BỘ TƯ PHÁP
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
01/BC-BTP
|
Hà Nội, ngày 03 tháng 01 năm 2017
|
BÁO
CÁO
TỔNG
KẾT CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2016 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC NĂM
2017
Năm 2016, năm diễn ra nhiều sự kiện
quan trọng của đất nước như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021...
Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế, thương mại toàn cầu thấp hơn dự báo; tình
hình biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp; biến đổi khí hậu ngày càng tác động
mạnh; ở trong nước, thiên tai, bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, sự cố ô nhiễm
môi trường biển,… đã kéo theo những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển
kinh tế nước ta, gây khó khăn rất lớn cho sản xuất và đời sống người dân. Nhưng
với sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt
của Chính phủ với chủ trương xây dựng Chính phủ hành động, phục vụ, trong sạch
và liêm chính, cùng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị, hầu hết các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước đã đạt được
những kết quả tích cực.
Đối với công tác tư
pháp, thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, ngay từ đầu năm, Bộ Tư
pháp đã ban hành Chương trình hành động của ngành Tư pháp và tổ chức triển khai
thực hiện, trong đó tập trung chỉ đạo 10 nhóm nhiệm vụ lớn, với 112 đầu nhiệm vụ
cho Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban
nhân dân (UBND) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở đó, Bộ,
Ngành Tư pháp cùng với các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã nỗ lực vượt khó, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần
quan trọng vào các thành tựu chung về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và
đối ngoại của đất nước.
Tổng kết công tác tư pháp năm 2016,
toàn Ngành nghiêm túc đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ, làm rõ những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân, để từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu của công tác tư pháp năm 2017.
Phần thứ nhất:
TÌNH
HÌNH CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2016
I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU
HÀNH
1. Kết quả
Năm 2016, công tác chỉ đạo, điều hành
của Bộ, Ngành tiếp tục bám sát với công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh
tế - xã hội của Quốc hội, Chính phủ và chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Các Bộ, ngành, địa phương đã kịp thời ban hành, phê duyệt và chỉ
đạo tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch công tác tư pháp/pháp chế của cơ quan,
địa phương.
- Bộ, Ngành Tư pháp đã kịp thời chỉ đạo
triển khai các nhiệm vụ gắn với các sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng của
đất nước, như: (1) Triển khai Nghị quyết và các Văn kiện do Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII qua việc phổ biến Văn kiện và xây dựng các chương trình,
kế hoạch để từng bước cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, định hướng trong
xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân; về chủ trương chuyển trọng tâm chiến lược từ xây dựng pháp luật sang
hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật được nêu trong Văn kiện; (2) Bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Bộ, Ngành
Tư pháp đã tích cực chỉ đạo và tổ chức thực hiện các đợt cao điểm tuyên
truyền, phổ biến Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp đến các tầng lớp nhân dân, qua đó, góp phần vào thành công chung của cuộc
bầu cử.
- Trên cơ sở các công việc trọng tâm
theo yêu cầu mới của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, toàn Ngành đã kịp thời bám
sát và hành động với quyết tâm cao nhất, kiên quyết đổi mới theo phương thức
lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ nhiệm kỳ mới về xây dựng Chính phủ kiến tạo,
liêm chính và phục vụ nhân dân, trong đó trọng tâm là gỡ bỏ rào cản, hoàn thiện
thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển đất nước, kiên quyết loại bỏ các
quy định pháp luật không rõ ràng, không minh bạch. Bộ Tư pháp đã kịp thời ban
hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP, Nghị quyết số
35/NQ-CP của Chính phủ với nhiều nhiệm vụ, giải pháp về cải thiện môi trường
kinh doanh, tạo điều kiện tối đa cho người dân, doanh nghiệp, nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia.
- Triển khai Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày
05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ
quan hành chính nhà nước các cấp, Bộ Tư pháp đã kịp thời chỉ đạo các cơ quan,
đơn vị trong Ngành quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị; tổ chức rà
soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các nội quy, quy chế, quy trình làm việc của
cơ quan, đơn vị; tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo,
kiểm tra việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính...
Đối với việc tổ chức các cuộc họp, Bộ,
Ngành Tư pháp đã có nhiều đổi mới, như: tăng cường hội nghị trực tuyến, giảm thời
gian các buổi họp, qua đó giúp tiết kiệm được thời gian, kinh phí, mở rộng
thành phần dự họp. Đặc biệt, thực hiện chủ trương nâng cao hiệu quả, chất lượng,
giảm thiểu số lượng cuộc họp, các chuyến công tác địa phương
không cần thiết, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch về tổ chức các hội nghị, hội
thảo, tọa đàm, trong đó đã thực hiện rà soát, lồng ghép và cắt giảm khoảng
20% số hội nghị, hội thảo, tọa đàm và các chuyến công tác địa phương trong
năm 2016 so với đề xuất ban đầu của các đơn vị.
- Nhằm tăng cường phối hợp và tháo gỡ
những vướng mắc trong công tác, Bộ Tư pháp đã chủ động, cùng tổ chức các hội
nghị với một số Bộ, ngành. Trong những tháng cuối năm 2016, Bộ đã tổ chức làm
việc, báo cáo công tác và xây dựng, ký kết Quy chế phối hợp với Ban Nội
chính Trung ương; tổ chức làm việc với Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Nội vụ và ban hành các Kết luận liên ngành. Qua đó, tăng cường mối
quan hệ công tác không chỉ ở Trung ương, mà còn giúp cho các cơ quan tư pháp ở
địa phương thuận lợi hơn trong việc phối hợp với các ngành liên quan.
2. Khó khăn, hạn chế
- Công tác hướng dẫn nghiệp vụ, chuyên
môn, trả lời kiến nghị của các đơn vị vẫn còn chậm, các địa phương kiến nghị phải
đề xuất nhiều lần, có trường hợp chưa bám sát nội dung kiến nghị.
- Việc kiểm tra công tác ở địa phương
còn chồng chéo về nội dung, địa bàn; yêu cầu các địa phương báo cáo còn nhiều;
việc tổ chức các hội nghị, hội thảo còn tập trung nhiều vào những tháng cuối
năm, đã ảnh hưởng không nhỏ đến thời gian giải quyết công việc chung.
II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC
TRONG CÁC LĨNH VỰC CỤ THỂ
1. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm
tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
1.1. Kết quả
Thể chế cho công tác xây dựng, thẩm định,
kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL tiếp tục được hoàn thiện, bảo đảm sự
thống nhất và kịp thời với việc xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số
34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong năm 2016, công tác xây dựng,
thẩm định, kiểm tra VBQPPL là những lĩnh vực được xác định trọng tâm hàng đầu của
Bộ, Ngành Tư pháp và đã đạt được nhiều kết quả tích cực, cụ thể:
a) Công tác xây dựng VBQPPL
- Bộ Tư pháp cùng các Bộ, ngành đã
giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua 12 luật1, nghị
quyết; (riêng Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ trình Quốc hội thông qua 02 luật và
cho ý kiến với 03 luật khác), trong đó có những dự án luật quan trọng để triển
khai thi hành Hiến pháp 2013.
- Đối với công tác xây dựng VBQPPL thuộc
thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và của các Bộ, ngành:
Các Bộ, cơ quan đã trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành hoặc ban hành
theo thẩm quyền 1.087 văn bản (tăng 84 văn
bản so với năm 2015), trong đó có 144 văn bản quy định chi tiết thi hành các luật,
pháp lệnh (61 nghị định, 03 quyết định, 72 thông tư, 8 thông tư liên tịch) và
chùm 50 nghị định quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, đáp ứng yêu cầu thực
thi Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư kinh
doanh.
Thực hiện công tác theo dõi tình hình
xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh,
hàng tháng, Bộ Tư pháp đều phối hợp với các Bộ, ngành quyết tâm giảm nợ đọng
VBQPPL thông qua việc đôn đốc hoặc tổ chức làm việc với các Bộ, ngành nợ đọng
nhiều; có báo cáo Chính phủ về tình hình xây dựng, ban hành văn bản quy định
chi tiết trình Chính phủ tại các Phiên họp thường kỳ. Nhờ đó, tình trạng nợ đọng
văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh đã giảm mạnh so với
trước (giảm 21 văn bản so với năm 2015), đặc biệt, số văn bản nợ đọng của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm gần đây (hiện
chỉ còn nợ 02 văn bản).
- Tại các địa phương, đã ban hành 4.036
VBQPPL cấp tỉnh (tăng 795 văn bản so với năm 2015); 5.968 VBQPPL cấp huyện
(giảm 12 văn bản so với năm 2015).
Biểu đồ số 01: Số
lượng VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và HĐND, UBND cấp tỉnh
ban hành từ 2015-2016
b) Công tác thẩm định, kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật
- Công tác thẩm định
VBQPPL tiếp
tục được chú trọng nâng cao chất lượng, cơ bản bảo đảm tiến độ. Toàn Ngành Tư
pháp đã tổ chức thẩm định 11.885 dự thảo VBQPPL (tăng
24,7% so với năm 2015), trong đó có 5.298 dự thảo VBQPPL do các Sở Tư
pháp và 5.417 dự thảo do các Phòng Tư pháp thẩm định; Tổ chức Pháp chế
các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã thẩm định 880 văn bản; Bộ Tư pháp đã thẩm định
291 dự thảo VBQPPL và 92 điều ước quốc tế, đặc biệt là Bộ đã đẩy
nhanh tiến độ và hoàn thành thẩm định đối với 50/50 nghị định về điều kiện đầu
tư kinh doanh theo Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp, với việc đề nghị cắt giảm
nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
Việc góp ý VBQPPL được toàn Ngành chú
trọng thực hiện, ngày càng đi sâu vào chất lượng, nhất là bảo đảm tính khả thi
của văn bản. Riêng tại Bộ Tư pháp, đã thực hiện góp ý 1.017 dự thảo văn
bản, trong đó có 306 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế.
- Công tác kiểm tra VBQPPL: Các Bộ, cơ
quan, địa phương đã tiếp nhận kiểm tra theo thẩm quyền 38.134 VBQPPL (giảm
khoảng 10% so với năm 2015); qua kiểm tra, bước đầu phát hiện 659 văn bản có dấu
hiệu trái nội dung, thẩm quyền (giảm 522 văn bản so với năm 2015).
Công tác kiểm tra, xử lý văn bản theo
chuyên đề, địa bàn và theo các nguồn thông tin được một số Bộ, địa phương chú
trọng thực hiện2. Đối với Bộ Tư pháp, đã kịp thời có ý
kiến với một số văn bản được dư luận quan tâm. Bộ đã kiểm tra 3.034 văn
bản (gồm 680 văn bản của các Bộ, cơ quan, 1.958 văn bản của địa phương), tăng
643 văn bản so với năm 2015; bước đầu phát hiện 124 văn bản trái pháp luật
về nội dung, thẩm quyền ban hành (36 văn bản của các Bộ, ngành, 88 văn bản của
địa phương). Trên cơ sở các Thông báo/Kết luận kiểm
tra, đến nay, có 33 văn bản đã được xử lý; các văn bản còn lại đang được Bộ Tư
pháp theo dõi, đôn đốc cơ quan ban hành xử lý theo quy định của pháp luật.
- Công tác rà soát VBQPPL được
các Bộ, ngành, địa phương thực hiện thường xuyên theo quy định, qua đó kịp thời
phát hiện, tự xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý văn bản hết hiệu
lực thi hành, các quy định chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không còn phù hợp với văn
bản mới được ban hành. Cùng với đó, nhiều Bộ, ngành, địa phương đã tích cực thực
hiện việc rà soát văn bản về đầu tư, kinh doanh3, tích cực rà soát, lập
và công bố Danh mục VBQPPL hết hiệu lực toàn bộ hoặc một phần thuộc lĩnh vực quản
lý nhà nước của các Bộ, cơ quan, góp phần giúp cho hệ thống pháp luật được minh
bạch, dễ tiếp cận, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp và cơ quan nhà nước
trong áp dụng.
- Công tác pháp điển hệ thống QPPL,
các Bộ, ngành đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp triển khai thực hiện công tác
pháp điển, bảo đảm chất lượng, kết quả pháp điển một số đề mục hoàn thành vượt
tiến độ đề ra4. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang hoàn thiện hồ
sơ để đề nghị Chính phủ thông qua 36 đề mục.
Để tạo thuận lợi, công khai, minh bạch
trong công tác xây dựng, thẩm định VBQPPL, pháp điển hệ thống QPPL, Bộ Tư pháp
cũng đã xây dựng và đưa vào vận hành Trang thông tin điện tử về Xây dựng pháp
luật, hoàn thành xây dựng Cổng thông tin điện tử pháp điển và giới thiệu, đưa
vào sử dụng Phần mềm pháp điển từ tháng 4/2016.
1.2. Khó khăn, hạn chế
- Việc triển khai Luật BHVBQPPL 2015
và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP , nhất là về một số nội dung mới liên quan đến lập,
thẩm định đề nghị xây dựng VBQPPL; các quy định liên quan đến TTHC trong
VBQPPL... còn lúng túng; một số khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai các
quy định mới của Luật BHVBQPPL 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chưa được
tháo gỡ... Trong việc thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, vẫn còn
một số dự án luật quan trọng triển khai thi hành Hiến pháp phải xin lùi, rút
(như Luật biểu tình, Luật Công an xã, Luật phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)...).
Chất lượng thẩm định dự thảo văn bản và chất lượng của một số VBQPPL chưa cao,
còn có sai sót. Còn nhiều Bộ, ngành, địa phương chưa bám sát các kế hoạch xây dựng
các VBQPPL, chẳng hạn việc xây dựng các nghị định về điều kiện đầu tư, kinh
doanh, mặc dù có thời gian chuẩn bị khá lâu, nhưng nhiều cơ quan chỉ xây dựng,
trình vào giai đoạn cuối, ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.
- Tình trạng nợ đọng văn bản quy định
chi tiết, hướng dẫn thi hành vẫn còn, đặc biệt nợ ban hành thông tư và có văn bản
nợ ban hành từ năm 2015 (đến nay, còn nợ 14 thông tư); nhiều văn bản quy định
chi tiết (91 văn bản) chưa đảm bảo có cùng hiệu lực với luật, pháp lệnh.
