|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Quyết định 77/QĐ-UBND 2020 Ngân hàng tên đường phố và công trình công cộng tỉnh Tuyên Quang
Số hiệu:
|
77/QĐ-UBND
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Tỉnh Tuyên Quang
|
|
Người ký:
|
Trần Ngọc Thực
|
Ngày ban hành:
|
19/03/2020
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH TUYÊN QUANG
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
77/QĐ-UBND
|
Tuyên
Quang, ngày 19 tháng 3 năm 2020
|
QUYẾT ĐỊNH
BAN HÀNH NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền
địa phương năm 2015;
Căn cứ Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi
tên đường, phố và công trình công cộng;
Căn cứ Thông tư số
36/2006/TT-BVHTT ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt
tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ;
Căn cứ Văn bản số 1175-TB/TU
ngày 11/02/2020 của Thường trực Tỉnh ủy;
Xét đề nghị của Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch - Cơ quan Thường trực của Hội đồng tư vấn tỉnh về đặt tên,
đổi tên, đường phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh tại Tờ trình số
27/TTr-SVHTTDL ngày 02/3/2020,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Ngân hàng tên
đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang (có Ngân hàng kèm theo).
Điều 2. Tổ chức
thực hiện
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức
năng:
Tổ
chức tuyên truyền, phổ biến về giá trị, ý nghĩa của việc ban hành Ngân hàng tên
đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh.
Định
kỳ 02 năm một lần (kể từ năm 2020) tổ chức sưu tầm, lựa chọn
tên để bổ sung vào Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng.
2. Các Sở,
ban, ngành, đoàn thể tỉnh; các tổ chức, đơn vị và Ủy ban nhân dân huyện, thành phố được giao nhiệm vụ quản lý các tuyến đường, phố, công
trình công cộng có trách nhiệm nghiên cứu, lựa chọn dữ liệu trong Ngân hàng tên
đường, phố và công trình công cộng đã được phê duyệt để tiến hành đặt tên, đổi
tên theo trình tự, thủ tục quy định.
Điều 3. Quyết định
này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Chánh
Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh; Thành viên Hội đồng tư vấn tỉnh về đặt
tên, đổi tên đường phố và công trình công cộng tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ban, ngành tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện,
thành phố; thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Bộ VHTT&DL; (Báo cáo)
- Thường trực Tỉnh ủy; (Báo cáo)
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Đoàn ĐBQH tỉnh;
- Chủ tịch UBND tỉnh;
- Ban VHXH HĐND tỉnh;
- Các PCT UBND tỉnh;
- Như Điều 3; (thực hiện)
- Phó CVP UBND tỉnh;
- CV: KGVX; QHĐT&XD;KT;
- Lưu VT, KGVX (Tùng).
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Ngọc Thực
|
NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 77/QĐ-UBND ngày 19/3/2020 của UBND tỉnh)
A. ĐẶT VẤN
ĐỀ
1. Sự cần thiết xây dựng Ngân
hàng tên đường và công trình công cộng
Trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện
đại hóa, đặc biệt là từ năm 2011 trở lại đây, tỉnh Tuyên Quang đã có những bước
phát triển mạnh mẽ với tốc độ nhanh. Quá trình xây dựng và phát triển cơ sở hạ
tầng, đô thị nhanh, nhiều tuyến đường, tuyến phố mới được hình thành, mở rộng
và kéo dài, nhiều công trình công cộng được xây dựng. Do đó, việc xây dựng Ngân
hàng tên đường, phố, công trình công cộng dùng để đặt tên cho các đường mới và
những tuyến đường đã được kéo dài là việc làm cần được triển khai kịp thời.
Việc xây dựng Ngân hàng tên đường,
phố và công trình công cộng tỉnh Tuyên Quang nhằm mục đích đưa ra một hệ thống
danh mục tên như: Các danh từ có ý nghĩa tiêu biểu; tên các phong trào cách mạng,
sự kiện lịch sử, chiến thắng tiêu biểu trong phạm vi cả nước và trong phạm vi tỉnh
Tuyên Quang. Đặc biệt trong Ngân hàng tên đường sử dụng tên các danh nhân đất
nước như: Vua Việt, các quan qua các triều đại, trạng nguyên, danh tướng, anh
hùng lực lượng vũ trang phân theo thời kỳ lịch sử, nhà thơ, nhạc sỹ, họa sỹ. Ưu
tiên các anh hùng liệt sỹ, những nhà hoạt động cách mạng gắn liền cuộc đời chiến
đấu, công tác và hoạt động tại Tuyên Quang qua các thời kỳ.
Xây dựng Ngân hàng tên đường, phố
và công trình công cộng (danh mục tên được lựa chọn, lưu trữ) tỉnh Tuyên Quang
nhằm góp phần thực hiện tốt công tác quản lý đô thị, quản lý hành chính; tạo điều
kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong các hoạt động giao dịch kinh tế, văn
hóa - xã hội; đồng thời góp phần giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa dân tộc,
nâng cao tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc, tình hữu nghị đoàn
kết quốc tế.
2. Căn cứ pháp lý
Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015.
Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày
11/7/2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và
công trình công cộng.
Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày
24/02/2010 của Chính phủ quy định về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao
thông đường bộ.
Thông tư số 36/2006/TT-BVHTT
ngày 20/3/2006 của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố
và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày
11/7/2005 của Chính phủ.
Quyết định số 98/QĐ-UBND ngày
28/02/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt Chương trình phát triển
đô thị tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020.
