TỔNG
CỤC HẢI QUAN
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
517-TCHQ/PC
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 4 năm 1987
|
THÔNG TƯ
CỦA TỔNG CỤC HẢI QUAN SỐ 517-TCHQ/PC NGÀY 17-4-1987 HƯỚNG DẪN
THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH SỐ 126-CT VÀ THÔNG TƯ CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ
128-CT NGÀY 10-4-1987 VỀ VIỆC SỬA ĐỔI BỔ SUNG QUYẾT ĐỊNH SỐ 151 - HĐBT NGÀY
31-8-1982 VỀ CHẾ ĐỘ NHẬN TIỀN VÀ HÀNG DO NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI GỬI
VỀ GIÚP GIA ĐÌNH
Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng đã ra Quyết định số 126-CT và Thông tư số 128-CT về việc sửa đổi, bổ
sung Quyết định số 151 - HĐBT ngày 31-8-1982 về chế độ nhận tiền và hàng do người
Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về giúp gia đình.
Thi hành điều 8 Quyết định số
126-CT, Tổng cục Hải quan hướng dẫn, thi hành các phần việc có liên quan đến Hải
quan để các cấp Hải quan và các ngành có liên quan thực hiện.
I.
VỀ VIỆC ĐEM NGOẠI TỆ QUA CỬA KHẨU.
1. Quyết định số
126 - CT đã quy định về việc gửi và đem ngoại tệ về nước. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam sẽ hướng dẫn cụ thể. Về công tác Hải quan chỉ có liên quan đến những người
xuất nhập cảnh có mang theo ngoại tệ vào Việt Nam. Trong đó có những người liên
quan đến vấn đề kiều hối.
a) Người nhập cảnh phải khai báo
trên tờ khai hành lý nhập khẩu số ngoại tệ đem theo vào Việt Nam (bao nhiêu tiền,
tiền của nước nào, loại gì).
Hải quan cửa khẩu phải hướng dẫn
khách khai báo đầy đủ, theo đúng quy định trên tờ khai (chú ý ghi bằng chữ và bằng
số số ngoại tệ đem vào).
Tờ khai phải được Trưởng, Phó
trưởng Hải quan cửa khẩu hoặc cán bộ được uỷ nhiệm xác nhận và đóng dấu thì mới
là hợp pháp và hợp thức để sử dụng ở Việt Nam. Như thế trường hợp người có ngoại
tệ có khoản nào muốn được thi hành theo chính sách kiều hối, thì mới thuận tiện
cho Ngân hàng tính toán cho đương sự.
b) Khi xuất cảnh phải xuất trình
với Hải quan cửa khẩu đầy đủ các chứng từ như hoá đơn mua hàng hợp lệ bằng ngoại
tệ do các cửa hàng dịch vụ bán thu ngoại tệ cấp; biên lai chuyển đổi ngoại tệ
ra tiền Việt Nam theo chính sách kiều hối do Ngân hàng Nhà nước cấp; số ngoại tệ
còn lại (nếu có), kèm theo tờ khai hành lý nhập khẩu.
Qua kiểm tra, đối chiếu giữa số
ngoại tệ kê khai khi nhập cảnh và các chứng từ xuất trình khi xuất cảnh, nếu thấy
hụt đi mà không có xác nhận của Ngân hàng hoặc không có chứng từ hợp pháp, hợp
lệ thì coi như chuyển ngân trái phép, Hải quan cửa khẩu sẽ lập biên bản để xử
lý.
2. Theo đúng Thông tư số 128-CT
tất cả các trường hợp có ngoại tệ đem vào khi nhập cảnh và đem ra khi xuất cảnh
mà giấu giếm không khai báo với Hải quan cửa khẩu thì coi như mang ngoại tệ
trái phép qua biên giới, và tất cả các trường hợp chuyển ngân trái phép dưới bất
cứ hình thức nào đều bị xử lý theo Điều lệ Hải quan và pháp luật hiện hành.
3. Hải quan tỉnh, thành phố, đặc
khu yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở địa phương có nhân viên làm việc ở
các cửa khẩu để phối hợp chặt chẽ với Hải quan.
Nếu không có nhân viên Ngân hàng
Nhà nước mà Hải quan cửa khẩu phải xác nhận vào tờ khai thì nên yêu cầu người
có tiền sắp xếp từng loại, theo trị giá của từng loại tiền để Hải quan đến và
ghi được nhanh chóng, tránh kéo dài sự chờ đợi của hành khách ở cửa khẩu. Trong
trường hợp này Hải quan còn yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp cho Hải
quan cửa khẩu máy kiểm tra ngoại tệ.
II.
VỀ VIỆC NHẬN HÀNG
Căn cứ chủ trương
"khuyến khích gửi tiền hoặc tư liệu sản xuất hoặc hàng tiêu dùng thiết yếu
về nước", việc nhận hàng (nhập khẩu phi mậu dịch) và việc gửi hàng (xuất
khẩu phi mậu dịch) có những điểm như cũ và những thay đổi mới dưới đây:
1. Vẫn tiếp tục duy trì sổ nhận
hàng để quản lý việc gửi và nhận hàng.