- Một số Bộ, cơ quan, địa phương chưa
phát huy hiệu quả công tác kiểm tra, tự kiểm tra; chưa thường xuyên gửi văn bản
đến cơ quan kiểm tra theo quy định; việc xử lý VBQPPL trái pháp luật còn hình
thức, mang tính đối phó, chưa được thực hiện dứt điểm. Chất
lượng và hiệu quả công tác rà soát văn bản còn thấp.
2. Công tác cải cách hành chính, kiểm
soát thủ tục hành chính
2.1. Kết quả
- Năm 2016, công tác cải cách hành
chính (CCHC) được triển khai toàn diện, trong đó chú trọng vào 03 lĩnh vực là cải
cách thể chế, cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hành chính. Để tiếp tục thực
hiện CCHC có hiệu quả, Bộ Tư pháp đã thực hiện đo lường sự hài lòng của người
dân, tổ chức về sự phục vụ của Bộ đối với lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm để
nắm bắt được yêu cầu, mong muốn của người dân, tổ chức, qua đó có những biện
pháp cải thiện chất lượng phục vụ và cung cấp dịch vụ công.
- Với sự quan tâm đặc biệt của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ mới và của các Bộ, ngành, địa phương, công
tác kiểm soát thủ tục hành chính (TTHC) được coi là nhiệm vụ trọng tâm của các
cơ quan, các cấp chính quyền. Trên cơ sở đề xuất của Bộ Tư pháp, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 45/2016/QĐ-TTg ngày 19/10/2016 về tiếp nhận
hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích. Đây là một
sáng kiến cải cách, tiết kiệm chi phí, tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong
việc thực hiện TTHC, đồng thời là một trong các giải pháp phòng, chống tiêu cực,
nhũng nhiễu.
Các Bộ, ngành, địa phương chú trọng
đánh giá tác động của các TTHC; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và
đăng tải công khai trên Cổng/Trang thông tin điện tử của Bộ, ngành, địa phương
các TTHC; hoàn thành việc đơn giản hóa 4.527/4.723 thủ tục hành chính đã
được Chính phủ phê duyệt tại 25 Nghị quyết chuyên đề (đạt tỷ lệ 95,85%). Riêng
Bộ Tư pháp đã thực hiện thẩm định 783 TTHC, qua đó, đề nghị không quy định
141 thủ tục, sửa đổi 537 thủ tục; tham gia ý kiến đối với 594
TTHC.
Tiếp tục thực hiện Kế hoạch đơn giản
hóa TTHC trọng tâm ban hành kèm theo Quyết định số 08/QĐ-TTg ngày 06/01/2015 của
Thủ tướng Chính phủ, đến nay, các Bộ, ngành đã thực hiện chuẩn hóa 3.589/4.008
TTHC (đạt 89,5% so với mục tiêu); công bố sau khi chuẩn hóa 3.495/3.589 thủ tục
(đạt 87%); công khai TTHC sau khi chuẩn hóa trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về
TTHC là 3.176/3.589 thủ tục.
- Thực hiện vai trò là cơ quan Thường
trực Hội đồng Tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan Thường trực
của Ban chỉ đạo Đề án 896, Bộ Tư pháp đã nghiên cứu, xử lý các đề xuất đơn giản
hóa quy định, TTHC đối với một số lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của các Bộ:
Công thương, Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Y tế; chỉ đạo thực hiện rà
soát độc lập 2.105 TTHC có chứa thông tin công dân để kiến nghị phương án đơn
giản hóa. Kết quả rà
soát, đơn giản hóa TTHC trong một số lĩnh vực đã có tác động tích cực đến người
dân, doanh nghiệp như bảo hiểm, công thương, y tế5.
2.2. Khó khăn, hạn chế
Việc thực hiện một số nhiệm vụ về cải
cách TTHC chưa bảo đảm tiến độ; tình trạng Bộ, ngành, địa phương chậm công khai
TTHC trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC còn nhiều; trong việc giải quyết TTHC,
vẫn còn nhiều hồ sơ tồn đọng, quá hạn; nhiều Bộ, địa phương chưa quan tâm đến
việc tổ chức triển khai, ứng dụng các sáng kiến cải cách TTHC trong thực tiễn.
3. Công tác thi hành án dân sự
3.1. Kết quả
Bộ đã chỉ đạo Hệ thống Thi hành án dân
sự (THADS) nỗ lực, phấn đấu thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu đã được Quốc hội,
Chính phủ giao, qua đó đã góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quyền con người, quyền công dân và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Toàn Hệ thống THADS đã chú trọng nâng cao
hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật hành chính, tập
trung giải quyết các vụ việc thu hồi tài sản cho nhà nước, các vụ việc liên
quan đến tín dụng ngân hàng. Bộ Tư pháp và Hệ thống THADS cũng đã tổ chức thành
công các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống và đón nhận Huân chương
lao động hạng Nhất, nổi bật là cuộc thi Chấp hành viên giỏi toàn quốc và Lễ
kỷ niệm với sự tham dự và phát biểu chỉ đạo của Chủ tịch nước. Các kết quả cụ
thể như sau:
a) Thể chế cho công tác THADS, thi
hành án hành chính tiếp tục được chú trọng hoàn thiện. Bộ Tư pháp đã trình cơ
quan có thẩm quyền ban hành, phối hợp ban hành, ban hành theo thẩm quyền 01 Nghị
định6,
05 Thông tư liên tịch7, 02 Thông tư8.
Bộ Quốc phòng đã ban hành 02 Thông tư9; thực hiện việc rà soát, tổng hợp các
khó khăn, vướng mắc trong THADS có liên quan tới bất động sản đã bán đấu giá;
rà soát, nghiên cứu phương án đơn giản hóa các TTHC liên quan, tạo thuận lợi
cho công tác thi hành án.
Tại địa phương, các Cục THADS đã tham
mưu cho Tỉnh/Thành ủy, UBND cùng cấp ban hành Chỉ thị hoặc văn bản chỉ đạo,
tăng cường sự lãnh đạo chính trị, qua đó thể hiện sự quan tâm sâu sát của cấp ủy
Đảng, phát huy vai trò phối hợp của các cấp, các ngành, góp phần huy động sức mạnh
của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả đối với công tác THADS. Ban
Chỉ đạo THADS cấp tỉnh và cấp huyện đã được củng cố, kiện toàn và hoạt động có
hiệu quả, nhất là trong việc chỉ đạo thi hành án, tổ chức cưỡng chế đối với những
vụ án lớn, những vụ việc khó khăn, phức tạp.
b) Kết quả THADS năm 2016 (từ ngày
01/10/2015 đến ngày 30/9/2016):
- Về việc: Tổng số thụ
lý là 836.054 việc, trong đó, số có điều kiện thi hành là 675.429
việc. Trong số có điều kiện thi hành đã thi hành xong 530.428 việc, đạt tỷ
lệ 78,53%, vượt chỉ tiêu được giao 8,53%. Một số địa phương đạt kết quả
cao về việc là: Điện Biên (97,33%), Hà Nam (92,3%), Quảng Trị (91,68%), Nam Định
(88,82%), Đồng Tháp (84,75%), Đắk Lắk (82,84%)...
- Về tiền: Tổng số thụ
lý là 144.524 tỷ 837 triệu 483 nghìn đồng, trong đó, số có điều
kiện thi hành là 86.253 tỷ 902 triệu 891 nghìn đồng. Trong số có điều kiện
thi hành đã thi hành xong 29.097 tỷ 865 triệu 317 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 33,74%,
vượt chỉ tiêu được giao 3,74%. Một số địa phương đạt kết quả cao về tiền là: Hải
Dương (83,40%), Lạng Sơn (77,76%), Quảng Nam (62,98%), Hà Giang (62,62%)...
Biểu đồ số
02: Kết quả thi hành án dân sự từ 2014-2016
- Về kết quả xét
miễn, giảm thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án tổng số
7.795 việc, với số tiền là 186 tỷ 335 triệu 875 nghìn đồng. Cơ quan
có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 7.171 việc, tương ứng với số tiền
là 152 tỷ 757 triệu 564 nghìn đồng.
- Về kết quả tổ
chức cưỡng chế thi hành án, đã ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án đối với 11.901 trường hợp. Sau khi có Quyết định cưỡng chế, có
1.428 trường hợp đương sự tự nguyện thi hành án.
- Về số vụ việc
đã kê biên, bán đấu giá không thành, tổng số vụ việc đã kê biên tài sản, định
giá lại và bán đấu giá nhưng chưa xử lý được là 11.084 việc, tương ứng với số tiền
là 31.866 tỷ 175 triệu 380 nghìn đồng (trong đó, số việc bán đấu
giá từ 3 lần trở lên là 7.651 việc, tương ứng với số tiền là 15.235 tỷ 589 triệu
267 nghìn đồng).
c) Kết quả thi hành án hành chính: Đã
có văn bản đôn đốc đối với 274/274 việc, đạt tỷ lệ 100%. Trong số 274 việc
đã có văn bản đôn đốc, có 179 việc đã thi hành xong (đạt tỷ lệ 65,33%).
d) Công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo được chỉ đạo sát sao, kịp thời giải quyết ngay tại cơ sở, hạn chế tình trạng
khiếu kiện vượt cấp. Toàn Hệ thống đã tiếp nhận 7.559 đơn khiếu nại và 1.263
đơn tố cáo (giảm 303 đơn so với năm 2015), tương ứng 7.361 việc, trong đó số việc
thuộc thẩm quyền là 3.517 việc; đã giải quyết được 3.393/3.517 việc,
đạt tỷ lệ 96,44%, đang tiếp tục giải quyết 124 việc.
đ) Công tác tổ chức cán bộ trong Hệ thống
THADS được tập trung kiện toàn đối với những địa bàn còn hạn chế, yếu kém; điều
chỉnh chỉ tiêu biên chế căn cứ trên số lượng án, tăng cường, biệt phái Chấp
hành viên, công chức cho các địa bàn quá tải công việc, từng bước thực hiện
luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác trong toàn Hệ thống THADS. Bộ Tư pháp
đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp và lần đầu tiên thi
tuyển công chức tập trung cho toàn Hệ thống THADS. Cả nước hiện có 4.044
Chấp hành viên, 659 Thẩm tra viên, 1.760 Thư ký thi hành án.
3.2. Khó khăn, hạn chế
Số việc và tiền có điều kiện thi hành
phải chuyển kỳ sau còn nhiều (226.408 việc và trên 83.374 tỷ đồng). Việc thực
hiện trình tự, thủ tục về THADS vẫn còn nhiều sai sót; vai trò của Ban chỉ đạo
THADS ở một số nơi còn chưa được phát huy. Vi phạm trong công tác THADS còn nhiều,
số lượng công chức bị xử lý kỷ luật tăng so với cùng kỳ, đã phát hiện và xử lý
kỷ luật 96 trường hợp (tăng 14 trường hợp so với cùng kỳ năm 2015).
4. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành
chính, theo dõi thi hành pháp luật
4.1. Kết quả
Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Chính phủ
ban hành Nghị định số 20/2016/NĐ-CP ngày 30/3/2016 quy định cơ sở dữ liệu quốc
gia về XLVPHC và đang tích cực hoàn thiện để trình Chính phủ Nghị định sửa đổi,
bổ sung một số điều Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Các Bộ, ngành, đã
tích cực hoàn thiện thể chế về XLVPHC và từng bước quan tâm chỉ đạo, nâng cao
chất lượng công tác XLVPHC10.
Theo báo cáo của các Bộ, ngành và các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, năm 201611, có 9.587.573
vụ vi phạm hành chính bị phát hiện, đã xử phạt 9.295.058 vụ; số vụ có dấu
hiệu tội phạm được chuyển để truy cứu trách nhiệm hình sự là 6.631 vụ; tổng
số tiền phạt, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu hơn 10.380 tỷ đồng, về việc áp dụng các biện pháp
xử lý hành chính, có 30.066 đối tượng bị đề nghị áp dụng các biện pháp xử
lý hành chính; trong đó có 15.265 đối tượng bị đề nghị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 14.801 đối tượng bị đề nghị áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính do TAND quyết định.
Công tác TDTHPL được chú trọng, gắn với
các sự kiện, các “điểm nóng” được dư luận quan tâm. Các Bộ, ngành, địa phương
đã ban hành kế hoạch và tổ chức TDTHPL trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý12
và lĩnh vực được xác định trọng tâm của TDTHPL trong năm 2016 (theo Nghị quyết
số 98/2015/QH13 của Quốc hội) là pháp luật về nhà ở xã hội, nhà ở cho người có
công, vùng thường xuyên bị thiên tai. Bộ Tư pháp đã tổ chức kiểm tra tình hình
thi hành pháp luật tại một số Bộ, ngành (Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học và Công nghệ
và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...) và địa phương (Lạng Sơn, Bắc Giang, Cần Thơ, Hậu
Giang, Đà Nẵng, Bình
Dương, Đồng Nai, Hà Nội); qua đó kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc trong
triển khai thực hiện công tác TDTHPL. Theo thống kê, các địa phương đã thực hiện
14.155 cuộc thanh tra và 2.067 cuộc kiểm tra về tình hình thi hành pháp luật;
548 cuộc điều tra, khảo sát về công tác TDTHPL.
4.2. Khó khăn, hạn chế
Công tác quản lý XLVPHC còn nhiều khó
khăn, nhất là về phương thức tổ chức thực hiện; một số quy định của Luật XLVPHC
và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật còn chưa phù hợp với
thực tiễn, tính khả thi chưa cao, nhiều nội dung còn phức tạp; chưa xây dựng được
Cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính. Hiệu quả công tác TDTHPL ở một số Bộ,
ngành, địa phương chưa có nhiều chuyển biến rõ nét, chưa phản ánh đúng những
khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành pháp luật.
5. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
hòa giải ở cơ sở; báo chí, xuất bản
5.1. Kết quả
a) Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
hòa giải ở cơ sở
- Bộ, Ngành Tư pháp đã thực hiện sơ kết
03 năm triển khai Luật PBGDPL và tổng kết 04 năm thực hiện Quyết định
409/QĐ-TTg và 03 Đề án về PBGDPL, tạo tiền đề cho việc đề xuất các Chương
trình, Đề án về PBGDPL 2017-2021; tổng kết việc thực hiện pháp luật về xây dựng,
thực hiện hương ước, quy ước; đặc biệt, lần đầu tiên, tiếp cận pháp luật trở
thành một tiêu chí thành phần của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới. Đội ngũ
người làm công tác PBGDPL tiếp tục được rà soát, củng cố, kiện toàn. Đến nay, cả nước
đã có 23.992 Báo cáo viên pháp luật (cấp Trung ương: 1.552 người; cấp tỉnh:
6.117 người; cấp huyện: 16.323 người) và 142.197 tuyên truyền viên pháp
luật cấp xã.
Các Bộ, ngành, địa phương cũng đã tổ
chức nhiều Hội nghị tập huấn, phổ biến văn bản pháp luật mới, nhất là tổ chức
các đợt cao điểm tuyên truyền phổ biến Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng
hành chính, pháp luật về an toàn giao thông đường bộ... Năm 2016, cả nước thực
hiện 1.416.808 cuộc tuyên truyền cho 84.515.720 lượt người; phát
miễn phí 58.497.497 tài liệu PBGDPL.
Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Thông
tin và Truyền thông tổ chức thành công cuộc thi viết về
gương sáng trong phòng chống tham nhũng; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tập
đoàn Egame và 03 tỉnh, thành phố Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, tỉnh
Đồng Tháp phát động và tổ chức thành công cuộc thi trực
tuyến tìm hiểu kiến thức pháp luật dành cho học sinh trung học phổ thông năm
2016, thu hút sự tham gia của gần 30 ngàn học sinh. Các hoạt động PBGDPL trên
các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền
hình Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam tiếp tục phát huy hiệu quả, liên tục cập
nhập, đưa tin về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến
với đồng bào, nhân dân cả nước. Bên cạnh phương thức PBGDPL truyền thống, các Bộ,
ngành, địa phương cũng đã bước đầu có những đổi mới13 trong
công tác này.
- Công tác hòa giải ở cơ sở tiếp tục
thể hiện vai trò quan trọng trong gắn kết cộng đồng dân cư, bảo đảm ổn định trật
tự an toàn cơ sở; Bộ, Ngành Tư pháp đã tổ chức thành công Hội thi hòa giải viên
giỏi toàn quốc lần thứ III tại cả 04 cấp (toàn quốc, khu vực, tỉnh, huyện), là điểm
nhấn của Ngày pháp luật 2016. Theo thống kê, hiện cả nước có 111.155 Tổ
hòa giải, với 668.658 hòa giải viên; trong năm, cả nước tiếp nhận 171.428
vụ việc hòa giải (giảm 6,65% so với năm 2015), trung bình tỷ lệ hòa giải thành
đạt khoảng 78,87% (tăng 0,65% so với năm 2015). Một số địa phương có tỷ
lệ hòa giải thành
cao (như Hà Nam - 95%, Hậu Giang - 90,97%, Lai Châu, Hòa Bình - 90%,
Bến Tre - 89%, Yên Bái - 88,6%, Quảng Bình - 88%, Sơn La - 87%, Bình Dương -
87%, Lào Cai - 86,47%, An Giang - 86,4%, Long An, Quảng Trị - 86%,...).
b) Công tác báo chí, xuất bản
- Các ấn phẩm, tin bài của Báo Pháp luật
Việt Nam và Tạp Chí Dân chủ - Pháp luật tiếp tục được đổi mới nội dung, hình thức
bằng việc xây dựng thêm các chuyên trang, chuyên mục mới nhằm thực hiện tốt nhiệm
vụ thông tin, tuyên truyền kịp thời thông tin về các sự kiện chính trị - pháp
lý của đất nước, các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, Ngành. Các xuất bản phẩm của
Nhà xuất bản Tư pháp đều bám sát chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, bảo đảm chất lượng về nội dung, hình thức đã đáp ứng
ngày càng tốt nhu cầu của bạn đọc, phục vụ tốt yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ
Tư pháp, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ pháp luật, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Bộ Tư pháp đã kịp thời, chủ động
cung cấp thông tin cho báo chí, các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp về các
chính sách pháp luật, các giải pháp thực hiện nhiệm vụ. Việc tổ chức họp báo
thường kỳ tiếp tục được duy trì, tập trung thông tin kết quả công tác tư pháp,
các vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm. Công tác thông cáo báo chí về
VBQPPL do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành được thực hiện hàng tháng. Bộ
Tư pháp đã ban hành mới Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của
Bộ Tư pháp và Hệ thống Thi hành án dân sự, trong đó, bên cạnh việc quy định
phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí tại Bộ Tư pháp, đã bổ sung yêu cầu Cục
trưởng các Cục THADS tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí theo định kỳ và đột
xuất. Cùng với đó, Bộ đang tích cực xây dựng Đề án tăng cường công tác cung cấp
thông tin của Bộ, Ngành Tư pháp.
5.2. Khó khăn, hạn chế
- Nội dung, hình thức PBGDPL tuy đã đổi
mới nhưng vẫn chưa sát với đặc thù của từng địa bàn, lĩnh vực, nhóm đối tượng
hoặc chưa gắn liền với trọng tâm về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của
từng địa phương, số lượng Chương trình, Đề án về PBGDPL nhiều với mục tiêu lớn
nhưng thiếu nguồn lực bảo đảm, tình trạng trùng lắp, chồng chéo vẫn còn và chậm
tổng kết việc thực hiện. Việc theo dõi, nắm bắt thông tin về thực hiện Luật Hòa
giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa đầy đủ, nhất là kinh
phí hỗ trợ và huy động nguồn lực xã hội tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
- Một số tin, bài của Báo Pháp luật Việt
Nam chưa sát với thực tế, có ý kiến phản ánh từ cơ quan có thẩm quyền, hoặc
chưa thực sự bám sát với nhiệm vụ chung của Bộ, Ngành.
6. Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng
thực, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà
nước
6.1. Kết quả
a) Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực
- Công tác hộ tịch là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Ngành trong năm 2016, được các Bộ, ngành liên
quan và các địa phương tập trung thực hiện và có nhiều khởi sắc. Bộ Tư pháp đã
chủ động tập huấn, kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương trong việc triển
khai thi hành Luật hộ tịch và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Luật; phối hợp với Bộ Ngoại giao ban hành Thông tư liên tịch số
02/2016/TTLT-BTP-BNG ngày 30/6/2016 hướng dẫn việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại
Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Ở các địa
phương, Sở Tư pháp đã tích cực tham mưu cho chính quyền áp dụng nhiều sáng kiến,
đổi mới hiệu quả trong công tác hộ tịch, tạo thuận lợi cho người dân (Sở Tư
pháp thành phố Đà Nẵng đã tham mưu UBND thành phố ban hành và thực hiện Đề án
triển khai thí điểm thực hiện trao Giấy khai sinh, Bảo hiểm y tế, hộ khẩu tại
gia đình trẻ em trên địa bàn thành phố, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của
người dân).
Năm 2016, cả nước đã thực hiện đăng ký
khai sinh mới cho 1.880.068 trường hợp (giảm 87.491 trường hợp, tương
đương giảm 4,44% so với năm 2015), đăng ký khai sinh lại cho 564.200 trường
hợp (tăng 8,92% so với năm 2015) và có 4.867 trường hợp khai sinh có yếu
tố nước ngoài; khai tử cho 567.403 trường hợp (tăng 10,7% so với năm
2015); đăng ký kết hôn cho tổng số 758.364 cặp (giảm 2,15% so với năm
2015), trong đó có 16.156 trường hợp có yếu tố nước ngoài (tăng 13,63%
so với năm 2015). Số liệu trên cho thấy, trong khi số lượng đăng ký khai
sinh mới và đăng ký kết hôn giảm, thì đăng ký khai sinh lại, đăng ký khai tử và
đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tăng khá nhiều so với năm 2015.
Biểu đồ số
03: Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn (bao gồm cả đăng ký mới, đăng
ký lại và các trường hợp có yếu tố nước ngoài) từ năm 2013-2016
Đặc biệt, Bộ Tư pháp đã triển khai thí
điểm giai đoạn 1 phân hệ phần mềm đăng ký khai sinh tại các thành phố: Hà Nội,
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng và huyện Quế Phong - tỉnh Nghệ An. Sau khi
sơ kết thí điểm giai đoạn 1, đã tiếp tục triển khai thí điểm giai đoạn 2, mở rộng
địa bàn áp dụng phần mềm tại 07 tỉnh (An Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Quảng
Ninh, Sóc Trăng, Vĩnh
Long, Đồng Tháp); đồng thời, triển khai thí điểm phần mềm đăng ký hộ tịch
(phiên bản đầy đủ) tại thành phố Hồ Chí Minh, An Giang và Sóc Trăng. Đến nay, Hệ
thống đã thực hiện đăng ký khai sinh và cấp số định danh cá nhân cho 277.470
trường hợp. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp cũng đã chính thức triển khai Phần mềm
đăng ký hộ tịch dùng chung tại 09 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương14.
- Công tác quốc tịch: Bộ Tư pháp
cùng các Bộ, ngành, địa phương đã chú trọng tháo gỡ những vướng mắc liên quan đến
người di cư tự do từ Campuchia về nước; những người Lào di cư tự do và kết hôn
không giá thú với công dân Việt Nam hiện đang cư trú trên địa bàn các huyện
biên giới; tổ chức rà soát, đánh giá việc giải quyết vấn đề quốc tịch, hộ tịch
của trẻ em là con của công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú trên lãnh
thổ Việt Nam. Năm 2016, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình Chủ tịch nước giải quyết
6.009 hồ sơ quốc tịch (trong đó: 5.972 hồ sơ xin thôi quốc tịch, 25 hồ sơ xin
nhập quốc tịch và 12 hồ sơ xin trở lại quốc tịch), tăng 1.035 hồ sơ so với năm
2015; trả lời 3.990 trường hợp tra cứu, xác minh quốc tịch Việt Nam theo đề nghị
của các cơ quan (tăng gần 50% so với năm 2015).
- Công tác chứng thực: Kết quả các
việc về chứng thực tăng mạnh so với năm 2015, cụ thể: đã chứng thực 97.126.230
bản sao (tăng tới 23,7% so với năm 2015); thực hiện được 8.753.264 việc
chứng thực hợp đồng, giao dịch, chữ ký và các văn bản thỏa thuận khác (tăng
10,24% so với năm 2015).
b) Công tác nuôi con nuôi: Bộ Tư pháp đã
phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đánh giá tình hình thực hiện Luật nuôi
con nuôi và Công ước La Hay số 33 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
con nuôi quốc tế, làm cơ sở nghiên cứu, hoàn thiện thể chế cho công tác này
trong thời gian tới; phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội ký Quy chế
số 721/QC-BTP-BLĐTBXH ngày 14/3/2016 về việc phối hợp công tác giải quyết việc
nuôi con nuôi, tạo điều kiện để trẻ em đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các
cơ sở trợ giúp xã hội được làm con nuôi theo quy định của pháp luật. Công tác
tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở nước ngoài, đặc biệt là cho trẻ em bị khuyết
tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo không có cơ hội tìm gia đình thay thế ở Việt
Nam được đẩy mạnh. Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước có 30 địa phương
tham gia giải quyết cho trẻ em từ cơ sở trợ giúp xã hội làm con nuôi nước
ngoài; 44 địa phương
đã ban hành Quy chế phối hợp liên ngành trong giải quyết việc nuôi con nuôi nước
ngoài.
Trong năm, các cơ quan có thẩm quyền
đã giải quyết 2.573 trường hợp nuôi con nuôi trong nước (giảm 214 trường
hợp so với năm 2015); 553 trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
(tăng 25 trường hợp so với năm 2015).
c) Công tác lý lịch tư pháp: Bộ Tư pháp
đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổng kết và tổ chức Hội nghị toàn quốc
tổng kết 05 năm thi hành Luật lý lịch tư pháp (LLTP); đề xuất các định hướng lớn
để xây dựng Luật LLTP (sửa đổi). Bộ Tư pháp và các địa phương đã đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, cải cách TTHC trong cấp phiếu; đến nay đã có 56/63
Sở Tư pháp15 xây dựng kế hoạch và triển khai thực
hiện phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính và 45/63 Sở Tư pháp16
xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện phương thức đăng ký cấp Phiếu LLTP trực
tuyến. Nhờ đó, tình trạng chậm thời hạn cấp Phiếu LLTP tại các Sở Tư pháp đã từng
bước được giải quyết.
Tại các địa phương, đã cấp được 342.546
phiếu LLTP (tăng 11,64% so với năm 2015), trong đó có 243.405 Phiếu lý lịch tư
pháp số 1 và 99.141 Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Bộ Tư pháp cấp 308 phiếu
LLTP của người nước ngoài đã từng cư trú tại Việt Nam (100% được cấp sớm và
đúng hạn).
Biểu đồ số
04: Số Phiếu LLTP đã cấp trong các năm 2014-2016
d) Công tác đăng ký giao dịch bảo đảm
(ĐKGDBĐ):
Bộ Tư pháp đang sửa đổi các nghị định về giao dịch bảo đảm, đăng ký biện pháp bảo
đảm; phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Thông tư liên tịch số
09/2016/TTLT-BTP-BTNMT ngày 23/06/2016 hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất, đáp ứng yêu cầu cải cách TTHC, tháo gỡ vướng
mắc, bất cập của pháp luật và thực tiễn thi hành, tạo thuận lợi cho người dân,
doanh nghiệp, góp phần tạo môi trường tín dụng, đầu tư được an toàn. Công tác
đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm bằng động sản đã đi vào nề nếp,
bài bản, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp, ứng dụng công
nghệ thông tin trong lĩnh vực này tiếp tục được đẩy mạnh qua việc nâng cấp phần
mềm đăng ký trực tuyến giao dịch, bảo đảm đạt mức độ 4 về cung cấp dịch vụ công
trực tuyến để triển khai từ năm 2017.
