chế khoanh nợ tàu khai thác thủy sản chờ chuyển đổi ngành nghề: Giao Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan
nghiên cứu, tổng hợp kiến nghị của tỉnh trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2014/NĐ-CP ngày 07/7/2014 và
Nghị định số 17/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ trong Quý 2 năm 2022”, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa nhận được ý kiến
phản hồi từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
5. Bộ Ngoại giao: Sớm đàm phán, ký kết điều
ước quốc tế về hoạch định ranh giới các vùng biển với các quốc gia tiếp giáp
trong khu vực ASEAN.
6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sớm tham mưu
Chính phủ cơ chế, chính sách giãn nợ, cơ cấu lại các nhóm nợ cho chủ tàu khai thác
thủy sản nhằm giảm bớt áp lực về kinh tế trong bối cảnh khó khăn chung, chậm phục
hồi sau đại dịch Covid-19.
IV. UBND TỈNH TIỀN GIANG
1. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương
và Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn:
a) Bổ sung chế tài xử phạt đối với hành vi “Kinh
doanh thực phẩm có sử dụng phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng”.
Bởi vì: Qua công tác giám sát hoạt động kinh
doanh các sản phẩm từ bột và tinh bột của các Hộ tiểu thương tại chợ nhận thấy
sản phẩm mì sợi vàng (sợi lớn và nhỏ), tàu hủ ki lá qua test nhanh hàn the cho
kết quả dương tính với tỷ lệ khá cao nhưng theo quy định tại khoản
4 Điều 5 Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị
định số 124/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ) chỉ quy định chế tài xử
phạt đối với tổ chức/cá nhân vi phạm về hành vi “sử dụng phụ gia thực phẩm
hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử
dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm” mà không có quy định chế tài xử phạt
đối với tổ chức/cá nhân về hành vi kinh doanh thực phẩm.
b) Sửa đổi, bổ sung nội dung quy định cụ thể chế
tài xử lý đối với hành vi vi phạm về sức khỏe của người trực tiếp sản xuất,
kinh doanh thực phẩm.
Tại điểm e khoản 1 Điều 19; điểm đ
Điều 22 Luật An toàn thực phẩm quy định “Tuân thủ quy định về sức khỏe,
kiến thức và thực hành của người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm”
và theo quy định tại khoản 5, khoản 9 Điều 10 Nghị định số
17/2020/NĐ-CP ngày 05/02/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
các Nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý
nhà nước của Bộ Công Thương quy định: “Người trực tiếp sản xuất, kinh doanh
thực phẩm phải bảo đảm yêu cầu về sức khỏe; không bị mắc các bệnh tả, lỵ,
thương hàn, viêm gan A, E, viêm da nhiễm trùng, lao phổi, tiêu chảy cấp”.
Các Nghị định xử phạt trước đây về an toàn thực phẩm đều có quy định cụ thể chế
tài xử lý đối với hành vi vi phạm về sức khỏe của người trực tiếp sản xuất,
kinh doanh thực phẩm, tuy nhiên Nghị định số 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm (được sửa đổi,
bổ sung tại Nghị định số 124/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ) không có
quy định chế tài xử lý đối với hành vi “Không thực hiện khám sức khỏe định kỳ
cho đối tượng thuộc diện phải khám sức khỏe định kỳ; Sử dụng giấy xác nhận đủ sức
khỏe đã quá thời hạn; ...”. Trên thực tế hành vi vi phạm này xảy ra khá phổ
biến tại các cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
2. Bộ Tư pháp:
a) Sửa đổi, bổ sung khoản 5a Điều
125 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 theo hướng việc
bắt buộc niêm phong trừ các trường hợp tang vật cồng kềnh, khó niêm phong, cụ
thể như sau:
Tại khoản 5a Điều 125 Luật Xử lý vi
phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 về niêm phong tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính bị tạm giữ, quy định: “Khi thực hiện việc tạm giữ, người
lập biên bản, người có thẩm quyền tạm giữ phải niêm phong tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính bị tạm giữ, trừ các trường hợp sau đây:
- Động vật, thực vật sống;
- Hàng hóa, vật phẩm dễ hư hỏng, khó bảo quản
theo quy định của pháp luật”.