Quyết định số 20/2017/QĐ-UBND
ngày 13/12/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy định về quản lý
và bảo trì đường bộ thực hiện trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
3. Nguyên tắc, tiêu chí quy định
cụ thể đối việc đưa tên các danh nhân, địa danh của tỉnh vào Ngân hàng tên đường,
phố và công trình công cộng
Việc lựa chọn tên để đưa vào
Ngân hàng tên đường tỉnh Tuyên Quang cần đạt được các tiêu chí như: Tính dân tộc,
tính truyền thống; tính chính trị, tính đạo đức; tính lịch sử, tính địa phương;
tính tiện dụng, tính đại chúng, tính thẩm mỹ; tính phù hợp và tính kịp thời. Đảm
bảo tên di tích lịch sử, tên danh nhân được đặt phù hợp tương xứng với quy mô của
đường, công trình công cộng và tên phải được dự kiến đặt ngay khi lập dự án,
chuẩn bị đầu tư xây dựng công trình; tránh trường hợp công trình hoàn thiện
xong nhưng chưa có tên hoặc đã gọi quen theo tên của hồ sơ lập dự án. Cụ thể:
3.1. Đối với danh
nhân
a) Là người có những
đóng góp lớn, tiêu biểu trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh
tế, văn hóa, xã hội qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam để lại cho thế hệ sau những
tác phẩm, những công trình khảo cứu, những tư tưởng có giá trị khoa học và thực
tiễn góp phần hình thành truyền thống tốt đẹp của Tuyên Quang và đất nước.
b) Là những người
được nhân dân truyền tụng, tôn vinh, thờ phụng từ đời này đời sang đời khác với
nhiều hình thức khác nhau.
c) Tôn vinh những
người con ưu tú của vùng đất Tuyên Quang nói riêng và dân
tộc nói chung được lịch sử, dân tộc, nhân dân ghi nhận và lưu danh.
3.2. Đối với địa
danh
Là những địa danh
lịch sử, những tên gọi đã trở thành truyền thống trong tiềm thức của nhân dân.
3.3. Đối với sự kiện
Các sự kiện tiêu
biểu nổi bật của tỉnh Tuyên Quang và của cả nước.
4. Nguồn
tư liệu
- Lịch sử Việt
Nam, tập I, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1971;
- Những sự kiện lịch
sử Đảng tập 1, 2, 3, Nhà Xuất bản Sự thật năm 1976;
- Từ điển Bách
khoa Việt Nam, Nhà Xuất bản Từ điển bách khoa, năm 2005;
- Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Tuyên Quang (1940-1975), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2000;
- Từ điển Văn hóa
Việt Nam, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, 1993;
- Địa chí Tuyên Quang, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, năm 2014.
- Trí thức Việt Nam xưa và nay,
Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin, năm 2006.
B. DỮ LIỆU
NGÂN HÀNG TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG TỈNH TUYÊN QUANG
I. Danh từ có
ý nghĩa tiêu biểu và một số địa danh tiêu biểu của đất nước: 13 tên
1. Độc lập: Là quyền bất khả xâm phạm của một
đất nước, một quốc gia bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa là có chủ
quyền tối cao. Khái niệm “Độc lập” có ý nghĩa tương phản với “Nô dịch” (sự khuất
phục).
2. Đồng tâm: thể hiện sự đoàn kết cùng hướng về
một hướng.
3. Giải phóng: Là làm cho được tự do, thoát khỏi
địa vị nô lệ hoặc tình trạng bị áp bức, kiềm chế, ràng buộc; là thoát khỏi tình
trạng bị nước ngoài nô dịch, chiếm đóng.
4. Hòa bình: Là trạng thái xã hội không có chiến
tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc
gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Hòa bình đối lập với chiến tranh.
5. Thanh niên: Là lực lượng to lớn, là nguồn lực
dồi dào, mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội hiện tại và là người chủ tương
lai của đất nước.
6. Thành công: Sự thắng lợi, thành quả đạt được
sau quá trình nỗ lực, cố gắng.
7. Thống nhất: Sự kiện có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với đất nước và dân tộc ta, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giang sơn thu về một mối, cả nước cùng đi
lên xây dựng CNXH theo con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn cho
toàn dân tộc.
8. Tự do: Là trạng thái một dân tộc, một xã hội
và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động chính trị,
xã hội.
9. Hà Nội: Trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và thủ đô của đất nước, là thành phố đã kết nghĩa với tỉnh Tuyên
Quang.
10. Thái Bình: Là trạng thái một dân tộc, một xã hội, không có
loạn lạc, chiến tranh, đất nước yên ổn, nhân dân được sống trong hòa bình.
11. Hoàng Sa: (có
nghĩa là cát vàng hay bãi cát vàng): Là một đơn vị hành chính thuộc thành phố
Đà Nẵng.
12. Trường Sa: Là
hệ thống các đảo thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa.
13. Ninh Bình: Là tỉnh kết
nghĩa với tỉnh Tuyên Quang.
II. Các sự kiện lịch sử, cách mạng tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam: 24
tên
TT
|
Tên sự kiện
|
Thời gian, địa điểm diễn ra sự kiện
|
Tóm tắt nội dung sự kiện
|
Tên dự kiến đặt
|
1
|
Âu Lạc -
Cổ Loa
|
Khoảng nửa sau
thế kỷ III trước CN
|
Do sự suy yếu của
triều đại Hùng Vương, vào nửa sau thế kỷ III trước công nguyên, Thục Phán - thủ
lĩnh người Âu Lạc đã lãnh đạo nhiều đội quân đánh đổ triều đại Hùng Vương, lập
nên nước Âu Lạc. Thục Phán xưng là An Dương Vương, rời đô xuống Cổ Loa. Như vậy
sự ra đời của nhà nước Âu Lạc không chỉ hợp nhất các thành phần dân tộc mà
lãnh thổ của người Lạc Việt và Âu Việt cũng được thống nhất và phát triển cao
hơn về mọi mặt so với quốc gia Văn Lang.
|
-
Âu Lạc
-
Cổ Loa
|
2
|
Hội nghị Bình
Than
|
- Năm 1282
- Địa bàn: Trên
sông Đuống đổ vào sông Lục Đầu (nay là xã Đại Than, Gia Lương, Bắc Ninh)
|
Đứng trước nguy
cơ xâm lược lần thứ 2 của quân Nguyên Mông, nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị
kháng chiến. Tháng 11 năm 1282, vua Trần ra Bình Than mở hội nghị các vương hầu
quan lại. Đây là hội nghị quân sự vô cùng quan trọng để bàn kế sách đánh giặc,
trong đó có sự kiện Hoài Văn Hầu - Trần Quốc Toản bóp nát quả cam vì uất ức
không được tham dự vì tuổi còn nhỏ.