Từ nay không cần cấp sổ tạm thời
nữa mà cấp thẳng sổ thường xuyên.
Thủ tục cấp "Sổ nhận
hàng" và bổ sung tên người nhận, người gửi vào sổ vẫn như cũ.
Do không hạn chế số lần nhận nên
không phạt quá số lần nữa nhưng mỗi lần nhận hàng vẫn có ghi vào "Sổ nhận
hàng" để quản lý tờ khai hàng nhập khẩu phi mậu dịch vẫn duy trì để thống
kê Hải quan và quản lý cụ thể về thuế.
Cần giải thích rõ việc duy trì
"Sổ nhận hàng" chính là để tránh phiền hà cho nhân dân. Những người
có tên trong sổ đều được đi nhận hàng dễ dàng, thuận tiện, không phải lấy giấy
xác nhận của chính quyền hoặc công an địa phương nơi mình cư trú hoặc cơ quan,
đoàn thể nơi mình công tác.
Chỉ có hàng nhận về là bỏ các hạn
chế cũ về số lần, trọng lượng và trị giá. Hàng gửi đi mỗi năm vẫn quy định là bốn
(4) lần.
3. Hàng gửi đi và hàng nhận về vẫn
phải nộp lệ phí 1% và, nếu vượt định mức miễn thuế thì phần vượt định mức phải
nộp thuế hàng hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch (Định mức miễn thuế vẫn như cũ là
bốn trăm đồng trở xuống đối với giá trị hàng nhận về và hai trăm đồng trở xuống
đối với trị giá hàng gửi đi).
4. Được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
uỷ quyền Tổng cục Hải quan ban hành Danh mục hàng cấm xuất khẩu và xuất khẩu có
điều kiện bằng đường phi mậu dịch và Danh mục hàng cấm nhập khẩu và nhập khẩu
có điều kiện bằng đường phi mậu dịch kèm theo Quyết định số 516-TCHQ/PC ngày
17-4-1987 để thay thế các Danh mục tương tự do Bộ Ngoại thương ban hành kèm
theo Quyết định số 103-BNgT/PCHQ ngày 3-3-1983 và do liên Bộ Tài chính - Ngoại
thương ban hành kèm theo Thông tư Liên Bộ số 9-TTLB/TC/NgT ngày 25-3-1983.
Các Danh mục nói trên do Tổng cục
Hải quan ban hành chẳng những áp dụng đối với hàng xuất nhập theo Quyết định số
151-HĐBT ngày 31-8- 1982 của Hội đồng Bộ trưởng và Quyết định số 126-CT ngày
10-4-1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng mà còn áp dụng chung đối với hàng xuất
nhập theo Chỉ thị số 202-HĐBT ngày 10-7-1985 của Hội đồng Bộ trưởng, Thông tư
Liên Bộ Giao thông Vận tải - Tổng cục Hải quan số 297-TTLB ngày 15-3-1986 và tất
cả các loại hàng phi mậu dịch khác xuất nhập khẩu dưới hình thức hành lý, quà
biếu, hàng tiếp tế, tài sản di chuyển... các cấp Hải quan phải niêm yết các
Danh mục mới này tại trụ sở làm việc và ở các cửa khẩu để nhân dân biết.
Hàng cấm trao đổi, mua bán giữa
nhân dân trong khu vực biên giới Việt Nam - Lào và Việt Nam - Cam-Pu-Chia sẽ có
Danh mục riêng.
5. Bộ Vật tư sẽ ban hành danh mục
tư liệu sản xuất và những mặt hàng khuyến kích và được ưu đãi. Bộ Tài chính sẽ
quy định việc giảm hoặc miễn thuế đối với những mặt hàng nói trên.
Trong khi chờ đợi Bộ Vật tư và Bộ
Tài chính ban hành các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện, tạm thời vẫn
thu thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch vào hàng nhận về như hiện nay để tránh
thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Sau khi có các văn bản của Bộ Vật tư và Bộ Tài
chính ban hành, nếu thu thừa của khách, Hải quan sẽ hoàn lại số tiền thuế thu
thừa cho người nộp. Các cấp Hải quan cần nói rõ việc này để nhân dân biết. Đến
khi Bộ Vật tư và Bộ Tài chính đã có văn bản hướng dẫn thì áp dụng ngay. Đồng thời
nếu có việc truy thu, truy hoàn tiền thuế thì phải làm nghiêm túc.
6. Sau khi hoàn thành thủ tục Hải
quan, người nhận được đem toàn bộ lô hàng về để sản xuất hoặc sử dụng. Khi muốn
bán thì khuyến khích bán lại hàng cho các cơ sở thu mua của Nhà nước theo quy định
ở Thông tư số 128-CT ngày 10-4-1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
7. Hội đồng Bộ trưởng sẽ ban
hành chế độ thuế phụ thu đối với hàng nhận.