Trong năm 2016, các Trung tâm ĐKGDBĐ
đã giải quyết tổng số gần 700.000 yêu cầu đăng ký, cung cấp thông tin về
giao dịch bảo đảm và văn bản thông báo về việc thế chấp phương tiện giao thông
(tăng tới 35% so với 2015), trong đó, tỷ lệ đăng ký trực tuyến đạt khoảng 50%;
Bộ Giao thông vận tải và các địa phương đã giải quyết 2.459.976 đơn đăng
ký, cung cấp thông tin về ĐKGDBĐ bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
và tàu bay, tàu biển.
đ) Công tác bồi thường nhà nước: Việc tổ chức
thi hành Luật TNBTCNN và các văn bản hướng dẫn ngày càng đi vào thực chất hơn.
Bộ Tư pháp đã phối hợp với TANDTC, VKSNDTC, các Bộ, ngành và địa phương thực hiện
tổng kết 06 năm thi hành Luật TNBTCNN và xây dựng dự án Luật TNBTCNN (sửa đổi)
trình Quốc hội Khóa XIV cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 2 đúng tiến độ, chất lượng17.
Các hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi thường được
thực hiện thường xuyên; Bộ đã chủ động vào cuộc, kịp thời có ý kiến đối với nhiều
vụ việc bồi thường.
Trong năm 2016, các cơ quan có trách
nhiệm bồi thường trên cả nước đã thụ lý, giải quyết tổng số 105 vụ việc
(có 53 vụ việc thụ lý mới) (tăng 11 vụ so với năm 2015). Đã ban hành quyết định
giải quyết bồi thường và có hiệu lực pháp luật đối với 44/105 vụ việc, đạt
tỷ lệ 41.9%, với số tiền Nhà nước phải bồi thường trong các quyết định giải quyết
bồi thường đã có hiệu lực pháp luật là 26 tỷ 351 triệu 210 nghìn đồng; còn 61 vụ
việc đang tiếp tục giải quyết.
6.2. Khó khăn, hạn chế
- Còn lúng túng trong việc giải quyết
hộ tịch có yếu tố nước ngoài khi thực hiện phân cấp theo quy định mới của Luật
hộ tịch. Việc hướng dẫn nghiệp vụ một số trường hợp về hộ tịch chưa kịp thời, dẫn
đến kéo dài thời hạn giải quyết hồ sơ tại địa phương. Việc xây dựng Phần mềm hộ
tịch để áp dụng thống nhất trong toàn quốc còn chậm; một số địa phương tự xây dựng,
triển khai phần mềm riêng. Một số địa phương vẫn để xảy ra tình trạng sai phạm
tương đối nghiêm trọng trong công tác đăng ký hộ tịch, để báo chí, các ngành
khác có liên quan phản ánh18 (Thanh Hóa, Quảng Trị, Hải Dương, Hà
Nam, Vĩnh Phúc...). Việc bố trí công chức làm công tác hộ tịch chưa đúng với
tiêu chuẩn theo quy định còn phổ biến; vẫn còn tình trạng sử dụng biên chế công
chức tư pháp - hộ tịch cho chức danh khác hoặc yêu cầu công chức tư pháp - hộ tịch
kiêm nhiệm công tác khác. Tình trạng lạm dụng giấy tờ, tài liệu phải chứng thực,
công chứng còn phổ biến.
- Vẫn còn một số
lượng lớn trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn chưa được các cơ quan có thẩm
quyền của địa phương quan tâm, tìm gia đình thay thế.
- Công tác xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP
vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của Luật LLTP; còn tồn tại tình trạng tồn đọng thông
tin LLTP chưa được cập nhập vào cơ sở dữ liệu; chất lượng dữ liệu LLTP chưa đảm
bảo; tình trạng lạm dụng quyền yêu cầu cấp Phiếu LLTP số 2 của cá nhân vẫn còn,
ảnh hưởng tới quyền được pháp luật bảo đảm bí mật cá nhân và làm gia tăng chi
phí xã hội.
- Kết quả giải quyết xong dứt điểm các
vụ việc bồi thường trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án đều
thấp hơn so với năm 2015; việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của cơ quan có
trách nhiệm bồi thường đối với người thi hành công vụ có hành vi gây thiệt hại
còn chậm (chỉ đạt 05 vụ việc với tổng giá trị chỉ dưới 60 triệu đồng).
- Xây dựng các nghị định về giao dịch
bảo đảm, đăng ký biện pháp bảo đảm còn bị chậm tiến độ, phải lùi thời gian
trình Chính phủ. Chưa xác định được các định hướng lớn xây dựng Luật đăng ký
tài sản.
7. Công tác bổ trợ tư pháp, trợ giúp
pháp lý
7.1. Kết quả
a) Công tác bỗ trợ tư pháp
Công tác hoàn thiện thể chế tiếp tục
được tăng cường với việc hoàn thiện dự án Luật đấu giá tài sản để trình Quốc hội
thông qua với tỷ lệ cao; hoàn thiện trình Chính phủ dự thảo Nghị định về hòa giải
thương mại và đang tích cực hoàn thiện Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa
phát lại. Việc thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp ngày càng được
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm thực hiện.
- Trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp
luật,
Bộ, Ngành Tư pháp đã đánh giá, xây dựng Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả
05 năm thực hiện Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020; tích cực phối
hợp với Liên đoàn luật sư Việt Nam kiện toàn chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch
Liên đoàn nhiệm kỳ II và tiếp tục kiện toàn Đảng đoàn Liên đoàn; nghiên cứu, xử
lý các vấn đề liên quan đến hoạt động của các Đoàn luật sư...
Bộ Tư pháp đã cấp Chứng chỉ hành nghề
luật sư cho 1.250 trường hợp (tăng 25% so với năm 2015), thu hồi 38 trường
hợp; cấp và gia hạn Giấy phép hành nghề tại Việt Nam cho 49 trường hợp
luật sư nước ngoài. Cả nước hiện có tổng số 11.527 luật sư
(tăng 16,25% so với năm 2015) và 3.711 tổ chức hành nghề luật sư (tăng
191 tổ chức so với năm 2015). Các luật sư đã tham gia 257.403 việc (tăng
21,9% so với năm 2015), nộp thuế gần 168 tỷ đồng.
Biểu đồ số
05: Số lượng luật sư và tổ chức hành nghề LS từ 2014-2016
- Về lĩnh vực
công chứng,
việc xã hội hóa hoạt động công chứng tiếp tục được thực hiện theo đúng định hướng,
quy hoạch, lộ trình phù hợp; trong năm 2016, một số địa phương (như Cần Thơ, Hà
Nội, Cà Mau, Vĩnh Long, Long An...) đã thực hiện việc chuyển đổi, xây dựng Đề
án để chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng. Với tư cách
là thành viên của Liên minh Công chứng Quốc tế (UINL), Công chứng
Việt Nam đã đăng cai tổ chức thành công Hội nghị lần thứ VI của Ủy ban các vấn
đề Châu Á của UINL vào tháng
9/2016, qua đó góp phần nâng cao vị thế của Công chứng Việt Nam trên trường quốc
tế.
Bộ Tư pháp đã tổ chức thành công kỳ kiểm
tra tập sự hành nghề công chứng lần thứ nhất cho hơn 200 thí sinh trên cả nước;
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Công chứng viên cho 156 trường hợp, miễn nhiệm 44
trường hợp. Hiện nay, cả nước có 943 tổ chức hành nghề công chứng (134
phòng công chứng và 809 văn phòng công chứng), tăng 48 tổ chức so với năm 2015,
với 2.182 Công chứng viên đang hành nghề (tăng 119 Công chứng viên so với
năm 2015); đã thành lập 35 Hội công chứng viên, 10 địa phương khác đã thành lập
Ban vận động thành lập Hội, làm cơ sở cho việc thành lập Hiệp hội công chứng
viên Việt Nam trong thời gian tới. Các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng
được 4.831.462 hợp đồng, giao dịch (tăng 7,4% so với năm 2015), đóng góp
cho Ngân sách nhà nước hoặc nộp thuế trên 320 tỷ đồng.
Biểu đồ số
06: Số lượng CCV và tổ chức hành nghề CC từ 2014-2016
- Về lĩnh vực
giám định tư pháp, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực
hiện thành công tổng kết 05 năm thực hiện Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả
hoạt động giám định tư pháp”. Cả nước hiện có 137 tổ chức giám định tư
pháp công lập, 01 văn phòng giám định tư pháp, 159 tổ chức giám định
tư pháp theo vụ việc, 5.277 Giám định viên tư pháp và 1.086 người
giám định tư pháp theo vụ việc; trong năm 2016, đã thực hiện được 135.770
vụ việc (giảm 414 vụ việc so với năm 2015), trong đó có 115.760 vụ việc theo
yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng (chiếm hơn 85% tổng số vụ việc).
- Về lĩnh vực
bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại, Bộ Tư pháp đã cấp mới
và cấp lại Chứng chỉ hành nghề đấu giá viên cho 285 trường hợp, thu hồi
08 trường hợp; cả nước hiện có 428 tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp
(tăng 58 tổ chức so với năm 2015), với 956 Đấu giá viên đang hành nghề
(giảm 116 Đấu giá viên so với năm 2015). Năm 2016, các tổ chức bán đấu giá ở
các địa phương đã tổ chức đấu giá thành 21.768 cuộc (tăng 15,65% so với
năm 2015), nộp ngân sách gần 458 tỷ đồng (tăng 328 tỷ đồng so với năm
2015). Trong lĩnh vực trọng tài thương mại, Bộ Tư pháp đã thẩm tra hồ sơ và cấp
Giấy phép thành lập cho 04 Trung tâm trọng tài thương mại.
- Về lĩnh vực quản
lý thanh lý tài sản, thừa phát lại, Bộ Tư pháp đã tổ chức bồi dưỡng
chuyên sâu về kỹ năng hành nghề quản lý, thanh lý tài sản cho hơn 140 Quản tài
viên; tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết 107/2015/QH13
của Quốc hội về chế định Thừa phát lại; thẩm tra hồ sơ và cấp Chứng chỉ Quản
tài viên cho 363 trường hợp, bổ nhiệm 107 Thừa phát lại. Các Văn
phòng Thừa phát lại đã tống đạt được 170.316 văn bản của Tòa án và cơ
quan THADS, lập 18.196 vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án 30
việc, trực tiếp tổ chức thi hành án 54 vụ việc, đạt tổng doanh thu là
trên 33 tỷ đồng.
b) Công tác trợ giúp pháp lý: Bộ Tư pháp
đã phối hợp với Bộ, ngành, địa phương hoàn thiện dự án Luật trợ giúp pháp lý (sửa
đổi), trình Quốc hội Khóa XIV cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 2; trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 về chính sách trợ
giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã
nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016 - 2020 và hỗ trợ vụ việc tham
gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình; phối hợp với Bộ Nội vụ ban
hành Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV quy định về mã số, tiêu chuẩn
chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành trợ giúp pháp lý. Thực hiện Đề án
đổi mới công tác trợ giúp pháp lý (TGPL), Bộ, Ngành Tư pháp đã tập trung vào vụ
việc tham gia tố tụng với việc ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho
Trợ giúp viên pháp lý năm 2016; trên cơ sở đó, một số địa phương đã ban hành chỉ
tiêu vụ việc cho Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt có những địa phương
đã tổ chức thực hiện vượt mức Kế hoạch (như: Điện Biên, Lai Châu, Lạng Sơn, Hà
Nam, Gia Lai, Nghệ An, TP.Hồ Chí Minh, Bến Tre...).
Hiện nay, cả nước có 595 Trợ
giúp viên pháp lý (tăng 10% so với năm 2015). Năm 2016, các Trung tâm TGPL thực
hiện 91.579 vụ việc TGPL (giảm 34,5% so với năm 2015) cho 96.963 lượt
người (giảm 33,67% so với năm 2015)19; ở nhiều địa phương, số vụ việc tham
gia tố tụng tăng mạnh so với năm 2015 (như: Quảng Nam tăng 440%; Lạng Sơn tăng
150%; Hải Phòng tăng 136%; Bến Tre tăng 130%; Gia Lai tăng 125%...).
7.2. Khó khăn, hạn chế
- Quản lý nhà nước về lĩnh vực luật
sư, công chứng, bán đấu giá tài sản ở một số địa phương còn chưa bao quát, chưa
nắm bắt kịp thời những tiêu cực, bức xúc trong các lĩnh vực này. Công tác phối
hợp giữa Đoàn luật sư và Sở Tư pháp chưa cao, chưa đảm bảo triển khai có hiệu
quả các nhiệm vụ có liên quan. Việc thành lập Hội công chứng viên tại một số địa
phương còn chậm so với yêu cầu; còn lúng túng trong việc chuyển đổi mô hình tổ
chức, hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng; hoạt động của một số Văn
phòng công chứng còn thiếu tính chuyên nghiệp. Khó khăn, vướng mắc trong quá
trình triển khai Thông tư liên tịch số 14/2015/TTLT-BTNMT-BTP và Thông tư số
02/2015/TT-BTC liên quan đến bán đấu giá quyền sử dụng đất chậm được
tháo gỡ, gây ách tắc công việc tại nhiều địa phương; nhiều
tổ chức bán đấu giá tài sản vi phạm quy trình bán đấu giá tài sản. Công tác quản
lý thanh lý tài sản chưa thực sự phát huy vai trò trong việc tham gia giải quyết
các vụ việc phá sản. Trong một số vụ việc, đặc biệt là khi xét xử các vụ án về
tham nhũng, kinh tế, công tác giám định tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn. Triển khai Nghị quyết 107/2015/QH13 của Quốc hội về chế định Thừa phát lại
còn lúng túng; chậm xây dựng, trình ban hành Nghị định sửa đổi các nghị định của
Chính phủ về Thừa phát lại; chậm tháo gỡ khó khăn về kinh phí tống đạt giấy tờ.