|
Bình Than
|
3
|
Chiến thắng trận
Chương Dương (trong cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân xâm lược Nguyên
Mông)
|
- Năm 1285
- Địa bàn: Tại bến
Chương Dương (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội)
|
Thắng trận Hàm Tử
- Tây Kết, Trần Quốc Tuấn mang toàn quân ra Bắc đánh Thoát Hoan để lấy lại
Thăng Long. Bằng kế sách ngăn chặn không cho Toa Đô hợp binh với Thoát Hoan,
trong khi đó đại quân của Thoát Hoan ở Thăng Long cũng đang trong tình trạng
thiếu thốn mọi mặt, các chiến thuyền đều đóng ở Chương Dương. Trần Quang Khải
cùng Phạm Ngũ Lão và Trần Quốc Toản tấn công quân Nguyên ở Chương Dương; quân
giặc bị bất ngờ nên đã tan tác bỏ chạy. Trên đà chiến thắng đó quân ta tiến
vào Thăng Long, quân của Thoát Hoan không chống cự được buộc phải rút khỏi
kinh thành Thăng Long.
|
Chương Dương
|
4
|
Cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn
|
- Năm 1940
- Địa bàn: Tại Lạng Sơn
|
Khi quân Nhật
đánh vào Lạng Sơn, ngày 22/9/1940, quân đội Pháp trên đường thua chạy đã rút lui
qua châu Bắc Sơn. Ngày 27/9/1940, Đảng bộ châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã lãnh
đạo nhân dân nổi dậy tước khí giới của quân Pháp, giải tán chính quyền địch,
thành lập chính quyền cách mạng. Ngày 3/10/1940 tại rừng Tân Hương chính quyền
của ta đã quyết định thành lập đơn vị du kích Bắc Sơn.
|
Bắc Sơn
|
5
|
Sự kiện Ngô Quyền
đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng
|
Năm 938
|
Tháng 10 năm 938, Ngô Quyền tiến quân ra Bắc. Kiều Công Tiễn hoảng sợ
cầu cứu vua Nam Hán. Cuối tháng 11 năm 938, đoàn thuyền Nam Hán vượt biển Quảng
Châu, tiến dần tới cửa sông Bạch Đằng. Theo lệnh Ngô Quyền, quân dân ta đã
đóng cọc gỗ đầu bịt sắt nhọn ngang sông Bạch Đằng, nơi hiểm yếu gần cửa biển
thành một trận địa ngầm. Quân thủy, bộ của ta mai
phục ở phía trong. Khi nước triều xuống, bãi cọc nhô lên, quân ta được lệnh
cũng nhất tề xông ra đánh địch. Đội hình địch tan tác, nhiều thuyền bị vỡ, bị
đắm, tướng sĩ hoảng loạn, phần bị giết, phần chết đuối, phần lớn quân Nam Hán
bị tiêu diệt trong đó có cả chủ tướng Hoằng Thao.
Trận chiến Bạch Đằng (938) là một trận quyết chiến chiến lược lớn
trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật
quân sự Việt Nam. Kết thúc hơn 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc, mở
ra thời kỳ phát triển quốc gia phong kiến độc lập.
|
Bạch Đằng
|
6
|
Phong trào Cần
Vương do Vua Hàm Nghi phát động
|
Từ tháng 7/1885
đến năm 1896
|
Tháng 7/1885,
vua Hàm Nghi khởi nghĩa ở kinh thành Huế và sau đó ban chiếu Cần Vương. Phong
trào thu hút được một số quan lại trong triều đình và văn thân, tầng lớp sĩ
phu yêu nước thời bấy giờ. Phong trào Cần Vương của vua Hàm Nghi kéo dài từ
tháng 7/1885 đến năm 1896.
|
Cần Vương
|
7
|
Chi Lăng - Xương
Giang
|
- Năm 1427
- Địa bàn: Tại Lạng
Sơn
|
Sau một loạt thất
bại nặng nề của địch, nhà Minh cử viện binh chia làm 2 đạo quân, một đạo quân
do Liễu Thăng và một đạo quân do Mộc Thạch chỉ huy tiến sang Đại Việt. Sau
khi Liễu Thăng cầm đầu 10 vạn quân vượt biên giới tiến vào vùng Lạng Sơn,
quân ta vừa đánh vừa rút lui để nhử địch vào trận địa mai phục ở Ải Chi Lăng
(Lạng Sơn); tại đây toàn bộ đội quân tiên phong của địch bị tiêu diệt gọn; Liễu
Thăng bị chém chết bên sườn núi Mã Yên; tàn quân rút về thành Xương Giang
nhưng căn cứ này cũng đã bị quân ta chiếm giữ từ 10 ngày trước. Cuối cùng
chúng phải đóng quân tại cánh đồng Xương Giang, tại đây, ngày 3/11/1427 quân
địch đã bị quân ta bao vây tiêu diệt gọn.
|
- Chi Lăng
- Xương Giang
|
8
|
Chiến thắng 30/4
|
- Từ ngày 26/4 đến
ngày 30/4/1975
- Địa bàn: Tại Sài Gòn
|
Ngày 26/4/1975,
với 5 cánh quân, ta đã bao vây và nổ súng tấn công Sài Gòn. Ngày 29/4/1975,
quân ta tổng công kích trên các mặt trận. 10h 45 phút ngày 30/4/1975, các đơn
vị của Quân đoàn II tiến thẳng vào Dinh Độc Lập bắt sống toàn bộ chính quyền
Trung ương Sài Gòn. 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ cách mạng tung bay
trên nóc phủ Tổng thống chính quyền Sài Gòn, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng.
|
- Chiến Thắng
- Đường 30/4
|
9
|
Đinh Tiên Hoàng
(Đinh Bộ Lĩnh) đặt tên nước là Đại Cồ Việt
|
Năm 968, Đinh Bộ
Lĩnh lên ngôi, dựng đô ở Hoa Lư
|
Đinh Bộ Lĩnh sau
khi thống nhất đất nước, lên ngôi Hoàng đế, năm 968 ông đặt tên nước là Đại Cồ
Việt. Hai năm sau ông bỏ niên hiệu của các hoàng đế phong kiến phương Bắc, tự
đặt niên hiệu riêng là Thái Bình. Đó là những biểu hiện mới của tinh thần tự
chủ, quyết tâm giành độc lập hoàn toàn cho dân tộc và cũng là sự phủ định quyền
bá chủ của các hoàng đế phương Bắc.