Khi nhận được chế độ thuế phụ thu
này, các cấp Hải quan phải đề nghị chính quyền địa phương hoặc ngành Tài chính
công bố công khai để nhân dân biết. Đồng thời cán bộ hải quan làm thuế phải được
học tập quán triệt - Để khỏi nhầm lẫn phải ghi vào cạnh thuế suất của từng mặt
hàng trong biểu thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch để tiện cho việc tra cứu
khi tính thuế và phải thực hiện nghiêm chỉnh.
Tổng cục Hải quan sẽ hướng dẫn cụ
thể cách tính thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch và thuế phụ thu.
III.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ.
1. Việc thành lập mới
các tổ chức dịch vụ nhận và trả hàng phi mậu dịch nhập khẩu ở các tỉnh, thành
phố, đặc khu làm theo Thông tư số 128-CT ngày 10-4-1987. Sau khi thảo luận thống
nhất giữa Uỷ ban Nhân dân địa phương và Tổng cục Hải quan về các điều kiện để thành
lập tổ chức nói trên, chính quyền địa phương ra quyết định thành lập, Tổng cục
Hải quan sẽ ra quyết định tổ chức đơn vị Hải quan ở đó để làm nhiệm vụ kiểm tra
và quản lý.
Đối với các tổ chức dịch vụ nói
trên hiện đang hoạt động, chính quyền địa phương cần trao đổi với tổng cục Hải
quan để hợp thức hoá.
2. ở các địa phương đã có các cơ
sở dịch vụ bán hàng thu ngoại tệ thì phải có quyết định chính thức của chính
quyền địa phương. Từ nay hoạt động của các cơ sở này đều đặt dưới sự kiểm tra
và quản lý của Hải quan tỉnh, thành phố, đặc khu.
3. Theo tinh thần Thông tư số
128-CT ngày 10-4-1987 hàng tư bản của các cơ sở trên được nhập khẩu theo giấy
phép của Bộ Ngoại thương để hình thành quỹ hàng hoá bán thu ngoại tệ, bán thưởng
hay khuyến khích, từ nay đều phải nộp thuế hàng hoá nhập khẩu phi mậu dịch (kể
cả phụ thu nếu có) và lệ phí quy định.
Các cơ sở trên nếu mua lại hàng
nhập khẩu phi mậu dịch của các tư nhân thì chỉ được mua các loại hàng mà người
có hàng đã hoàn thành thủ tục về thuế.
Thủ tục hải quan về việc nhập khẩu
và bán hàng cho các đối tượng quy định phải thực hiện đúng công văn số
1628-TCHQ/PC ngày 31-10-1986 của Tổng cục Hải Quan.
4. Việc thừa nhận các Công ty dịch
vụ của các tổ chức Việt kiều ở nước ngoài vẫn theo như cũ.
IV.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Cục Giám quản có
trách nhiệm :
- Hướng dẫn cách tính thuế hàng
hoá xuất nhập khẩu phi mậu dịch, thuế phụ thu và lệ phí quy định.
- Theo dõi chỉ đạo việc thực hiện
những quy định trong Thông tư này.
- Tổng hợp tình hình, đánh giá kết
quả thực hiện trong từng quý, kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung những quy định
cụ thể trong Thông tư này.
Vụ Kế hoạch - Tài vụ có trách
nhiệm:
- Tăng cường kiểm tra việc thu
thuế, thu nộp ngân sách.
- Đôn đốc, nhắc nhở Hải quan tỉnh,
thành phố, đặc khu báo cáo thu nộp theo đúng chế độ quy định.
2. Giám đốc Hải quan tỉnh, thành
phố, đặc khu có trách nhiệm:
- Tổ chức cho các đơn vị trực
thuộc học tập quán triệt Quyết định số 126-CT, Thông tư số 128-CT, các văn bản
hướng dẫn thực hiện của Bộ Vật tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam...
và của Tổng cục Hải quan, phối hợp chặt chẽ với các ngành có liên quan ở địa
phương để thực hiện nghiêm chỉnh.
- Tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi các văn bản nói trên để mọi người hiểu đúng và chấp hành đúng.
- Tham gia ý kiến với chính quyền
địa phương về việc thành lập tổ chức dịch vụ nhận và trả hàng phi mậu dịch nhập
khẩu và tổ chức dịch vụ bán hàng thu ngoại tệ ở địa phương. Và thực hiện chức
trách Hải quan đối với các tổ chức này cũng như hàng hoá nhập khẩu của các tổ
chức này.
3. Thông tư này có hiệu lực thi
hành từ ngày ký.
Những quy định trước đây trái với
Thông tư này đều bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện, nếu gặp
khó khăn trở ngại gì, đề nghị các cấp Hải quan và các ngành có liên quan phản ảnh
kịp thời về Tổng cục Hải quan để nghiên cứu giải quyết.