THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
114-TTg
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 11 năm 1962
|
THÔNG TƯ
BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỂM VỀ GIAO NHẬN THẦU THI CÔNG CÁC CÔNG
TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
Trước đây Nhà nước đã ban hành Quyết định
354-TTg ngày 05-8-1957; Thông tư 139 TTg ngày 28-6-1960 và Nghị định 64-CP ngày
19-11-1960 trong đó có đề ra các nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho công tác và tổ
chức cơ quan chủ quản (A) và cơ quan nhận thầu thi công (B). Nhũng thể lệ,
nguyên tắc ấy đã có tác dụng nhất định trong việc tăng cường quản lý xây dựng
cơ bản. Tuy nhiên vì thiếu một số quy định cụ thể, nên nhiều nơi nhiệm vụ và chức
năng của A, B chưa được quán triệt đầy đủ, do đó công việc chồng chéo lên nhau
và bộ máy tổ chức còn quá cồng kềnh.
Theo đề nghị của Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước,
sau khi có ý kiến của các Bộ, các ngành, Thủ tướng Chính phủ quy định những điều
sau đây:
1. Cần tiếp tục mở rộng
diện tích thi công theo lối giao, nhận thầu, và hạn chế việc tự làm.
Các ngành có lực lượng thi công như Bộ Kiến
trúc, Bộ Giao thông vận tải… cần tăng cường bộ máy quản lý kiến thiết cơ bản,
(Cục hay Phòng Kiến thiết cơ bản, Ban Kiến thiết) để làm tốt trách nhiệm quản
lý vốn của bản thân cũng như nguồn vốn của các ngành khác ủy thác. Hình thức ủy
thác vốn cần được ủy thác nhiều hơn nữa đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp
và đối với các đoàn thể.
Về số công trình thuộc các Bộ mà vốn xây dựng
không nhiều, phân tán, khả năng quản lý vốn khó khăn, nên ủy thác vốn cho Bộ
thi công quản lý.
2. Cần thực hiện chế độ
thầu chính, thầu phụ, khi một công trình do nhiều ngành chuyên môn tham gia xây
lắp, phải có một đơn vị thi công đứng ra làm thầu chính. Cơ quan quản lý (bên
A) chỉ ký kết hợp đồng thi công với một đơn vị thầu chính, đơn vị này giao thầu
lại cho các đơn vị chuyên môn khác những phần việc mình không tự làm, và có
trách nhiệm điều hòa phối hợp giữa các đơn vị thi công.
3. Trách nhiệm chủ yếu của
các đơn vị chủ quản là:
Trước khi thi công: giải quyết đầy đủ các thủ tục
về địa điểm, nhiệm vụ thiết kế, tổng khái toán, tổng dự án, lập và trình lên cấp
có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch và tổng tiến độ thi công, ký kết hợp đồng giao
nhận thầu.
Trong quá trình thi công: quản lý vốn, giám sát
kỹ thuật, đôn đốc đơn vị nhận thầu chính thực hiện đầy đủ hợp đồng và bảo đảm
tiến độ thi công, chuẩn bị sản xuất, nghiệm thu, và thanh toán, quyết toán.
4. Trách nhiệm chủ yếu của
cơ quan nhận thầu thi công là:
Trước khi thi công: nghiên cứu và góp ý kiến để
thiết kế sát với khả năng thi công, lập dự toán thi công, góp ý kiến với cơ
quan chủ quan về kế hoạch và tổng tiến độ thi công, ký hợp đồng giao nhận thầu.
Trong quá trình thi công: bảo đảm chất lượng
công trình, bảo đảm tiến độ thi công. Căn cứ vào kế hoạch và tổng tiến độ thi
công đã được phê chuẩn, vào các điều khoản của hợp đồng giao nhận thầu, đơn vị
thi công vạch kế hoạch thi công từng thời kỳ. Kế hoạch này phải được đơn vị chủ
quản (Ban Kiến thiết ) chấp thuận. Nếu ý kiến hai bên không thống nhất sẽ do cơ
quan có thẩm quyền giải quyết.
Các đơn vị thi công phải nỗ lực phấn đấu, đảm
bảo thực hiện nghiêm chỉnh kế hoạch xây dựng cơ bản của Nhà nước, không được đặt
kế hoạch xây dựng các công trình của Nhà nước phụ thuộc vào kế hoạch của ngành
mình. Gặp trường hợp có mâu thuẫn về kế hoạch thấy cần phải điều chỉnh thì phải
phản ảnh kịp thời lên cấp trên, không dược để chậm trễ, gây trở ngại đến kế hoạch
thi công của Nhà nước.
5. Trước đây cơ quan nhận
thầu thi công chỉ phụ trách vật liệu xây dựng trong nước, nay đảm nhiệm cả vật
liệu ngoài nước (không thuộc thiết bị toàn bộ).