Việc quy định bắt buộc phải niêm phong
đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ gây khó khăn
cho cơ quan thực thi pháp luật, đặc biệt đối với các tang vật cồng kềnh, khó
niêm phong, như: Động vật sống, cát, đất đá, các loại khoáng sản,...
Mặt khác, trong trường hợp phương tiện vi phạm Luật giao thông đường bộ bị
tạm giữ, đưa vào kho tạm giữ tang vật để quản lý, gặp vướng mắc
trong bảo đảm an toàn phòng cháy, vì phương tiện đã bị niêm phong không
thể rút xăng, dầu còn trong phương tiện; ngoài ra, có nhiều đơn vị không được
trang bị xe chuyên dụng, sẽ gặp khó khăn khi đưa phương tiện bị niêm phong về
kho tạm giữ.
b) Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 4
Điều 126 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020 theo hướng
hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở
hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp không đến nhận thì trong thời hạn
05 ngày làm việc, người có thẩm quyền phải ra quyết định tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính.
Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều
126 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2020: “Trường hợp
không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng
hợp pháp của tang vật, phương tiện thì người ra quyết định tạm giữ phải thông
báo 02 lần trên phương tiện thông tin đại chúng của trung ương hoặc địa phương
nơi tạm giữ tang vật, phương tiện... Hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày thông báo
lần thứ hai nếu người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp
pháp không đến nhận thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, người có thẩm quyền phải
ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính”. Việc quy
định hết thời hạn 01 năm kể từ ngày thông báo lần 02 là quá dài để xử lý một vụ
việc vi phạm hành chính, khiến cho tang vật, phương tiện bị tạm giữ lâu ngày
không được xử lý bị hư hỏng, suy giảm về chất lượng, đặc tính, gây thất thoát
khi thanh lý, bán đấu giá, đồng thời gây mất diện tích về kho bãi, ảnh hưởng đến
đơn vị tạm giữ.
V. UBND TỈNH CÀ MAU
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:
a) Cho phép tỉnh Cà Mau xây dựng Đề án đầu tư kè
phòng chống sạt lở bờ biển, bờ sông trên địa bàn tỉnh Cà Mau và hỗ trợ vốn từ
nguồn dự phòng ngân sách phòng, chống thiên tai của Trung ương để thực hiện, mục
tiêu đến năm 2025 hoàn thành các công trình kè biển những đoạn bờ biển, bờ sông
bị sạt lở nguy hiểm.
b) Cho phép tỉnh Cà Mau đề xuất dự án thí điểm cơ
chế, chính sách xã hội hóa các công trình đầu tư bảo vệ bờ biển như: Chính sách
đặc thù thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các công trình phòng, chống sạt lở bờ
sông, bờ biển: cho phép doanh nghiệp sử dụng một phần diện tích đất đã bị sạt lở
sau khi doanh nghiệp đầu tư xây dựng kè phá sóng phía ngoài, gây bồi, tạo bãi để
“chuyển mục đích sử dụng” nhằm thực hiện các dự án đầu tư như dự án năng
lượng tái tạo, dự án cảng cá, bến cá, dịch vụ hạ tầng nghề cá, dự án phát triển
du lịch, dịch vụ,... gắn với công trình kè chống sạt lở bảo vệ bờ biển vùng Đất
Mũi Cà Mau.
c) Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ vốn để tỉnh Cà Mau thực
hiện đầu tư các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Trong đó: tổng
chiều dài bờ biển bị sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm, khoảng 89km, dự kiến
kinh phí khoảng 3.414 tỷ đồng; sạt lở bờ sông: trước mắt ưu tiên đầu tư các
công trình phòng, chống sạt lở tại các khu vực dân cư tập trung để bảo vệ hạ tầng
bên trong với tổng chiều dài bờ sông bị sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm
khoảng 24km, dự kiến kinh phí thực hiện khoảng 1.958 tỷ đồng; đồng thời sắp xếp
08 khu tái định cư, di dời 1.382 hộ dân đang sinh sống trong các khu vực sạt lở
với kinh phí khoảng 449 tỷ đồng.
d) Hỗ trợ vốn thực hiện Dự án Nâng cao năng lực cho
lực lượng kiểm lâm trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và phòng cháy, chữa cháy
rừng tỉnh Cà Mau giai đoạn 2022 - 2025 với tổng mức đầu tư 70 tỷ đồng
đ) Một số tính năng trên Hệ thống giám sát tàu cá
chưa hoàn thiện. Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo rà
soát, bổ sung để thuận lợi trong quá trình theo dõi, khai thác xử lý dữ liệu (cảnh
báo tàu cá trùng hải trình, tàu cá đứng yên trong thời gian dài, tích hợp nhật
ký khai thác,...).
e) Hướng dẫn địa phương xử lý đối với trường hợp Chủ
tàu, chủ thể vi phạm kiên quyết không đưa tàu cá vào bờ khi tàu cá mất tín hiệu
kết nối trên biển từ 10 ngày trở lên (theo quy định tại điểm
g khoản 3 Điều 44 Nghị định số 26/2019/NĐ-CP).
g) Cơ sở hạ tầng nghề cá trên địa bàn tỉnh chưa được
đầu tư, nâng cấp tương xứng với nhu cầu thực tế; trong đó quy mô và số lượng cảng
cá chỉ định chưa đáp ứng được nhu cầu cập, rời cảng để bốc dỡ sản phẩm thủy sản
khai thác phục vụ công tác truy xuất nguồn gốc. Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tham mưu cấp có thẩm quyền hỗ trợ kinh phí khoảng 749 tỷ đồng,
để tỉnh Cà Mau đầu tư cảng cá phía bờ Nam Sông Đốc, góp phần khắc phục cảnh báo
thẻ vàng của Ủy ban Châu Âu.
h) Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ vốn để tỉnh Cà Mau thực
hiện đầu tư các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Trong đó: tổng
chiều dài bờ biển bị sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm, khoảng 89km, dự kiến
kinh phí khoảng 3.414 tỷ đồng; sạt lở bờ sông: trước mắt ưu tiên đầu tư các
công trình phòng, chống sạt lở tại các khu vực dân cư tập trung để bảo vệ hạ tầng
bên trong với tổng chiều dài bờ sông bị sạt lở đặc biệt nguy hiểm và nguy hiểm
khoảng 24km, dự kiến kinh phí thực hiện khoảng 1.958 tỷ đồng; đồng thời sắp xếp
08 khu tái định cư, di dời 1.382 hộ dân đang sinh sống trong các khu vực sạt lở
với kinh phí khoảng 449 tỷ đồng.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Dự án Xây dựng đê biển
Tây từ Cái Đôi Vàm đến Kênh Năm tỉnh Cà Mau, vay vốn ODA của Cơ quan Phát triển
Pháp (AFD): Tỉnh điều chỉnh chủ trương đầu tư từ tháng 05/2021 đến nay, đã qua
nhiều lần tiếp thu, giải trình làm rõ với các cơ quan Trung ương về việc điều
chỉnh vị trí quy hoạch tuyến đê (dịch chuyển vào bên trong đất liền để tránh
sạt lở; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã 02 lần có ý kiến xác nhận đồng
ý điều chỉnh theo đề xuất của Tỉnh), nhưng vẫn chưa thể phê duyệt điều chỉnh
chủ trương đầu tư. Lý do phải chờ phê duyệt Quy hoạch tỉnh Cà Mau thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến 2050 được duyệt. Kiến nghị Phó Thủ tướng Chính phủ xem
xét, chấp thuận cho Ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau thực hiện quy trình trình Hội đồng
nhân dân tỉnh phê duyệt Báo cáo điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án song song với
thời gian trình phê duyệt Quy hoạch tỉnh Cà Mau thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến
2050, nhằm tranh thủ thời gian thực hiện các bước tiếp theo, để kịp tiến độ thực
hiện ký Hiệp định với AFD trước ngày 31/12/2023 (UBND tỉnh đã có kiến nghị
Thủ tướng Chính phủ tại Báo cáo số 51/BC-UBND ngày 16/2/2023 và Tờ trình số
61/TTr-UBND ngày 24/5/2023).