|
Đại Cồ Việt
|
10
|
Đại La - Thăng Long
|
Năm 1010
|
Lý Công Uẩn là
người châu Cổ Pháp (Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh) làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy
sứ dưới triều Tiền Lê. Làm vua lập ra triều Lý - triều đại phong kiến độc lập
tự chủ đầu tiên của nước ta, năm 1010 Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) quyết định rời
đô từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên là Thăng Long. Mục đích, ý nghĩa của việc
này được thể hiện rõ ràng, đầy đủ trong chiếu rời đô của Lý Thái Tổ. Việc Lý
Thái Tổ rời đô ra Thăng Long đã phản ánh yêu cầu phát triển mới của quốc gia
phong kiến tập quyền, đồng thời chứng tỏ lòng tin, quyết tâm của cả dân tộc
giữ vững nền độc lập.
|
- Đại La
- Thăng Long
|
11
|
Đổi tên nước là
Đại Việt
|
Năm 1054
|
Sau khi rời đô,
củng cố và xây dựng bộ máy chính quyền, năm 1054 nhà Lý đổi tên nước là Đại
Việt. Nước Đại Việt lúc đó tuy đất hẹp, dân thưa nhưng là một nước độc lập
hoàn toàn. Tên nước cũng thể hiện một niềm tự tôn và ý thức bình đẳng của cả
dân tộc Việt Nam với các dân tộc xung quanh.
|
Đại Việt
|
12
|
Điện Biên Phủ -
7/5
|
- Từ ngày 13/3 đến
ngày 7/5/1954
- Địa bàn: Tại thung lũng Mường Thanh, huyện Điện Biên
|
Ngày 13/3/1954,
quân ta được lệnh nổ súng tấn công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 3
đợt chiến đấu, ngày 7/5/1954, lá cờ Quyết chiến quyết thắng của Quân đội nhân
dân Việt Nam đã tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Caxtơri. Trận quyết chiến chiến
lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm
phán ký kết Hiệp định Giơnevơ, trao trả độc lập cho đất nước ta.
|
- Điện Biên Phủ
- Đường 7/5
|
13
|
Hội nghị Diên Hồng
|
- Năm 1288
- Địa bàn: Tại
điện Diên Hồng Thăng Long (Hà Nội)
|
Đất nước đứng
trước nguy cơ một cuộc xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Trong không khí khẩn
trương chuẩn bị kháng chiến, hội nghị Diên Hồng được tổ chức. Đây là hội nghị
thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, quyết tâm “Đánh” của triều đình và
quân dân nhà Trần quyết tâm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
|
Diên Hồng
|
14
|
2/9 - Ba Đình
|
- Ngày 2/9/1945
- Địa bàn: Tại Thủ đô Hà Nội
|
Ngày 2/9/1945,
tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
|
- Đường 2/9
- Ba Đình
|
15
|
Chiến thắng Ngọc
Hồi, Khương Thượng
|
- Năm 1789
- Địa bàn: Thăng
Long - Hà Nội
|
Tháng 11/1788, quân Thanh ồ ạt tiến vào nước ta, chiếm được Thăng Long, ngày
22/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi
hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung, sau khi lên ngôi Quang trung đã chỉ
huy binh sĩ đánh chiếm các đồn tiêu biểu của địch như Gián Khẩu, Thanh Quyết,
Nhật Tảo, Hà Hồi; sau khi thất thủ các đồn trên, địch đã lập tức tăng viện, củng
cố đồn Ngọc Hồi - một vị trí then chốt ở mặt Nam Thăng Long. Ngày mùng 5 tết
Kỷ Dậu (30/1/1789), đội tượng binh
của Quang Trung bất gờ tiến công và hạ đồn; phối hợp với cánh quân của Quang
Trung đô đốc Đặng Tiến Đông tấn công như vũ bão vào đồn Khương Thượng - Đống
Đa bị bất ngờ quân giặc đã thua trận.
|
Đống Đa
|
16
|
Phong trào “Đồng
Khởi” Bến Tre
|
- Năm 1960
- Địa bàn: Tại Bến
Tre
|
Ngày 17/1/1960,
cuộc “đồng khởi” nổ ra ở ba xã “điểm” là Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp,
rồi nhanh chóng lan tỏa ra toàn tỉnh Bến Tre. Hàng vạn nhân dân đã ào ạt xuống
đường, vũ trang giáo mác, truy lùng bọn tề độc ác, đập tan bộ máy cai trị, giải
phóng các ấp. Sau đó, phong trào “đồng khởi” lan rộng ra khắp một vùng rộng lớn
ở Nam Bộ; thắng lợi của phòng trào đồng khởi dẫn đến sự thành lập của Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960.
|
Đồng Khởi
|
17
|
Hàm Tử - Tây Kết
|
- Năm 1285
- Địa bàn: Tại
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ngày nay
|
Cuộc kháng chiến
của quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của triều đại nhà Trần đã toàn thắng,
thể hiện "Hào khí Đông A" của Đại Việt, Nhà Trần lần thứ hai đánh
đuổi được quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến dành thắng lợi gắn liền với hai
địa danh Hàm Tử, Tây Kết.
|
- Hàm Tử
- Tây Kết
|
18
|
Khởi nghĩa Lam
Sơn
|
- Năm 1418- 1427
- Địa bàn: Từ Lam Sơn, Thanh Hóa mở rộng vào Nghệ An rồi tiến ra Bắc
|
Năm 1.416 tại
núi rừng Lam Sơn (Thọ Xuân - Thanh Hoá) Lê Lợi cùng với 18 người thân tín làm
lễ tuyên thệ đuổi giặc cứu nước. Đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, sau những năm
tháng hoạt động, xây dựng căn cứ, tập hợp lực lượng phát triển thành cuộc chiến
tranh giải phóng quy mô cả nước, tổ chức nhiều trận đánh vang dội, đến ngày
3/1/1428 quân xâm lược Minh bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Đất nước giành lại
được độc lập.
|
Lam Sơn
|
19
|
Dựng Văn Miếu,
Quốc Tử Giám và mở khoa thi đầu tiên
|
- Năm 1070 và
1075
- Địa bàn: Tại
Thăng Long
|
Nhà Lý chăm lo củng
cố, xây dựng chính quyền và phát triển đất nước trên tất cả các phương diện.