Cơ quan nhận thầu chính có trách nhiệm lập kế hoạch
vật tư trong nước, ngoài nước cho toàn bộ khối lượng công trình thi công từng
thời kỳ, nhận thẳng vật tư với các cơ quan phân phối, và tổ chức việc cung cấp
đến tận các công trường.
6. Trước đây bên A làm
công việc tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, cung cấp vật liệu xây dựng và
thiết bị thuộc thiết bị toàn bộ, cho bên B, nay chỉ làm thủ tục giấy tờ cần thiết
với cơ quan giao hàng rồi giao thẳng cho bên B phụ trách tiếp nhận, vận chuyển,
bảo quản và sử dụng.
Giữa bên A và B phải quan hệ chặt chẽ để đôn đốc
hàng ngoài nước về đúng theo yêu cầu của tiến độ thi công, khi gặp khó khăn hai
bên sẽ cùng phối hợp giải quyết. Dụng cụ vật liệu, nguyên liệu cho sản xuất do
cơ quan chủ quản quản lý (Ban Kiến thiết hoặc Ban Chuẩn bị sản xuất ).
Thiết bị vật liệu thuộc công trình nào phải đúng
công trình ấy, muốn dùng cho công trình khác phải có quyết định của Tổng cục Vật
tư sau khi được sự đồng ý của Bộ chủ quản, Bộ Ngoại thương và Ủy ban kiến thiết
cơ bản Nhà nước.
Riêng đối với máy móc, dụng cụ thi công xây lắp
nhập theo thiết bị toàn bộ, sẽ giao hẳn cho cơ quan nhận thầu sử dụng. Thiết bị
thi công nhập cho các công trình nào nhất thiết phải dùng cho công trình đó,
khi không sử dụng nữa, nếu cần điều kiện đi nơi khác, cơ quan thi công sẽ thỏa
thuận với Ban Kiến thiết. Nếu trong việc ấy ý kiến của hai bên không thống nhất
sẽ do Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước là cơ quan quản lý tập trung máy
móc thi công quyết định.
7. Trên nguyên tắc phải
đẩy mạnh việc xây lắp các phân xưởng phụ trợ, nhất là các phân xưởng cơ khí nhằm
phục vụ cho thi công, bên B có trách nhiệm thi công cho gọn để có thể tổ chức
nghiệm thu và bàn giao với bên A từng phân xưởng, hoặc từng bộ phận. Sau khi
nghiệm thu hoặc có sự thỏa thuận giữa hai bên, bên A sẽ cho bên B thuê lại các
máy móc cần thiết. Bên B phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ thể lệ về sử dụng,
bảo quản, khấu hao của Nhà nước, nếu hư hỏng, mất mát phải chữa, phải đền.
Dụng cụ sản xuất nếu cần cho việc lắp máy cũng
do bên A cho bên B với giá khấu hao , làm hư hỏng, mất mát phải đền bằng hiện vật
trước khi vận hành thử, không bồi thường bằng tiền.
8. Những công nhân được
đào tạo cho sản xuất sau này của xí nghiệp phải tham gia vào việc xây lắp máy,
thời gian này do cơ quan nhận thầu quản lý.
Để tránh trình trạng sau khi xây dựng xong, lực
lượng thi công của cơ quan nhận thầu khỏi bị phân tán và xáo trộn đột ngột, đồng
thời cũng cần chú ý đến việc tạo thêm điều kiện đảm bảo cho nhà máy vận hành được
tốt, vấn đề để lại cho xí nghiệp một số công nhân kỹ thuật về lắp đặt thiết bị
phải được hai Bộ hữu quan bàn bạc và quyết định cụ thể.
9. Chuyên gia ở công trường
do bên B quản lý theo chế độ quy định và theo sự hướng dẫn về nghiệp vụ của Cục
Chuyên gia.
Bên A và B phải thống nhất về chế độ làm việc với
chuyên gia. Hai bên đều trực tiếp báo cáo tình hình, nghe ý kiến chuyên gia về
các vấn đề kế hoạch, chất lượng, giá thành công trình; đối với những công việc
nghiệp vụ mỗi bên sẽ giao dịch thẳng với chuyên gia.
10. Việc tổ chức bảo vệ
công trường do bên B phụ trách, có sự phối hợp của bên A. Cần chấm dứt trình trạng
trước đây, có nơi, về vấn đề bảo vệ, bên B đã gây khó khăn cho công việc của
bên A.
11. Trước đây vốn để
xây dựng lán trại cho công nhân xây lắp do bên A quản lý nay giao hẳn cho bên
B. Bên B có trách nhiệm tổ chức sử dụng cho thật hợp lý số vốn đó, và cần phối
hợp vốn thuộc nhiều công trình để giảm bớt chi phí.