- Việc triển khai Đề án đổi mới công
tác TGPL ở một số địa phương còn gặp khó khăn trong việc thực hiện tinh giản
biên chế và chuyển số biên chế dôi dư. Kinh phí thực hiện Quyết định số
32/2016/QĐ-TTg vẫn chưa được Bộ Tài chính bố trí và giao về các địa phương.
8. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác
quốc tế về tư pháp và pháp luật
8.1. Kết quả
a) Công tác pháp luật quốc tế
- Công tác điều ước quốc tế, thỏa thuận
quốc tế:
Bộ Tư pháp chủ trì thẩm định 92 điều ước quốc tế, góp ý 306 điều
ước, thỏa thuận quốc tế;
trực tiếp, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát pháp
luật bảo đảm thực thi hiệu quả Hiệp định TPP để báo cáo Chính phủ; tham gia đàm
phán các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương quan trọng như:
tham gia rà soát pháp lý Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU, Hiệp định
RCEP, các điều ước quốc tế trong khuôn khổ ASEAN... Bộ Tư pháp cấp 31 ý kiến
pháp lý cho các hiệp định vay nước ngoài, bảo đảm nguồn vốn và các điều kiện
pháp lý cho các chương trình, dự án nước ngoài.
- Công tác tương trợ tư pháp: Bộ Tư pháp
đã giúp Chính phủ thực hiện các thủ tục để Việt Nam trở thành thành viên của
Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp, ngoài tư
pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại kể từ ngày 01/10/2016; tổ chức thành
công Diễn đàn ASEAN “Một số Công ước của Hội nghị La Hay trong mối liên hệ với
ASEAN”. Trong năm 2016, Bộ Tư pháp đã tiếp nhận, chuyển 3.744 hồ sơ ủy
thác tư pháp về dân sự do các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam gửi đi nước
ngoài; 791 yêu cầu ủy thác tư pháp của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài
gửi tới Việt Nam; tiếp nhận và chuyển 09 yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam bản án, quyết định của Toà án nước ngoài, Trọng tài nước
ngoài.
- Công tác giải quyết tranh chấp đầu
tư quốc tế:
Năm 2016, Bộ Tư pháp cùng các Bộ, ngành đã giúp Chính phủ Việt Nam tiếp tục lần
thứ 3 giành thắng lợi hoàn toàn trong vụ tranh chấp với nhà đầu tư nước ngoài.
Bộ Tư pháp đang tiếp tục chủ động, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực
hiện nhiệm vụ đại diện pháp lý cho Chính phủ giải quyết 02 vụ tranh chấp với
nhà đầu tư nước ngoài; phối hợp và hỗ trợ các địa phương trong việc nâng cao
năng lực xử lý các vấn đề pháp luật quốc tế, giải quyết tranh chấp giữa Cơ quan
nhà nước ở địa phương với nhà đầu tư nước ngoài.
b) Công tác hợp tác quốc tế về tư pháp
và pháp luật
Hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
đạt được nhiều kết quả quan trọng. Bộ Tư pháp đã chú trọng thực hiện nhiệm vụ
quản lý thống nhất hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng thực chất,
hiệu quả và bảo đảm sự kế thừa bền vững trong hoạt động hợp tác quốc tế, gắn với
việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, Ngành20. Quan
hệ hợp tác với các đối tác quốc tế trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và
song phương đều được tăng cường và có sự phát triển về chiều sâu, nổi bật là: Đệ
trình Văn kiện để Việt Nam xin gia nhập và chính thức trở thành quốc gia thành
viên của Tổ chức quốc tế về Luật Phát triển (IDLO); tổ chức thành công Hội nghị
Tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới Việt - Lào mở rộng lần thứ ba. Bộ tiếp
tục thực hiện tốt vai trò đầu mối trong việc vận động, thu hút sự hỗ trợ quốc tế
cho các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật. Bộ Tư pháp đã xây dựng, đàm
phán, ký kết 28 Thỏa thuận, chương trình, kế hoạch hợp tác; đàm phán 06
dự án hợp tác mới; chuẩn bị và tổ chức 26 đoàn ra (giảm 17 đoàn so với
năm 2015); chuẩn bị nội dung và thủ tục để đón 85 đoàn của các đối tác
nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, trong đó có 12 Đoàn cấp Bộ.
8.2. Khó khăn, hạn chế
- Một số văn bản thẩm định, góp ý điều
ước, thỏa thuận quốc tế
chưa thực sự đi sâu vào các nội dung, vấn đề pháp lý cần được giải quyết; việc
xem xét cấp ý kiến pháp lý cho một số điều ước, thỏa thuận quốc tế vay ODA còn
chậm.
- Quản lý nhà nước về tương trợ tư
pháp chưa bao quát được đầy đủ các lĩnh vực để đề xuất, triển khai các giải
pháp đồng bộ, hiệu quả, bền vững nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
này, nhất là trong lĩnh vực hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt
tù.
- Hiệu quả thực hiện các Thỏa thuận quốc
tế đã ký kết với đối tác chưa cao, còn có nhiều Thỏa thuận sau khi ký rất ít hoặc
chưa thể triển khai các hoạt động hợp tác tiếp theo (như với Bộ Tư pháp các nước
Cuba, Bê-la-rút, Xrilanca...). Hạn chế về cung cấp, chia sẻ thông tin trong hoạt
động hợp tác pháp luật chưa được khắc phục hiệu quả.
9. Công tác xây dựng Ngành, đào tạo, bồi
dưỡng, nghiên cứu khoa học pháp lý
9.1. Kết quả
- Công tác tổ chức xây dựng Ngành ngày càng gắn
kết chặt chẽ với các sự kiện chính trị lớn của đất nước, như Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XII, bầu cử Quốc hội khóa XIV và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021. Tại đợt bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu HĐND các cấp
nhiệm kỳ 2016-2021, có 03 cán bộ, công chức của Bộ, 08 cán bộ,
công chức của các Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự trúng cử đại biểu Quốc hội
và 3.851 cán bộ của Ngành trúng cử đại biểu HĐND các cấp. Bộ đã hoàn thiện
hồ sơ giới thiệu chức danh Bộ trưởng để Quốc hội phê chuẩn; trình Ban Bí thư,
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định bổ nhiệm 02 Thứ trưởng; thực hiện quy
trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đối với 31 đồng chí lãnh đạo cấp Vụ. Công tác tuyển
dụng, tiếp nhận, điều động, chuyển công tác đối với cán bộ, công chức tiếp tục
được thực hiện theo đúng quy định. Công tác biên chế bám sát các chủ trương của
Đảng, chỉ đạo của Chính phủ; Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức của
các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp đã được Bộ Nội vụ phê duyệt; đã tích cực thực hiện
tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị định số
108/2014/NĐ-CP .
Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ dự thảo
Nghị định thay thế Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, làm cơ sở
cho việc kiện toàn tổ chức, hoạt động của Bộ, Ngành trong thời gian tới.
Ở các địa phương, thực
hiện Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP- BNV, đến nay đã có 62/6321
Sở Tư pháp được ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức và thực hiện kiện toàn tổ chức bộ máy của Sở. Cả nước hiện có 71022
Phòng Tư pháp, với tổng số 3.282 người (bình quân 4,6 người/một
Phòng Tư pháp). Tổng số công chức Tư pháp - Hộ tịch giúp UBND cấp xã thực hiện
nhiệm vụ tư pháp là 18.801 người, trong đó 6.581/11.180 xã, phường,
thị trấn đã bố trí từ 02 công chức Tư pháp - Hộ tịch trở lên (chiếm tỷ lệ 58,8%
xã, phường, thị trấn trên cả nước).
Đối với công tác pháp chế, Bộ Tư pháp
đã theo dõi, đôn đốc sát sao công tác củng cố, kiện toàn tổ chức pháp chế và
nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức pháp chế; tổ chức Đoàn kiểm
tra, khảo sát liên ngành về thực hiện Nghị định số 55/2011/NĐ-CP tại một số tỉnh
Tây Nguyên; trả lời các kiến nghị, yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm kịp thời
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác pháp chế của các Bộ, ngành,
doanh nghiệp... Đến nay, ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có
2.708 người làm công tác pháp chế (1.333 người được bố trí làm công tác
pháp chế chuyên trách, 1.375 người kiêm nhiệm); ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh, có 2.163 người làm công tác pháp chế (709 người chuyên trách,
1.454 người kiêm nhiệm).
- Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
đã
hoàn thành tốt Kế hoạch đề ra, trong đó tiếp tục chú trọng, bám sát các tiêu
chuẩn công chức, yêu cầu của vị trí việc làm và yêu cầu về nguồn nhân lực tư
pháp23. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ công
chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã đang tiếp tục được quan tâm đẩy mạnh thông qua việc
tập trung chuẩn bị kỹ tài liệu bồi dưỡng; quy định việc cấp chứng chỉ bồi dưỡng;
nghiên cứu mở rộng đối tượng giảng viên, báo cáo viên...
- Công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo thuộc Bộ tiếp
tục có những bước đổi mới về nội dung, chương trình, quy mô và ngày càng được
chuẩn hóa thông qua việc ban hành các Quy chế về đổi mới cơ chế, chính sách thu
hút đội ngũ cán bộ, giáo viên có chất lượng về giảng dạy tại các Trường Trung cấp
Luật; quản lý chứng chỉ đào tạo bồi dưỡng; phối hợp đưa học sinh các Trường
Trung cấp Luật thuộc Bộ Tư pháp đi thực tập tại Phòng Tư pháp, Chi cục Thi hành
án dân sự và UBND xã, phường, thị trấn...
Năm 2016, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tuyển
sinh và tổ chức nhập học cho 1.807 sinh viên chính quy, nâng tổng số quy mô đào
tạo của Trường lên khoảng 16.000 sinh viên các hệ đào tạo; công tác bảo
đảm chất lượng đào tạo ngày càng được đẩy mạnh; hợp tác quốc tế trong đào tạo
pháp luật được mở rộng, mang lại hiệu quả thiết thực; Học viện Tư pháp đã tổ chức
nhập học cho 3.302 học viên các lớp luật sư, kiểm sát viên, công chứng
viên, đấu giá viên...; các Trường Trung cấp luật đã tổ chức tuyển sinh 1.704
học sinh chính quy, trong đó: Trung cấp luật Thái Nguyên (500 học sinh),
Tây Bắc (157 học sinh), Đồng Hới (403 học sinh trong nước và 301 lưu học sinh
Lào), Buôn Ma Thuột (200 học sinh), Vị Thanh (143 học sinh); đồng thời, các Trường
Trung cấp luật cũng đã tuyển sinh hàng ngàn học sinh, học viên liên kết với các
cơ sở đào tạo khác trong cả nước.
- Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý: Việc triển
khai công tác nghiên cứu khoa học được tập trung vào các nội dung trọng tâm
công tác năm 2016, bám sát vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ,
ngành, từng bước khẳng
định vai trò đi trước, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ công tác tư pháp.
Bộ Tư pháp đã tổ chức nghiên cứu 26 đề tài, đề án, trong đó có 11 đề tài cấp Bộ;
tổ chức thành công hội đồng nghiệm thu chính thức 19 nhiệm vụ khoa học (đề tài
khoa học, nhiệm vụ điều tra cơ bản, nhiệm vụ môi trường). Bên cạnh đó, Bộ Tư
pháp đã phê duyệt Định hướng trọng tâm trong hoạt động nghiên cứu khoa học giai
đoạn 2016- 2020 (kèm theo Quyết định số 2549/QĐ-BTP ngày 08/12/2016 của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp).
Tại các cơ sở đào tạo của Bộ, công tác
nghiên cứu khoa học ngày càng được chú trọng, khuyến khích và thu hút cán bộ,
giảng viên đề xuất các ý tưởng nghiên cứu, bảo đảm gắn kết giữa nghiên cứu và
đào tạo. Trường Đại học luật Hà Nội đang tiến hành nghiên cứu 06 đề tài cấp Bộ,
51 đề tài cấp cơ sở; Học viện Tư pháp thực hiện 05 đề tài, 02 đề án cấp cơ sở;
Trường Trung cấp luật Thái Nguyên thực hiện 04 đề tài cấp cơ sở...
9.2. Khó khăn, hạn chế
- Công tác tham mưu định hình tổ chức
bộ máy của Bộ, Ngành ở tầm chiến lược, mang tính tổng thể, dài hạn chưa đạt kết
quả như mong muốn. Công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng cán bộ chưa có những
sáng kiến, giải pháp đột phá để thu hút, giữ chân những cán bộ có
năng lực, trình độ cao cống hiến cho Bộ, Ngành.
- Công tác pháp chế ở nhiều địa phương
còn yếu; một số địa phương thực hiện trái với Nghị định 55/2011/NĐ-CP khi giải
thể phòng pháp chế ở các cơ quan chuyên môn đã thành lập trước đây. Nhiều bất cập,
vướng mắc đã được phát hiện, Bộ Tư pháp đã tích cực tham mưu cho Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ để giải quyết nhưng chưa đạt kết quả cuối cùng.
- Việc thực hiện Đề án xây dựng Trường
Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật và Đề
án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp
chưa đạt kết quả như mong muốn. Công tác tuyển sinh ở các trường trung cấp luật
tiếp tục gặp nhiều khó khăn về nguồn tuyển sinh.
- Chất lượng của một số công trình
nghiên cứu khoa học, nhất là hiệu quả ứng dụng thực tiễn còn chưa cao. Một số
nhiệm vụ khoa học còn chậm tiến độ.
10. Công tác kế hoạch, thống kê, ngân
sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản; ứng dụng công
nghệ thông tin
10.1. Kết quả
a) Công tác kế hoạch, thống kê, ngân
sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản
- Công tác kế hoạch tiếp tục đi vào nề
nếp, kịp thời cụ thể hóa để thực hiện các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, Chính
phủ giao, các nhiệm vụ trọng tâm công tác của Bộ, Ngành. Chất lượng công tác thống
kê dần được nâng lên qua việc ban hành và thực hiện Thông tư số 04/2016/TT-BTP
ngày 03/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một số nội dung về hoạt động
thống kê Ngành Tư pháp.