Cũng từ đây nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo và
tuyển chọn nhân tài cho quốc gia. Năm 1070 triều đình dựng Văn Miếu và mở Quốc
Tử Giám. Có thể nói đây là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam; làm nơi học
tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu
tiên để chọn nhân tài, từ đây Lý đã tạo ra nền tảng cho sự phát triển chế độ
giáo dục và thi cử trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam về sau.
|
Quốc Tử Giám
|
20
|
Phong trào Tây
Sơn
|
- Năm 1771 -
1802
- Địa bàn: Từ đất Tây Sơn (Bình Định, Gia Lai, Kon Tum) phát
triển khắp cả nước
|
Tây Sơn là phong
trào khởi nghĩa chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào cuối thế kỷ XVIII và cũng
là một triều đại phong kiến Việt Nam từ năm 1771 đến năm 1802. Thủ lĩnh phong
trào là 3 anh em nhà Nguyễn Huệ (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ), quê ở
ấp Tây Sơn, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định. Do đó phong
trào còn được gọi là phong trào Tây Sơn, Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân
Tây Sơn; với danh nghĩa là phù Lê diệt Trịnh, thống nhất đất nước, đánh thắng
quân Xiêm xâm lược với các trận Rạch Gầm - Xoài Mút, đại phá quân Thanh mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789 giữ yên bờ cõi.
|
Tây Sơn
|
21
|
Thành lập Nhà nước
Văn Lang của các vua Hùng
|
Khoảng thế kỷ
VII - VI tr CN
|
Thời kỳ kim khí
phát triển, đỉnh cao là văn hoá Đông Sơn, hình thành nhà nước Văn Lang. Do
nhu cầu trong cuộc sống (trị thuỷ, chống xâm lấn, trao đổi kinh tế, văn hoá,
huyết thống…) giữa các bộ lạc Lạc Việt và Âu Việt nên Thủ lĩnh của Bộ lạc Văn
Lang đã đứng lên thống nhất tất cả các Bộ lạc, dựng lên nước Văn Lang. Nước
Văn Lang của các vua Hùng (Hùng Vương) là Nhà nước đầu tiên trong lịch sử của
dân tộc.
|
Văn Lang
|
22
|
Khởi nghĩa Lý
Bí, dựng nước Vạn Xuân
|
Năm 542 khởi
nghĩa, năm 544 dựng nước
|
Lý Bí, một thời
gian làm quan cho nhà Lương. Trước sự tàn bạo của bọn thống trị, ông bỏ về
quê xây dựng lực lượng, liên kết với nhiều thủ lĩnh các vùng miền đứng lên khởi
nghĩa và đánh thắng quân Lương, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ châu Giao và châu
Đức (tương đương toàn bộ miền Bắc cho đến đèo Ngang hiện nay). Đầu năm 544 Lý
Bí dựng nước, lên ngôi hoàng đế đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Việc dựng nước Vạn
Xuân khẳng định dân tộc Việt Nam sau gần năm thế kỷ bị đô hộ là một dân tộc độc
lập, là chủ nhân của đất nước và vận mệnh của mình.
|
Vạn Xuân
|
23
|
Chiến dịch Việt
Bắc- Thu Đông năm 1947
|
Năm 1947
|
Chiến dịch Việt
Bắc - Thu Đông là một chiến dịch quân sự do quân đội
Pháp thực hiện nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt quân chủ
lực của ta. Ngày 15/10/1947, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Phải
phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Sau 75 ngày đêm chiến đấu,
quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc. Việt Bắc trở thành thủ đô kháng chiến.
|
Việt Bắc
|
24
|
Phong trào Xô Viết-
Nghệ Tĩnh
|
- Năm 1930 -
1931
- Địa bàn: Tại Nghệ Tĩnh
|
Đây là phong
trào đấu tranh của lực lượng công nhân và nông dân ở Nghệ An và Hà Tĩnh trong
năm 1930 - 1931 chống lại thực dân Pháp. Phong trào được mở đầu bằng cuộc biểu
tình ngày 1/5/1930 của công nhân khu công nghiệp Bến Thủy và nông dân thuộc 5
xã ven thành phố Vinh, làm cho bộ máy chính quyền thực dân Pháp và bộ máy chính
quyền địa phương của nhà Nguyễn lâm vào tình trạng rối gien.
|
Xô Viết - Nghệ Tĩnh
|
III. Sự kiện,
địa danh trong thời kỳ Tiền khởi nghĩa và kháng chiến chống thực dân Pháp: 18
tên
TT
|
Tên sự kiện, địa danh
|
Tóm tắt nội dung sự kiện, địa danh
|
Tên dự kiến đặt
|
1
|
Bình Yên
|
Xã Bình Yên thuộc huyện Sơn
Dương, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Văn phòng Chủ tịch
phủ - Thủ tướng phủ đã ở, làm việc thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp,
giai đoạn 1948-1953. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo nhiều cuộc họp
quan trọng của Hội đồng Chính phủ về tình hình trong nước và quốc tế; đồng
chí Tôn Đức Thắng Quyền - Trưởng Ban Thường trực Quốc hội chủ trì kỳ họp thứ
III, Quốc hội khóa I... Ngoài ra, tại Bình Yên có một số cơ quan bộ, ban,
ngành ở và làm việc trong kháng chiến chống thực dân Pháp, như: Bộ Công an; Bộ
Tư pháp, Ngoại thương Cục, Sở Mậu dịch quốc doanh…
|
Bình
Yên
|
2
|
Công Đa
|
Xã Công Đa thuộc huyện Yên
Sơn, nơi một số cơ quan Bộ, ngành ở và làm việc trong kháng chiến chống thực
dân pháp, như: Đài tiếng nói Vệt Nam (1949 -1953; Nhà in Tô Hiệu (1951-1952);
Nha Lâm chính (1947-1950); Bộ Tư pháp (1953-1954); Cục Kỹ thuật nghiệp vụ I
(tháng 6-8/1954).
|
Công
Đa
|
3
|
Đạo Viện
|
Xã Đạo Viện thuộc huyện Yên
Sơn, nằm ở của ngõ vùng ATK. Tại đây, có hai Trạm liên lạc của Trung ương ở,
làm việc thời kỳ 1947-1953, với nhiệm vụ chuyển phát công văn, tài liệu, sách
báo đến các cơ quan Trung ương, Chính phủ; tiếp nhận hàng hoá, lương thực,
nhiên liệu, máy móc chuyển từ Bình Ca vào để cung cấp cho các cơ quan vùng
ATK.