3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
a) Hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực an sinh xã
hội, lao động và việc làm tỉnh Cà Mau từ Chương trình phục hồi và phát triển
KTXH: (i) Dự án tăng cường cung cấp dịch vụ chất lượng cao chăm sóc người
cao tuổi và người yếu thế trên địa bàn tỉnh Cà Mau với TMĐT 250 tỷ đồng; (ii)
Dự án đầu tư xây dựng Trường Cao đẳng nghề VN - Hàn Quốc Cà Mau với TMĐT
150 tỷ đồng.
b) Hỗ trợ vốn đầu tư xây dựng Trung tâm điều dưỡng
người có công tỉnh Cà Mau với TMĐT 90 tỷ đồng thực hiện trong giai đoạn 2023 -
2025.
4. Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường, Kế hoạch và Đầu tư:
Hiện nay, tỉnh Cà Mau sử dụng nước sinh hoạt chủ yếu
từ khai thác nguồn nước ngầm nên nguy cơ sụt lún đất, ô nhiễm nguồn nước trong
thời gian tới là rất cao. Ngoài ra, trên địa bàn nông thôn, có khoảng 18.000 hộ
dân thiếu và chưa chủ động được nguồn nước sinh hoạt. Do đó, kiến nghị Trung
ương xem xét, hỗ trợ Dự án dẫn nước mặt từ sông Hậu về các tỉnh ven biển và bán
đảo Cà Mau để xử lý và cung cấp nước sinh hoạt cho người dân.
VI. UBND TỈNH HẬU GIANG
1. Các Bộ Công an, Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội và Bộ Y tế: Phối hợp tổ chức tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ
trực tiếp thực hiện công tác cai nghiện ma túy và kiểm soát các hoạt động hợp
pháp liên quan đến ma túy1.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế:
Theo chức năng, nhiệm vụ được giao nghiên cứu, tổng
hợp ý kiến “về chế độ chính sách đối với cán bộ tại cơ sở cai nghiện ma túy,
cơ sở điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; điều chỉnh,
bổ sung quy định về áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”
trong quá trình thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có
liên quan.
VII. UBND TỈNH VĨNH LONG
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
a) Đề nghị Chính phủ điều chỉnh, bổ sung Điều 3 Nghị định số 116/2021/NĐ-CP, cụ thể đối với người cai
nghiện tự nguyện tại cơ sở cai nghiện vi phạm nội quy, quy chế hoặc tự ý kết
thúc hợp đồng cai nghiện sẽ chuyển sang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
b) Ban hành Thông tư về định mức kinh tế kỹ thuật đối
với dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực cai nghiện
ma túy để các địa phương làm cơ sở trình cấp có thẩm quyền giao cơ chế đặt
hàng.
c) Ban hành khung chương trình đào tạo chung cho
các trung tâm và địa phương vận dụng linh hoạt phù hợp điều kiện từng nơi.
1 Các nội dung
trên đã được Lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo tại Hội nghị triển khai công tác phòng,
chống ma túy năm 2023 (Thông báo kết luận số 154/TB-VPCP ngày 26/4/2023 của
Văn phòng Chính phủ).