- Công tác quản lý ngân sách - tài sản,
đầu tư xây dựng cơ bản tiếp tục được duy trì linh hoạt, hiệu quả, chấp hành
nghiêm kỷ luật tài chính, ngân sách năm theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, hướng
dẫn của các Bộ, ngành. Việc xây dựng phương án phân bổ dự toán NSNN (bao gồm
kinh phí chi thường xuyên và vốn đầu tư phát triển) được thực hiện đúng trọng
tâm, trọng điểm, đúng thời hạn. Bộ đã hoàn thiện Kế hoạch đầu tư công trung hạn
giai đoạn 2016-2020 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư theo quy định. Việc đảm bảo cơ sở
vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các đơn vị được đầu tư đồng
bộ, khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần quan trọng
giúp các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
b) Công tác ứng dụng công nghệ thông
tin
Ứng dụng công nghệ
thông tin (CNTT) luôn được Bộ, Ngành Tư pháp xác định vừa là nhiệm vụ, vừa là
giải pháp chủ yếu để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ và được xác định là nhiệm vụ
trọng tâm công tác năm 2016. Hoạt động ứng dụng CNTT của Bộ, Ngành được triển
khai khá toàn diện trong các lĩnh vực như: trong công tác chỉ đạo điều hành qua
môi trường điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, triển khai
các hệ thống thông tin,
cơ sở dữ liệu chuyên ngành (như: hệ thống thông tin về lý lịch tư pháp; CSDL quốc
gia về thủ tục hành chính; CSDL về văn bản quy phạm pháp luật thống nhất từ
Trung ương tới địa phương), Cổng thông tin điện tử; các Trang thông tin điện tử
của Bộ ngày càng phát huy hiệu quả thiết thực; an toàn, an ninh thông tin mạng
được bảo đảm.
Nhằm đẩy mạnh việc xây dựng Chính phủ
điện tử, Bộ Tư pháp đang tập trung hoàn thiện các ứng dụng để cung cấp dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, 4 trong lĩnh vực LLTP, ĐKGDBĐ theo Nghị quyết số
36a/NQ-CP của Chính phủ.
Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật tiếp
tục được cập nhập với hơn 98.000 VBQPPL do cơ quan Trung ương và địa
phương ban hành; việc sử dụng hệ thống thư điện tử để trao đổi công việc đã được
thực hiện thường xuyên; hệ thống Hội nghị truyền hình, giao ban, tập huấn trực
tuyến được áp dụng rộng rãi, hỗ trợ đắc lực và đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả cho
công tác chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành, đặc biệt là phục
vụ các Hội nghị lớn của Ngành.
10.2. Khó khăn, hạn chế
- Trong công tác thống kê, một số nhiệm
vụ chậm tiến độ theo yêu cầu phải thực hiện như: Báo cáo chỉ tiêu thống kê quốc
gia thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp, tài liệu phổ biến thông tin thống kê năm
2016 của Ngành Tư pháp... Trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, còn có
tình trạng chậm quyết toán dự án hoàn thành. Tiến độ báo cáo, chất lượng báo
cáo thống kê của một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế.
- Công tác ứng dụng CNTT chưa đạt được
hiệu quả và tiến độ so với yêu cầu đặt ra; các dịch vụ công trực tuyến do Bộ,
Ngành Tư pháp cung cấp còn ở mức độ thấp; hiệu quả ứng dụng một số phần mềm
chưa cao. Hạ tầng kỹ thuật CNTT phục vụ triển khai các ứng dụng còn rất hạn chế,
đặc biệt là phục vụ triển khai các hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia,
chuyên ngành,...
11. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
11.1. Kết quả
Công tác thanh tra từng bước được đổi
mới qua việc xây dựng và thực hiện Đề án "Về một số biện pháp đổi mới tổ
chức cán bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp giai đoạn
2016-2018". Bộ Tư pháp đã tiến hành 33 cuộc thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch
và thanh tra đột xuất về công tác cán bộ, quản lý ngân sách, quản lý kho vật chứng,
bán đấu giá tài sản, phòng chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Qua đó, đã phát hiện nhiều sai phạm thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, đặc
biệt trong lĩnh vực thi hành án và bán đấu giá tài sản; ban hành 10 Quyết định
thu hồi tiền và đã thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền là 438.885.000
đồng; ban hành 26 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền là
201.000.000 đồng. Cùng với đó, thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực
hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp đã tiến hành 06 cuộc thanh tra (02 cuộc
thanh tra về bổ trợ tư pháp, 04 cuộc thanh tra về công tác hộ tịch).
Thanh tra các Sở Tư pháp đã tiến hành
403 các cuộc thanh tra kiểm tra đối với 833 tổ chức và tổ chức 30 cuộc kiểm tra
sau thanh tra đối với 54 tổ chức, qua thanh tra đã ban hành 92 Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính đối với 75 tổ chức, cá nhân vi phạm với tổng số tiền là 489.000.000
đồng.
Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng tiếp tục được thực hiện thường xuyên,
đúng quy định. Trong năm, Bộ Tư pháp đã tiếp 283 lượt công dân đến khiếu
nại, tố cáo (giảm 44% so với năm 2015), trong đó, Lãnh đạo Bộ đã tiếp 25
lượt công dân; thanh tra các Sở Tư pháp đã tiếp 818 lượt công dân đến khiếu nại,
tố cáo. Một số Sở Tư pháp đã tiếp số lượng công dân lớn
như: Hà Nội (158), Vĩnh Phúc (62); Nghệ An (143), Thành phố Hồ Chí Minh (69). Một
số Sở không có công dân đến khiếu nại, tố cáo như: Lào Cai, Lai châu, Bạc Liêu.
Bộ Tư pháp đã tiếp nhận 1.343
đơn khiếu nại, tố cáo (giảm 26% so với năm 2015), trong đó có 379 đơn thuộc thẩm
quyền giải quyết (riêng lĩnh vực THADS có 330 đơn, chiếm 87%); đã giải quyết
xong 37 vụ việc. Thanh tra các Sở Tư pháp đã tiếp nhận 2.473 đơn, trong
đó có 144 đơn thuộc thẩm quyền.
11.2. Khó khăn, hạn chế
Kết quả công tác thanh tra đạt được
còn khiêm tốn so với yêu cầu của các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, Ngành Tư
pháp và còn xa so với thực tế; một số việc thanh tra, kiểm tra chưa được thực
hiện kịp thời, nhất là khâu hậu kiểm. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo,
trong một số trường hợp, chưa bảo đảm về mặt thời gian.
12. Công tác thi đua, khen thưởng
12.1. Kết quả
Bộ Tư pháp đã ban hành Đề án Đổi mới
công tác thi đua, khen thưởng Ngành Tư pháp giai đoạn 2016-2018 (kèm theo Quyết
định số 1963/QĐ-BTP ngày 12/9/2016); Quy chế tổ chức và hoạt động của Cụm, Khu
vực thi đua; sớm xây dựng, ban hành Bảng Tiêu chí thi đua, thang điểm đánh giá,
xếp hạng Sở Tư pháp và Cục THADS các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm
2016, tạo thuận lợi hơn cho các địa phương; phát động các Phong trào thi đua
“Cơ quan Tư pháp địa phương chủ động, sáng tạo, tích cực thi đua hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp năm 2016”; Phong trào “Cán bộ Tư pháp
tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” giai
đoạn 2016-2020; “Ngành Tư pháp chung sức góp phần xây dựng nông thôn mới” giai
đoạn 2016-2020. Hoạt động của các Cụm, Khu vực thi đua trong toàn Ngành được
duy trì hiệu quả. Năm 2016, có 10 Cục THADS được xếp hạng A, 41 Cục THADS được
xếp hạng B, 10 Cục THADS được xếp hạng C và 02 Cục
THADS được xếp hạng D; có 19 Sở Tư pháp được xếp hạng A, 39 Sở Tư pháp được xếp
hạng B và 05 Sở Tư pháp được xếp hạng C.
Công tác khen thưởng ngày càng đảm bảo
thực chất, khách quan, chính xác, đúng quy định, đã kịp thời động viên, khích lệ
các tập thể, cá nhân trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Năm 2016, Chủ tịch
nước đã tặng Huân chương độc lập cho 01 cá nhân, Huân chương lao động cho
02 tập thể và 03 cá nhân; Thủ tướng Chính phủ đã tặng Bằng khen cho 01 tập thể
và 10 cá nhân của Bộ, Ngành Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã tặng danh hiệu “Cờ
thi đua ngành Tư pháp” cho 76 tập thể, tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua ngành
Tư pháp” cho 19 cá nhân và tặng Bằng khen cho 1.267 tập thể, cá nhân.
12.2. Khó khăn, hạn chế
Phong trào thi đua chưa thực sự được đổi
mới căn bản, chất lượng thi đua còn thấp; tính hình thức
trong thi đua chưa được khắc phục triệt để. Việc phát hiện, xây dựng, bồi dưỡng,
nhân rộng điển hình tiên tiến có nơi, có lúc còn chưa rõ nét, chưa đáp ứng được
yêu cầu; công tác tuyên truyền các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt
việc tốt còn sơ sài, thiếu đồng bộ.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Năm 2016, Bộ, Ngành
Tư pháp đã khẩn trương triển khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát Chương
trình, Kế hoạch công tác, các Nghị quyết, chỉ đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ
và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Các nhiệm vụ của Bộ, Ngành Tư pháp
ngày càng bảo đảm chất lượng, tiến độ so với chương trình, kế hoạch đã đề ra từ
đầu năm; một số mặt công tác đạt kết quả cao: Công tác chỉ đạo điều hành được đổi
mới, kịp thời triển khai các chủ trương, chính sách, các chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước, Chính phủ, đặc biệt là bám sát chủ trương về xây dựng Chính phủ liêm
chính, kiến tạo, phục vụ; việc phối hợp giữa Bộ, Ngành Tư pháp với một số Bộ,
ngành khác được thực hiện chủ động, hiệu quả hơn. Việc xây dựng, hoàn thiện các
VBQPPL tiếp tục được chú trọng đầu tư nguồn lực, với nhiều quy định bảo đảm tốt
hơn các quyền con người, quyền công dân, phục vụ tốt hơn yêu cầu của người dân,
doanh nghiệp; giảm mạnh tình trạng “nợ đọng” văn bản thuộc thẩm quyền ban hành
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; việc thẩm định VBQPPL, đặc biệt là các nghị
định về điều kiện đầu tư kinh doanh được thực hiện khẩn trương, bảo đảm tiến độ.
Công tác PBGDPL, nhất là các văn bản liên quan đến bầu cử đại biểu Quốc hội và
HĐND các cấp được toàn Ngành tập trung đẩy mạnh; công tác hòa giải ở cơ sở
tạo được điểm nhấn quan trọng qua việc tổ chức thành công cuộc thi Hòa giải viên giỏi
lần thứ III. Thi hành án dân sự đạt kết quả cao, vượt chỉ tiêu cả về việc và về
tiền; tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống THADS.
Công tác hành chính tư pháp, nhất là áp dụng thí điểm phần mềm đăng ký khai
sinh và cấp số định danh cá nhân, gắn với triển khai Luật hộ tịch, bước đầu đạt
hiệu quả, kịp thời phục vụ nhân dân. Việc tham gia ý kiến pháp lý đối với các vụ
việc, các sự kiện liên quan đến môi trường, đầu tư quốc tế... được thực hiện kịp
thời, có chất lượng; hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật phục vụ tốt việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành. Công tác đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu khoa học tiếp tục đạt nhiều kết quả quan trọng.
2. Bên cạnh các kết quả
nêu trên, công tác tư pháp còn có một số khó khăn, hạn chế: Còn lúng túng trong
triển khai Luật ban hành VBQPPL 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP , chất lượng
một số VBQPPL chưa cao, còn có sai sót; nợ đọng thông tư của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh còn nhiều;
quản lý XLVPHC, TDTHPL còn nhiều khó khăn, một số quy định của Luật XLVPHC và
các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật còn chưa phù hợp với thực
tiễn, tính khả thi chưa cao, trùng lặp, chồng chéo, chưa xây dựng được Cơ sở dữ
liệu về XLVPHC; PBGDPL chưa thực sự gắn với trọng tâm về phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; trong THADS, số việc và tiền có điều kiện chưa thi hành
xong chuyển kỳ sau còn nhiều, vi phạm pháp luật trong công tác THADS có chiều
hướng gia tăng; còn lúng túng trong việc giải quyết hộ tịch có yếu tố nước
ngoài khi thực hiện phân cấp theo quy định mới của Luật hộ tịch; việc thành lập
Hội công chứng viên tại một số địa phương còn chậm so với yêu cầu; việc chuyển
đổi mô hình tổ chức hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng còn lúng
túng, tiêu chí xét duyệt hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng do một số địa
phương ban hành chưa phù hợp với quy định; việc triển khai Đề án đổi mới công
tác TGPL ở một số địa phương còn gặp khó khăn; công tác pháp chế ở nhiều địa
phương còn yếu; hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực của
Bộ, Ngành chưa cao.
3. Nguyên nhân chủ yếu
3.1. Về khách quan
Khối lượng công việc của Bộ, Ngành Tư
pháp ngày càng tăng, nhiều việc khó, phức tạp, yêu cầu về chất lượng, tiến độ
công việc ngày càng cao, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng pháp luật, quản lý
XLVPHC và TDTHPL, THADS, giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế... Trong khi đó,
đội ngũ công chức của Bộ, Ngành Tư pháp còn chưa đáp ứng đầy đủ cả số lượng, chất
lượng, lại đang thực hiện chủ trương tinh giản biên chế theo
Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP .
3.2. Về chủ quan
- Một số đơn vị thuộc Bộ chưa chủ động
trong công tác, chất lượng tham mưu còn hạn chế, chậm triển khai công việc, nhất
là trong hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ đối với các cơ quan tư pháp địa
phương.
- Thể chế trong một số lĩnh vực chưa
được quy định cụ thể, thống nhất, như về quản lý XLVPHC, TDTHPL, giám định tư
pháp...24, gây khó khăn cho các Bộ, ngành, địa
phương trong thực hiện nhiệm vụ.