|
Đạo
Viện
|
4
|
Đèo Chắn
|
Di tích Đèo Chắn thuộc thôn
Lê, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương. Tại đây, ngày 27/5/1945 Trung đội giải
phóng quân do đồng chí Trần Thế Môn chỉ huy đã bố trí trận địa mai phục, đánh
tan cuộc tấn công của phát xít Nhật, tiêu diệt và làm bị thương nhiều tên địch,
thu nhiều vũ khí, buộc chúng phải rút quân từ bỏ ý đồ càn quyét vào Tân Trào,
bảo vệ an toàn cán bộ cách mạng và cơ quan đầu não cách mạng Việt Nam.
|
Đèo
Chắn
|
5
|
Kiên Đài
|
Kiên Đài là một xã vùng sâu của
huyện Chiêm Hóa, có địa thế hiểm trở, nhưng tiện đường đi lại, là vùng giáp
ranh giữa tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Bắc Kạn. Với vị trí đảm bảo an toàn, bí mật,
thuận lợi giao thông và liên lạc, Kiên Đài đã được Trung ương Đảng, Bác Hồ và
nhiều cơ quan Trung ương chọn làm nơi ở và làm việc trong thời gian từ 1948 đến
1952.
|
Kiên
Đài
|
6
|
Đồng Man - Lũng Tẩu
|
Đồng Man - Lũng
Tẩu, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang là nơi gắn liền với nhiều sự
kiện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ở,
làm việc từ ngày 12/9/1948 đến ngày 16/12/1948 và từ ngày 10/01/1949 đến ngày
06/4/1949; nơi Tổng Bí thư Trường Chinh, đồng chí Tôn Đức Thắng ở, làm việc từ
cuối năm 1948 đến đầu năm 1949.
|
-
Đồng Man
-
Lũng Tẩu
|
7
|
Hợp Thành
|
Xã Hợp Thành thuộc huyện Sơn
Dương. Tại đây, từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1945, lực lượng tự vệ vũ trang
thôn Đèo Khế đã phối hợp với quân giải phóng chặn đánh các cuộc tấn công của
quân Nhật vào khu căn cứ địa Tân trào.
Hợp Thành là nơi Bác Hồ, Trung
ương Đảng, Chính phủ ở, làm việc trong những ngày đầu trở về chiến khu Việt Bắc
(1947). Tại đây, Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những quyết định
hết sức quan trọng, đưa cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh góp phần vào thắng
lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoài ra, tại xã Hợp
Thành có một số cơ quan Trung ương ở, làm việc: Bộ Giao thông Công chính; Nhà
in báo Cứu quốc; Tòa soạn và Trị sự báo Cứu quốc; Trạm Giao thông 35; Phòng
28 thuộc Ty Bưu điện đặc biệt Trung ương; Văn phòng Quốc phòng tối cao...
|
Hợp
Thành
|
8
|
Hùng Lợi
|
Xã Hùng Lợi thuộc huyện Yên
Sơn, là xã có phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ, nơi các đồng chí lãnh
đạo Phân khu Nguyễn Huệ ở, hoạt động từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945. Tại
đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở, làm việc từ ngày 4 đến ngày 28/12/1947; Tổng Bí
Thư Trường Chinh ở, làm việc cuối năm 1947; đồng chí Tôn Đức Thắng ở, làm việc
tháng 10 năm 1949; đồng chí Hoàng Quốc Việt ở, lamg việc từ cuối năm 1947 đến
đầu năm 1948 và các cơ quan: Văn phòng Chính phủ ở, làm việc năm 1947; Nha
Thông tin ở, lamg việc từ cuối năm 1947 đến cuối năm 1948; Ủy ban hành chính
kháng chiến Bắc bộ ở, làm việc từ năm 1948 đến năm 1949.
|
Hùng
Lợi
|
9
|
Khánh Thiện
|
Địa danh cũ của Tuyên Quang
bao gồm toàn bộ huyện Chiêm Hóa, một phần huyện Hàm Yên và huyện Yên Sơn.
|
Khánh
Thiện
|
10
|
Kháng Địch
|
Địa danh cũ của Tuyên Quang
bao gồm các xã trung, hạ huyện Sơn Dương.
|
Kháng
Địch
|
11
|
Khuổi Kịch
|
Khuổi Kịch thuộc xã Tân Trào, huyện
Sơn Dương. Tại đây, đồng chí Hoàng Quốc Việt, Thường vụ Trung ương Đảng triệu
tập, tổ chức Hội nghị cán bộ Chiến khu Hoàng Hoa Thám (đầu năm 1944), quyết định
chia Chiến khu Hoàng Hoa Thám thành hai phân khu: Quang Trung và Nguyễn Huệ;
thành lập Trung đội Cứu quốc quân III (ngày 25/2/1944).
Ngày 25/6/1945, Trường Quân
chính kháng Nhật (tiền thân của Trường sĩ quan Lục quân I ngày nay) được
thành lập. Nhiệm vụ của trường là đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự đầu tiên cho
các lực lượng vũ trang Việt Nam làm nòng cốt cho toàn dân khởi nghĩa giành
chính quyền.
|
Khuổi
Kịch
|
12
|
Lán Nà Nưa
|
Di tích Lán
Nà Nưa thuộc thôn Tân Lập, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, nơi Bác Hồ ở, làm việc
từ tháng 5 đến cuối tháng 8 năm 1945. Tại đây, Bác Hồ đã triệu tập Hội nghị
cán bộ toàn quốc ngày 04/6/1945, quyết định thống nhất chiến khu thành Khu giải
phóng, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân giải phóng; mở Trường
Quân chính kháng Nhật; xây dựng sân bay dã chiến tại xã Minh Thanh; đón tiếp
và làm việc với quân Đồng Minh...
Từ ngày
13-15/8/1945, Bác Hồ triệu tập và chủ trì Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng.
Hội nghị đã quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, thành
lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
|
Nà
Nưa
|
13
|
Làng Tân Lập
|
Làng Tân Lập, xã
Tân Trào, huyện Sơn Dương. Năm 1945, làng Tân Lập là nơi được Bác Hồ chọn làm
trung tâm Thủ đô lâm thời Khu giải phóng, là nơi Trung ương Đảng, Bác Hồ ở,
làm việc để lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Tại
đây, đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: Hội nghị cán bộ toàn quốc của
Đảng, Quốc dân Đại hội Tân Trào; lễ xuất quân của quân giải phóng Việt Nam...