Đối với những công trường mà chủ trương, nhiệm vụ
thiết kế, thiết kế sơ bộ mở rộng, mặt bằng và thời gian xây dựng đã được quy định
thiết kế rõ ràng, cần tranh thủ xây dựng khu nhà công nhân sản xuất trước để
công nhân xây lắp ở trong thời gian thi công.
Nếu việc xây dựng kéo dài và trong lúc còn thi
công, công nhân sản xuất đã đến ở thì bên B có thể xây dựng thêm nhà cho
công nhân xây dựng và sau đấy phải để lại những nhà đó cho công nhân sản xuất.
Ở những thành phố, ở những khu vực xây dựng
tương đối tập trung, Bộ kiến trúc cần nghiên cứu kế hoạch xây dựng những
khu nhà ở tập trung để sử dụng lâu dài. Nếu có điều kiện, cần chú ý
phân phối cho công nhân xây dựng được ở những khu nhà ở tập thể thuận tiện cho
sự đi lại làm việc của công nhân.
Đối với những công trình xây dựng phân tán, ở xa
hay di động Bộ Kiến trúc cần nghiên cứu một kiểu nhà lưu động vốn đầu tư ít mà
thuận tiện cho việc sử dụng và di chuyển.
Bộ Kiến trúc cần nghiên cứu kế hoạch xây dựng
các loại khu nhà trên để trình Chính phủ xét duyệt.
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Ủy ban Kiến thiết cơ bản
Nhà nước và Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể
việc thi hành điều khoản này.
12. Cần phải giảm
bớt bộ máy biên chế của các Ban Kiến thiết.
Chỉ lập Ban Kiến thiết riêng cho các công trình
lớn. Đối với các công trình hạn vừa và nhỏ ở tập trung trong một khu vực, điều
kiện giao thông thuận tiện thì lập một Ban Kiến thiết chung. Cần chú ý tránh
trình trạng một Ban Kiến thiết phụ trách công trình ở xa nhau quá gây khó khăn
cho công tác.
Đối với các công trình nhỏ, nhất là các công
trình mở rộng các cơ sở sẵn có, không lập Ban Kiến thiết, chỉ cần cử một đại diện
cho cơ quan chủ quản.
Bộ máy biên chế của Ban Kiến thiết riêng hay khu
vực không quá từ 5 đến 20 người, trong số này chưa kể cán bộ giám sát kỹ thuật.
Cộng cả số cán bộ giám sát kỹ thuật thì Ban Kiến thiết lớn nhất cũng không được
quá 50 người.
13. Tùy theo tình hình
và tiến độ thi công, Bộ chủ quản sẽ tổ chức Ban Chuẩn bị sản xuất ở công trường.
Bộ máy biên chế của ban Chuẩn bị sản xuất do Bộ chủ quản quyết định.
14. Về giao nhận thầu
thi công các công trình xây dựng cơ bản từ nay thi hành thống nhất theo những
điểm quy định trong thông tư này.
15. Để tạo điều kiện chấn
chỉnh tốt tổ chức giao nhận theo hướng vạch ra trong thông tư này, Ủy ban Kiến
thiết cơ bản Nhà nước và Ủy ban Kế hoạch Nhà nước cần tăng cường chỉ đạo xây dựng
đơn giá, quy định việc chia khu vực đơn giá, hướng dẫn giúp đỡ các địa phương
xây dựng lại các đơn giá cho sát với thực tế.
Ủy ban Kiến thiết cơ bản Nhà nước cùng với Bộ
Tài chính và Bộ có khối lượng xây dựng cơ bản lớn, nghiên cứu thêm về các tỷ lệ
phí cần thiết phải tăng thêm cho bên B, sau khi rút bớt nghiệm vụ của bên A.
Đối với một số vấn đề khác có thể thông tư này
chưa đề cập tới, Thủ tướng Chính phủ giao trách nhiệm cho Ủy ban Kiến thiết cơ
bản Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp nghiên cứu và đề nghị lên Hội đồng Chính
phủ xét duyệt.
Việc chấn chỉnh tổ chức giao nhận thầu theo các
phương hướng đã nêu trên đây là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hơn nữa
chất lượng quản lý công tác xây dựng cơ bản, phát huy tinh thần hợp tác xã hội
chủ nghĩa, tinh giản bộ máy tổ chức, giảm nhẹ biên chế, phù hợp với tinh thần
nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về cuộc vận động “nâng cao ý
thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, chống tham ô, lãng phí,
quan liêu”.
Các Bộ, các ngành, các địa phương cần nêu cao
quyết tâm khắc phục khó khăn, đề ra những kế hoạch cụ thể thực hiện tốt thông
tư này. Trong khi thi hành, cần thường xuyên trao đổi, bàn bạc với Ủy ban Kiến
thiết cơ bản Nhà nước để kịp thời rút kinh nghiệm, đưa dần những quyết định
trên về giao nhận thầu thi công các công trình xây dựng cơ bản đi vào thành những
chế độ, nguyên tắc của Nhà nước.
|
K.T. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|