- Nguồn kinh phí để thực hiện nhiệm vụ
trong một số lĩnh vực, như PBGDPL, TGPL, TDTHPL, chưa được quan tâm đúng mức đã
ảnh hưởng đến việc triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Sự quan tâm của một số Bộ, ngành và
UBND các cấp đối với công tác tư pháp, pháp chế chưa tương xứng với yêu cầu đặt
ra, đặc biệt, việc thành lập và củng cố, kiện toàn các tổ chức pháp chế ở cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh ở nhiều địa phương chưa được thực hiện
đúng quy định; đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch còn mỏng, có nhiều biến động
và phải kiêm nhiệm nhiều việc.
- Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành với
nhau, giữa Trung ương và địa phương còn có hạn chế, nhất là trong công tác hộ tịch,
xây dựng pháp luật, TDTHPL.
- Sự tham mưu của một số tổ chức pháp
chế, Sở Tư pháp cho Lãnh đạo các Bộ, ngành và cấp ủy, chính quyền địa phương có
lúc chưa kịp thời, đầy đủ.
Phần thứ hai:
PHƯƠNG
HƯỚNG, NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2017
Năm 2017 là năm thứ hai triển khai thực
hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, thực hiện Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, với nhiều cơ hội và cả những khó khăn,
thách thức đối với công tác pháp luật, tư pháp. Nghị quyết số 23/2016/QH14 của
Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017; chủ
trương và các chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng Chính phủ kiến tạo, phục vụ
cũng đã xác định nhiều nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
Bộ và Ngành Tư pháp, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng, hoàn thiện thể chế,
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, quản lý nhà nước về hành chính tư pháp, bổ
trợ tư pháp, THADS... Trong bối cảnh đó, toàn Ngành xác định rõ phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp để triển khai đồng bộ các mặt công tác thuộc chức
năng, nhiệm vụ của mình như sau:
I. PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG
TÁC TƯ PHÁP NĂM 2017
1. Thực hiện các nhiệm
vụ công tác tư pháp năm 2017 trong bối cảnh đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết
Đại hội lần thứ XII của Đảng, các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 4 Khóa XII
và các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội, đặc
biệt chú trọng các yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền, tăng cường dân chủ
XHCN, hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng
Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ Nhân dân, tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp và khởi nghiệp, góp phần tăng năng lực cạnh
tranh của quốc gia và của từng địa phương.
2. Tăng cường hiệu quả
công tác thực thi pháp luật, bảo đảm gắn kết chặt chẽ công tác theo dõi thi
hành pháp luật với công tác xây dựng, kiểm tra VBQPPL; kịp thời phát hiện và khắc
phục những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ, khả thi của văn bản; tăng cường năng
lực phản ứng chính sách.
3. Nâng cao hơn nữa hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tư pháp và pháp chế, trong đó tập trung vào những lĩnh vực như hộ tịch,
chứng thực, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước, xử lý vi phạm hành chính và
theo dõi thi hành pháp luật, THADS; phát triển bền vững và nâng cao chất lượng
các dịch vụ công do Bộ, Ngành Tư pháp quản lý.
4. Gắn việc thực hiện
chủ trương tinh giản biên chế với đổi mới lề lối làm việc; quản lý công việc
theo ISO 9001:2008; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, bảo đảm thực chất,
hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng các mặt công tác, đưa các lĩnh vực công
tác tư pháp thực sự đến gần với người dân, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người
dân.
II. NHIỆM VỤ CÔNG TÁC
TƯ PHÁP NĂM 2017
1. Công tác xây dựng, thẩm định, kiểm
tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống quy phạm pháp
luật; kiểm soát thủ tục hành chính
- Tập trung triển khai hiệu quả việc
thi hành Luật ban hành văn bản QPPL 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP , nhất là
xây dựng chính sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định của Chính
phủ, nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Tổ chức thực hiện tốt Kế hoạch
số 1141-KH/BCSĐCP ngày 11/11/2016 của Ban Cán sự đảng Chính phủ thực hiện Kết
luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 (giai đoạn 2016-2020); Chương trình trọng tâm
công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2016-2021 của Ban Cán sự đảng Chính phủ. Phối
hợp với các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật
để trình Quốc hội thông qua như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước (sửa đổi), Luật Trợ giúp
pháp lý (sửa đổi). Xây dựng Luật lý lịch tư pháp (sửa đổi); nghiên cứu, xây dựng
chính sách pháp luật của dự án Luật đăng ký tài sản.
- Tiếp tục thực hiện có chất lượng
công tác góp ý, thẩm định dự thảo VBQPPL, công tác theo dõi, đôn đốc xây dựng
văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh, tập trung tham gia xây dựng,
góp ý, thẩm định các dự thảo VBQPPL.
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, xử
lý VBQPPL theo thẩm quyền, nhất là các văn bản của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
UBND cấp tỉnh; những văn bản có tác động trực tiếp, rộng rãi đến người dân và
doanh nghiệp. Đảm bảo tiến độ, chất lượng trong công tác rà soát, hệ thống hóa,
hợp nhất VBQPPL và pháp điển hệ thống QPPL.
- Thực hiện các nhiệm vụ về kiểm soát
TTHC theo quy định của pháp luật và các kế hoạch, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ. Trong đó, tập trung ổn định tổ chức, bộ máy làm công tác kiểm soát
TTHC; kiểm soát TTHC ngay từ khâu xây dựng, thẩm định đề xuất, dự thảo VBQPPL,
bảo đảm nguyên tắc chỉ duy trì và ban hành những TTHC thực sự cần thiết, hợp
lý, hợp pháp, có chi phí tuân thủ thấp nhất.
2. Công tác thi hành án dân sự
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế công tác
THADS; nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật thi hành án hành chính; xây dựng, áp dụng
thống nhất các quy chế, thể chế nội bộ trong Hệ thống.
- Tập trung thi hành dứt điểm các vụ
việc có điều kiện thi hành, bảo đảm thi hành xong, đạt và vượt chỉ tiêu về việc
và tiền được giao một cách bền vững. Tập trung chỉ đạo giải quyết các vụ việc
thi hành án dân sự lớn, trọng điểm, phức tạp, kéo dài, các vụ việc liên quan đến
tín dụng ngân hàng, góp phần giải quyết nợ xấu cho các tổ chức tín dụng, tạo
môi trường kinh doanh thuận lợi.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính
chính xác trong phân loại và tổ chức thi hành án; thực hiện nghiêm túc việc
công khai thông tin của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành.
- Tiếp tục tăng cường kỷ luật, kỷ
cương hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành trong toàn Hệ thống; có biện pháp ngăn ngừa, đấu tranh nhằm giảm các việc
vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đặc biệt là vi phạm nghiệp vụ THADS.
3. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
hòa giải ở cơ sở;
báo chí, xuất bản
- Nghiên cứu, xây dựng trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Chương trình PBGDPL của Chính phủ giai đoạn 2017-2021; Đề án
đổi mới công tác PBGDPL giai đoạn 2017-2021; Quyết định về xây dựng, thực hiện
hương ước, quy ước trong cộng đồng dân cư; xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá hiệu
quả công tác PBGDPL. Nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách về hòa giải ở
cơ sở, nhất là các vấn đề liên quan đến áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng
và công nhận kết quả hòa giải thành ngoài tòa án.
- Tuyên truyền, phổ biến các Luật,
Pháp lệnh mới được Quốc hội thông qua năm 2016 và năm 2017; hướng dẫn, chỉ đạo
triển khai công tác PBGDPL gắn với các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế -
xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của đất nước, nhất là vấn đề khởi nghiệp; an
toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ môi trường và những vấn đề dư
luận xã hội quan tâm. Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin phục vụ
hoạt động PBGDPL.
- Tiếp tục triển khai thi hành Luật
hòa giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành; tổ chức sơ kết 03 năm triển
khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn để kịp thời tham mưu tháo gỡ vướng
mắc, bất cập. Củng cố, kiện
toàn mạng lưới Tổ hòa giải ở cơ sở và đội ngũ hòa giải viên.
- Triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng
xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật gắn với triển khai thực hiện
nghiêm túc và có hiệu quả tiêu chí tiếp cận pháp luật trong Bộ tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới và nhiệm vụ xây dựng, đánh giá cấp xã đạt chuẩn tiếp cận
pháp luật trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2016-2020.
- Cải tiến về nội dung, hình thức các ấn
phẩm báo chí, xuất bản, mở thêm các chuyên mục, chuyên trang điện tử; bám sát
các sự kiện chính trị - pháp lý của đất nước, các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ,
Ngành; phục vụ tốt nhu cầu của bạn đọc.
4. Công tác quản lý xử lý vi phạm hành
chính, theo dõi thi hành pháp luật
- Tiếp tục thực hiện hiệu quả Nghị định
số 56/2016/NĐ-CP ngày 29/6/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 của Chính phủ quy định chế độ
áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Nghị định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; Nghị định
sửa đổi Nghị định số 81/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính sau khi được Chính phủ ban
hành. Tổ chức sơ kết 05 năm thực hiện Luật XLVPHC phục vụ sửa đổi, bổ sung Luật
này trong thời gian tới.
- Tiếp tục chú trọng công tác theo dõi
thi hành pháp luật, gắn với công tác xây dựng, kiểm tra VBQPPL, tập trung vào
các lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận và lĩnh vực được xác định trọng
tâm theo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2017. Tăng cường tổ chức các
đoàn kiểm tra liên ngành để kịp thời hướng dẫn, đôn đốc và tháo gỡ vướng mắc
trong công tác theo dõi thi hành pháp luật ở các Bộ, ngành, địa phương.
5. Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi
con nuôi, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà nước
- Tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ,
hiệu quả Luật hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành, các VBQPPL về quốc tịch,
chứng thực; thực hiện tốt Chương trình hành động quốc gia về đăng ký và thống
kê hộ tịch của Việt Nam giai đoạn 2016-2024 sau khi được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt. Mở rộng việc áp dụng phần mềm đăng ký hộ tịch gắn với cấp số định
danh cá nhân cho trẻ em khi thực hiện đăng ký khai sinh.
- Nghiên cứu, đề xuất và triển khai
các giải pháp để giải quyết vấn đề hộ tịch, quốc tịch cũng như thực hiện chính
sách an sinh xã hội để bảo đảm tốt nhất quyền của trẻ em cho nhóm trẻ em là con
của công dân Việt Nam với người nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam;
tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện Tiểu đề án “Giải quyết các vấn đề về quốc
tịch, hộ tịch, hộ khẩu và các giấy tờ tùy thân khác cho người di cư tự do từ
Campuchia về nước”; Xây dựng và triển khai Kế hoạch mới thực hiện giải quyết vấn
đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước Việt
- Lào theo Thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước trong giai đoạn gia hạn.
- Sửa đổi Thông tư số 15/2014/TT-BTP
ngày 20/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn tìm gia đình thay thế cho trẻ
em có nhu cầu chăm sóc đặc biệt. Tiếp tục phối hợp với Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội thực hiện tốt công tác giải quyết việc nuôi con nuôi, công tác
tìm gia đình thay thế cho trẻ em ở nước ngoài, đặc biệt là trẻ em bị khuyết tật,
trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo không có cơ hội tìm gia đình thay thế ở Việt Nam.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và quản lý cơ
sở dữ liệu LLTP, đảm bảo thông tin LLTP được kiểm tra, phân loại, lập LLTP, cập
nhật bổ sung và đưa vào lưu trữ kịp thời. Tổng kết Đề án thí điểm cấp Phiếu
LLTP qua dịch vụ bưu chính công ích, đăng ký cấp Phiếu LLTP trực tuyến và đề xuất
giải pháp cho thời gian tới; tiếp tục triển khai hiệu quả giải pháp ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác tra cứu, xác minh thông tin để cấp
Phiếu LLTP, bảo đảm tuân thủ đúng trình tự, thủ tục, thời hạn và cải cách hành
chính trong việc cấp Phiếu.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện dự
thảo: Nghị định về giao dịch bảo đảm (thay thế Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012) và Nghị định về
đăng ký biện pháp bảo đảm (thay thế Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010).
Tập trung triển khai thực hiện việc cung cấp dịch vụ công mức độ 4 trong đăng
ký trực tuyến giao dịch bảo đảm; hoàn thiện quy trình giải quyết đơn yêu cầu
đăng ký, cung cấp thông tin, bảo đảm khoa học, hợp lý và tạo sự thuận lợi tối
đa cho người dân, doanh nghiệp.
- Kịp thời xây dựng, trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật TNBTCNN (sửa đổi); trình cấp
có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành Luật TNBTCNN (sửa đổi) sau khi được Quốc hội thông
qua. Chú trọng công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hoạt động giải quyết bồi
thường, chi trả tiền bồi thường và xem xét, thực hiện trách nhiệm hoàn trả; hướng
dẫn, chỉ đạo cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện việc giải quyết bồi
thường theo đúng quy định của pháp luật.
6. Công tác bổ trợ tư pháp, trợ giúp
pháp lý
- Xây dựng, hoàn thiện và trình Chính
phủ Nghị định hướng dẫn Luật đấu giá tài sản; Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định
số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật luật sư; Nghị định về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại.
- Tập trung triển khai thi hành có hiệu
quả các quy định của Luật đấu giá tài sản; triển khai Đề án thành lập Hiệp hội
công chứng viên Việt Nam sau khi được Thủ tướng Chính phủ ban hành; thực hiện
hiệu quả, đồng bộ các đề án, văn bản trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về bổ trợ tư pháp, trong đó chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra
chuyên ngành về lĩnh vực luật sư, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá
tài sản, thừa phát lại.
- Kịp thời xây dựng, trình Thủ tướng
Chính phủ Kế hoạch triển khai thi hành Luật TGPL (sửa đổi), trình Chính phủ Nghị
định quy định chi tiết một số điều thi hành Luật; ban hành theo thẩm quyền các
văn bản hướng dẫn Luật sau khi được Quốc hội thông qua. Tiếp tục triển khai thực
hiện có hiệu quả Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025, tập
trung vụ việc tố tụng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý và
đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý; triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo giai đoạn
2016-2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp, điển hình.