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, làng Tân Lập là nơi ở, làm việc của một
số cơ quan Trung ương: Ban Tổ chức Trung ương; Cơ quan Nông vận, Phụ vận; Ban
Văn - Sử - Địa; Nhà Xuất bản Sự thật; Bệnh xá Trung ương...
|
Tân
Lập
|
14
|
Lương Thiện
|
Xã Lương Thiện thuộc huyện Sơn
Dương, nơi các đồng chí cán bộ cách mạng gây dựng cơ sở, hoạt động cách mạng
thời kỳ tiền khởi nghĩa (1941-1945). Tại xã Lương Thiện, trào cách mạng phát
triển mạnh, nối liền với phong trào ở các địa phương khác như: Trúc Khê, Bình
Dân, Lũng Tẩu, Ngòi Nho, Ao Búc... tạo thành một dải cánh cung cách mạng vững
chắc. Đây là tiền đề cho những bước đi tiếp theo của phong trào cách mạng
trong toàn vùng.
|
Lương
Thiện
|
15
|
Toàn Thắng
|
Địa danh cũ của Tuyên Quang
bao gồm phần lớn huyện Hàm Yên, một phần huyện Yên Bình và huyện Yên Sơn
|
Toàn
Thắng
|
16
|
Trung Minh
|
Xã Trung Minh thuộc huyện Yên
Sơn, là xã có phong trào cách mạng phát triển, nhân dân các dân tộc có lòng
yêu nước, đoàn kết và căm thù giặc sâu sắc, luôn che chở giúp đỡ cán bộ cách
mạng, bảo vệ Đảng. Nơi các đồng chí cán bộ cách mạng hoạt động gây dựng cơ sở;
cất dấu các loại vũ khí thời kỳ 1939-1945. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh nghỉ lại
trên đuờng từ Pắc Bó về Tân Trào tháng 5/1945.
|
Trung
Minh
|
17
|
Trung Sơn
|
Xã Trung Sơn thuộc huyện Yên
Sơn, nơi thành lập Ủy Ban nhân dân cách mạng lâm thời châu Hồng Thái ngày 12/5/1945.
Tại đây, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng
chí Võ Nguyên Giáp đã dừng chân nghỉ trên đường đi công tác; nơi một số cơ
quan Trung ương ở, làm việc, như: Đài Tiếng nói Việt Nam (1949- 1950); Cơ
quan chuyên gia Trung Quốc (1953-1954).
|
Trung
Sơn
|
18
|
Trung Yên
|
Xã Trung Yên thuộc huyện Sơn
Dương, nơi Chủ tịch Quốc hội Tôn Đức Thắng đã ở, làm việc giai đoạn
1952-1954. Tại đây, Ban Thường trực Quốc hội cùng Chính phủ Việt Nam xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân, tổ chức các hoạt động kêu gọi toàn dân tộc đoàn kết
một lòng chiến đấu đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi vẻ
vang. Tại Trung Yên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp còn có một
số cơ quan Trung ương ở, làm việc: Việt Nam Thông tấn xã; Ban Tuyên huấn
Trung ương; Bộ Nội vụ; Ban Thanh tra Bộ Lao động...
|
Trung
Yên
|
IV. Các danh
nhân, tướng lĩnh tiêu biểu: 148 tên
TT
|
Họ và tên
|
Tóm tắt thân thế, sự nghiệp
|
Tên dự kiến đặt
|
1
|
Đào Duy Anh
|
Đào Duy Anh
(1904-1988), quê quán Khúc Thuỷ, Hà Đông, Hà Nội. Năm
1926, tham gia Đảng Tân Việt. Ông cùng với cụ Huỳnh Thúc Kháng ra báo “Tiếng
dân”, thành lập “Quan Hải tùng thư”. Sau Cách mạng tháng 8, ông là Uỷ viên
Ban chấp hành Hội văn hoá cứu quốc Trung bộ, Giáo sư Đại học Văn khoa tại Hà
Nội năm 1946. Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào Bộ từ
điển Larousse với tư cách là một Nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
|
Đào Duy Anh
|
2
|
Nguyễn Bính
|
Nguyễn Bính (1918-1966)
là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của Việt Nam. Thơ ông phần lớn là thơ tình,
nhưng mang một sắc thái quê mùa, dân dã riêng biệt. Cùng với Xuân Diệu, ông
được mệnh danh là “Vua thơ tình”. Ông là một trong các nhà thơ xuất sắc nhất
của thi ca Việt Nam hiện đại và được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật năm 2000.
|
Nguyễn Bính
|
3
|
Phan Kế Bính
|
Phan Kế Bính
(1875-1921) quê ở làng Thụy Khê, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông (nay
thuộc phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội). Năm Bính Ngọ
(1906), Phan Kế Bính dự thi Nho học và đỗ cử nhân, nhưng không
ra làm quan, mà ở nhà dạy học. Trong thời gian này, ông công khai hưởng ứng phong
trào Duy Tân, nhưng không trực tiếp chỉ đạo. Từ 1907, ông bắt đầu viết báo
cho nhiều tờ báo trong nước. Sau đó ông lần lượt cộng tác với các tờ báo:
Đông Dương tạp chí, Lục tỉnh tân văn, Trung Bắc tân văn. Đặc biệt là với tờ
Đông Dương tạp chí, ông có thời gian làm trong ban biên tập Đông Dương tạp
chí, và tác phẩm của ông phần lớn đều từng đăng trên tạp chí này.
|
Phan
Kế Bính
|
4
|
Tạ Quang Bửu
|
Tạ Quang Bửu
(1910-1986), quê quán thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành (nay là xã Khánh
Sơn), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Tháng 8/1945, ông cùng luật
sư Phan Anh ra Hà Nội tham gia cách mạng. Từ tháng 9/1945 đến tháng 1/1946,
ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong
chính phủ lâm thời, phụ trách giao thiệp với Mỹ và Anh. Từ 3/1946, ông được
Quốc hội cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ 8/1947 đến 8/1948, ông là Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Hội đồng Quốc phòng tối cao. Tháng 12/1947, ông
là Ủy viên Quân sự ủy viên hội. Từ 9/1948 đến 1961, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc
phòng và kiêm nhiệm nhiều cương vị khác. Năm 1954, ông tham gia đoàn đàm phán
của chính phủ ở Genève và thay mặt Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký Hiệp định
Genève. Từ 1956 đến 1961, ông làm Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Từ 1959 đến 1976, ông được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp. Ông còn là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoá VI,
nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam, Phó Chủ tịch
Hội Hữu nghị Việt - Xô.