Tiếp tục rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Chi nhánh, Câu lạc bộ TGPL;
giám sát chất lượng vụ việc TGPL trong toàn quốc.
7. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác
quốc tế về tư pháp và pháp luật
- Tham mưu giúp Chính phủ xử lý kịp thời
các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế, đàm phán, ký kết
và thực hiện điều ước quốc tế; triển khai kết quả rà soát Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP). Triển khai hiệu quả các kế hoạch thực thi Công ước
Tống đạt Công ước La Hay năm 1965 về tống đạt ra nước ngoài giấy tờ tư pháp và
ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại. Kiện toàn tổ chức đầu mối
chuyên trách về giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế, đảm bảo thực hiện có hiệu
quả vai trò làm đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết các vụ kiện
tranh chấp đầu tư quốc tế.
- Tăng cường quản lý nhà nước hợp tác
quốc tế về pháp luật, đưa công tác hợp tác quốc tế về pháp luật ngày càng đi
vào nề nếp, tiếp tục hỗ trợ tích cực cho công cụộc cải cách pháp luật, hoàn thiện
hệ thống pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đảm bảo bám
sát, thể hiện đầy đủ và đúng đắn quan điểm, chủ trương, đường lối và chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hoàn thành Đề án định hướng phát triển quan
hệ hợp tác của Bộ Tư pháp giai đoạn 2017-2020 làm cơ sở cho việc phát triển
quan hệ hợp tác với các đối tác trong thời gian tới. Đẩy mạnh hoạt động của
Nhóm quan hệ đối tác pháp luật. Thực hiện hiệu quả các Thỏa thuận hợp tác về
pháp luật và tư pháp đã ký kết, đưa các quan hệ hợp tác đã thiết lập được phát triển
theo chiều sâu, đặc biệt
với các đối tác truyền thống, tận dụng cơ hội mở rộng hợp tác với những đối tác
tiềm năng, gắn bó chặt chẽ, phục vụ đắc lực và tập trung hiệu quả cho việc thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ và Ngành Tư pháp. Tham gia chủ động, có
trách nhiệm và hiệu quả vào các tổ chức, diễn đàn quốc tế về pháp luật và tư
pháp mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là IDLO; chuẩn bị tốt các điều kiện
cho việc Việt Nam gia nhập UNIDROIT.
8. Công tác xây dựng Ngành; đào tạo, bồi
dưỡng; nghiên cứu khoa học pháp lý
- Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy của
Bộ, Ngành theo quy định của Nghị định thay thế Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày
13/3/2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Tư pháp; Xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện Thông tư thay thế
Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV .
- Thực hiện nghiêm Kế hoạch số
1141-KH/BCSĐCP của Ban Cán sự đảng Chính phủ, trong đó yêu cầu: Tiếp tục rà
soát kiện toàn cơ quan, tổ chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế, thi
hành pháp luật ở Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp. Theo đó, tiếp tục
duy trì tổ chức pháp chế ở các Bộ, ngành, địa phương; đồng thời, căn cứ tình
hình cụ thể của mỗi Bộ, ngành, địa phương để sắp xếp, bố trí, ổn định đội ngũ
cán bộ bảo đảm đủ về số lượng, có trình độ, chất lượng phù hợp với yêu cầu nhiện
vụ công việc.
- Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án tổng
thể "Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật" và Đề án
"Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh Tư
pháp". Nghiên cứu đa dạng hóa hình thức, loại hình đào tạo; đổi mới công
tác tuyển sinh tại các trường trung cấp luật.
- Tiếp tục nghiên cứu các luận cứ khoa
học phục vụ đắc lực cho công tác xây dựng thể chế của Ngành, trọng tâm là các
luật, bộ luật do Bộ Tư pháp chủ trì; nghiên cứu và hoàn thành các nhiệm vụ khoa
học phục vụ cho việc xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển Ngành, tăng cường
năng lực quản nhà nước của Bộ, Ngành Tư pháp.
9. Công tác kế hoạch, thống kê, ngân
sách - tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản; ứng dụng công nghệ thông tin
- Sửa đổi Quy chế xây dựng kế hoạch;
nâng cao chất lượng xây dựng các kế hoạch công tác của Bộ, Ngành. Khẩn trương
triển khai ứng dụng phần mềm Báo cáo thống kê theo Thông tư số 04/2016/TT-BTP
(giai đoạn I triển khai đến các Sở Tư pháp); nâng cao chất lượng báo cáo và hiệu
quả sử dụng số liệu thống kê trong từng lĩnh vực công tác tư pháp.
- Xây dựng Quyết định giao quyền tự chủ
tài chính giai đoạn 2017-2019 cho các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực kinh tế
và sự nghiệp khác theo Nghị định 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ.
- Tổ chức thực hiện tốt công tác quản
lý ngân sách - tài sản và đầu tư xây dựng cơ bản, bảo đảm đáp ứng tốt việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành, đồng thời bảo đảm triệt để tiết kiệm,
đúng chế độ quy định. Tăng cường công tác kiểm tra trên các lĩnh vực quản lý
ngân sách - tài sản và xây dựng cơ bản. Tổ chức thực hiện tốt các đề án đã được
phê duyệt về xây dựng trụ sở, kho vật chứng và đầu tư trang thiết bị, phương tiện
làm việc cho các cơ quan THADS.
- Đẩy mạnh các nhiệm vụ ứng dụng công
nghệ thông tin theo yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử; xây dựng và triển khai
các phần mềm chuyên ngành trong lĩnh vực THADS, nuôi con nuôi, luật sư...; thực
hiện cung cấp dịch vụ hành chính công mức độ 3, 4 theo yêu cầu tại Nghị quyết số
36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử.
10. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống
tham nhũng
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động thanh tra; tăng cường công tác thanh tra đột xuất. Tiếp tục thực hiện
tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tập trung giải quyết
bảo đảm đúng thời hạn, có chất lượng các vụ việc khiếu nại, tố cáo, trong đó giải
quyết dứt điểm 100% các vụ việc từ năm 2016 chuyển sang và phấn đấu giải quyết
trên 85% các vụ việc mới phát sinh trong năm 2017.
11. Công tác thi đua, khen thưởng
Thực hiện tốt phong trào thi đua thường
xuyên, tập trung thúc đẩy việc hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm công tác năm
2017 của Ngành, gắn kết với các phong trào thi đua “Ngành Tư pháp chung sức
góp phần xây dựng nông thôn mới ”, “Cán bộ Tư pháp đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” giai đoạn
2016-2020. Tổ chức có hiệu quả, thiết thực các phong trào thi đua theo đợt,
chuyên đề khác do Bộ, Ngành phát động.
III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ
TRỌNG TÂM
Trên cơ sở thực hiện đầy đủ, toàn diện
và đồng bộ các nhiệm vụ cụ thể nêu trên, Bộ, Ngành Tư pháp xác định một số nhiệm
vụ trọng tâm cần tập trung nguồn lực để thực hiện trong năm 2017, cụ thể như
sau:
1. Củng cố, kiện toàn tổ
chức bộ máy, cán bộ các cơ quan tư pháp, pháp chế từ Trung ương đến địa phương
gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP về
tinh giản biên chế, triển khai hiệu quả Nghị định thay thế Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ,
Thông tư thay thế Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT/BTP-BNV
và Kế hoạch số 1141/BCSĐCP của Ban Cán sự Đảng Chính phủ về việc thực hiện Kết
luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW
về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
2. Triển khai có hiệu
quả Luật ban hành VBQPPL năm 2015, nhất là những quy định mới của Luật này. Tiếp
tục xây dựng, hoàn thiện các dự án luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo bảo đảm
tiến độ, chất lượng. Tổ chức thực hiện tốt công tác thẩm định, kiểm tra VBQPPL,
đồng thời tập trung nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện thể chế liên quan đến quản
lý hoạt động đầu tư kinh doanh nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của
doanh nghiệp, đặc biệt là chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Giải quyết
dứt điểm tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tổ
chức triển khai bài bản các bộ luật, luật có hiệu lực trong năm 2017.
3. Xây dựng và tổ chức
triển khai hiệu quả Đề án đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và Chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017-2020. Chú trọng phổ biến các
VBQPPL liên quan trực tiếp đến hoạt động của người dân, doanh nghiệp và tư vấn,
hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp và những vấn đề dư luận xã hội quan tâm hoặc cần
định hướng dư luận xã hội. Đẩy mạnh công tác thông tin về các hoạt động của Bộ,
Ngành.
4. Tăng cường công tác
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; Kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ vướng
mắc trong triển khai thi hành Luật công chứng năm 2014. Chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để tổ chức thực hiện tốt Đề án thành lập Hiệp hội công chứng Việt Nam
sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thực hiện các giải pháp nhằm phát
triển bền vững các nghề bổ trợ tư pháp như thừa phát lại, đấu giá tài sản, quản
tài viên.
5. Triển khai có hiệu
quả Chương trình hành động quốc gia về đăng ký, thống kê hộ tịch giai đoạn
2016-2024 sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gắn với việc thi hành Luật
hộ tịch; mở rộng việc áp dụng phần mềm đăng ký hộ tịch gắn với cấp số định danh
cá nhân khi thực hiện đăng ký khai sinh. Triển khai các giải pháp để giải quyết
tốt vấn đề hộ tịch, quốc tịch cho trẻ em là con của công dân Việt Nam với người
nước ngoài đang cư trú trên lãnh thổ Việt Nam, người di cư tự do từ các nước có
chung đường biên giới về nước.
6. Hoàn thành các chỉ
tiêu THADS được giao (trên 70% về việc; 30% về tiền; giảm án chuyển kỳ sau ít
nhất 8% số việc và 6% số tiền có điều kiện thi hành). Tiếp tục đổi mới công tác
quản lý chỉ đạo, điều hành gắn với việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán
bộ trong toàn Hệ thống; siết chặt kỷ cương, kỷ luật, khắc phục tình trạng cán bộ,
công chức THADS vi phạm pháp luật. Tăng cường hơn nữa công tác phối hợp với các
cơ quan hữu quan trong THADS; tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc trọng điểm,
phức tạp, kéo dài, đặc biệt đối với các vụ án tham nhũng nhằm thu hồi tài sản
nhà nước, các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng. Đẩy mạnh việc ứng dụng
công nghệ thông tin. Triển khai trên toàn quốc cơ chế “một cửa” và cung cấp dịch
vụ công mức độ 3 đối với việc thụ lý đơn, giải quyết yêu cầu thi hành án.
7. Nghiên cứu đề xuất
việc điều chỉnh các nhiệm vụ, chỉ tiêu trong Đề án xây dựng Trường Đại học Luật
Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật và Đề án xây dựng Học
viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp theo hướng nâng
cao chất lượng đào tạo, từng bước mở rộng nguồn đào tạo của Học viện Tư pháp.
Xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo nghề nghiệp, chương trình đào tạo
đại học, sau đại học theo định hướng ứng dụng gắn với nhu cầu xã hội. Đẩy mạnh
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, từng bước tiếp nhận công nghệ giáo dục
hiện đại trong việc đào tạo luật.
8. Tham mưu giúp Chính
phủ kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh trong hội nhập quốc tế, đàm phán, ký kết,
thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận, cam kết quốc tế và giải quyết các tranh
chấp quốc tế. Thực hiện hiệu quả các Thỏa thuận hợp tác về pháp luật và tư pháp
đã ký kết hoặc tham gia bảo đảm đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn,
trong đó cần chú trọng tạo điều kiện, cơ hội cho đội ngũ công chức trẻ tiếp cận
các kiến thức, kinh nghiệm nước ngoài.
9. Hoàn thành việc cung
cấp dịch vụ công mức độ 4 trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm, lý lịch tư
pháp đảm bảo đúng tinh thần theo Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính
phủ điện tử. Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo,
điều hành, quản lý và giải quyết các công việc của người dân, doanh nghiệp. Triển
khai hiệu quả việc sử dụng chữ ký số trong Bộ, Ngành Tư pháp.
IV. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác
tư pháp năm 2017, Bộ, Ngành Tư pháp xác định một số giải pháp chủ yếu sau đây:
1. Xây dựng các chương
trình, kế hoạch công tác cụ thể, có tính khả thi cao, bám sát các mục tiêu, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương. Chỉ đạo quyết liệt việc
triển khai thực hiện các kế hoạch công tác ngay từ đầu năm.
2. Tăng cường công tác
phối hợp giữa Bộ với các cơ quan và cấp ủy, chính quyền các cấp trong chỉ đạo, điều
hành công tác tư pháp từ Trung ương đến địa phương; kịp thời phát hiện, xử lý
hoặc báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để có giải pháp tháo gỡ những khó
khăn, bất cập trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
3. Tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; đổi mới
lề lối làm việc; nâng cao hiệu quả các cuộc họp, tiếp tục giảm số lượng cuộc họp;
khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập, xử lý nghiêm các biểu hiện
tiêu cực, gây phiền hà, sách nhiễu trong khi giải quyết yêu cầu của người dân, nhất
là trong các lĩnh vực THADS, hộ tịch, LLTP tại địa phương.
4. Chú trọng đào tạo,
đào tạo lại, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
cho cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ tư pháp ở cơ
sở.
5. Phát huy hiệu quả
các công cụ quản lý kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và thi đua -
khen thưởng, bảo đảm linh hoạt, kịp thời. Chỉ đạo tổ chức tốt các phòng trào
thi đua - khen thưởng, bảo đảm gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn của từng cơ quan.
Nơi nhận:
-
Ban Bí thư (để báo cáo);
-
Thủ tướng Chính phủ (để báo cáo);
-
Phó TTgTTCP Trương Hòa Bình (để báo cáo);
-
Ban Nội chính Trung ương;
-
Văn phòng Trung ương Đảng;
-
Văn phòng Quốc hội;
-
Văn Phòng Chính phủ;
-
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
-
UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
-
Các Thứ trưởng (để biết);
-
Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, tổ chức pháp chế thuộc Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng,
STP, Cục
THADS
các tỉnh, TP trực thuộc TW (để thực hiện);
-
Lưu: VT, VP(PTH).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Lê
Thành Long
|