Với công lao
cống hiến của mình, ông được Đảng, Quốc hội, Nhà nước ta tặng thưởng: Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến
thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân
chương Chiến công hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy chương
Quân kì quyết thắng.
|
Tạ
Quang Bửu
|
5
|
Lương Văn Can
|
Lương Văn Can (1854-1927), người làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội,
đỗ cử nhân không ra làm quan, là một trong nhóm sáng lập trường Đông Kinh
Nghĩa Thục, hoạt động được chín tháng thì bị đóng cửa. Năm 1914, Pháp viện cớ
kết án ông 10 năm biệt xứ sang Phnôm Pênh, đến 1921 đã phải thả.
|
Lương Văn Can
|
6
|
Đội Cấn
|
Trịnh Văn Cấn (1881-1918), quê xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Yên (Vĩnh Phúc) làm đội lính khố xanh ở Thái Nguyên, được Lương Ngọc Quyến (bị
giam ở đó) giác ngộ, phát động khởi nghĩa Thái Nguyên đêm 30/8/1917; bị Pháp đàn áp rút quân vào rừng Vĩnh Yên,
thế cùng lực tận, ông tự sát, không chịu để giặc bắt.
|
Đội Cấn
|
7
|
Trần Văn Cẩn
|
Trần Văn Cẩn (1910-1994), quê Từ Sơn, Bắc Ninh, tốt nghiệp trường Cao
đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tham gia tích cực các hoạt động hội họa phục vụ
kháng chiến và giảng dạy; từng là Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt Nam, Viện
sĩ Nước ngoài Viện Hàn lâm Mỹ thuật Đức; để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Em
Thúy, Gội đầu, Xuống đồng …; Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Trần Văn Cẩn
|
8
|
Huy Cận
|
Huy Cận
(1919-2005), quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là một trong những
nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Sau cách mạng tháng 8, ông là Uỷ
viên Ban thanh tra đặc biệt của Chính phủ, đại biểu Quốc hội khoá I, II, III.
Năm 2001, ông được bầu là Viện sĩ Viện Hàn lâm thơ thế giới. Ngoài ra, ông
còn là thứ trưởng Bộ Văn hoá, Bộ trưởng đặc trách Văn hoá thông tin. Ông được
Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật và
Huân chương Sao Vàng (2005)
|
Huy Cận
|
9
|
Nguyễn Đức Cảnh
|
Nguyễn Đức Cảnh
(1908-1932), quê ở Thái Bình, năm 1928 gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên. Ngày 28/7/1929, thành lập Tổng công hội đỏ Bắc kỳ. Ngày 03/02/1930 là đại
biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuối
1930 được bầu vào Ban Thường vụ Xứ ủy Trung kỳ. Năm 1932 bị thực dân Pháp bắt
xử chém. Nguyễn Đức Cảnh thuộc lớp những người cộng sản đầu tiên có nhiều cống
hiến đối với sự ra đời của tổ chức công đoàn và thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam.
|
Nguyễn Đức Cảnh
|
10
|
Âu Cơ
|
Âu Cơ (khoảng thế
kỷ 8-7 TCN), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Cùng với Lạc Long Quân, Âu
Cơ được xem là Thủy Tổ sinh ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "Bọc
trăm trứng".
|
Âu
Cơ
|
11
|
Lê Chân
|
Lê Chân quê xã
An Biên, huyện Đông Triều (Quảng Ninh). Bà đã tới An
Dương (Hải Phòng) khai phá miền bờ biển trở thành một trại ấp lớn là An Biên
(nay là khu phố Lê Chân). Bà đã mang quân theo Hai Bà Trưng để hợp sức đánh
Tô Định. Khởi nghĩa thành công, bà được phong là Thánh Chân Công chúa.
|
Lê Chân
|
12
|
Phó Đức Chính
|
Phó Đức Chính (1908-1930), quê ở làng Đa Ngưu, huyện Vân
Giang, tỉnh Hưng Yên; một trong những người cùng Nguyễn Thái Học lập Việt Nam
Quốc dân đảng. Trong cuộc khởi nghĩa tháng 2/1930, ông trực tiếp chỉ huy đánh
đồn Thông (Sơn Tây), nhưng không thành. Sau đó bị Pháp đưa ra tòa Đề hình, kết
án tử hình. Ông bị xử chém cùng với thủ lĩnh Nguyễn Thái Học và 11 đồng chí tại
Yên Bái ngày 17/6/1930.
|
Phó Đức Chính
|
13
|
Phan Huy Chú
|
Phan Huy Chú (1782-1840), quê gốc Hà Tĩnh, chỉ đỗ sinh đồ, nhưng có
thực tài, hay chữ, mở trường dạy học và soạn sách. Năm 1821 Minh Mạng bổ ông
làm Biên tu Quốc sử giám; đi sứ nhà Thanh hai lần (1825-1831), Phủ thừa Phủ
Thừa Thiên, Hiệp trấn Quảng Nam rồi bị cách chức bắt đi phục vụ đoàn thuyền
sang Nam Dương quần đảo. Tác giả nhiều sách giá trị: Lịch triều hiến chương
loạn chí, Hoàng Việt dư địa chí, Hoa thiều ngâm lục.
|
Phan Huy Chú
|
14
|
Nguyễn Thị Chiên
|
Nguyễn Thị
Chiên (1930-2016) quê ở huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình. Bà là Trung tá quân đội nhân dân Việt Nam và Nữ Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt
Nam.
|
Nguyễn
Thị Chiên
|
15
|
Võ Chí Công
|
Võ Chí Công
(1912-2000), quê ở xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam. Ông gia nhập
Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1935. Năm 1943, ông giữ chức Bí thư Tỉnh uỷ Quảng
Nam. Từ 1945 - 1976 ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều chức vụ
quan trọng: Phó Ban tổ chức cán bộ và thanh tra Quân khu 5, Bí thư Khu uỷ khu
5, Phó bí thư Trung ương cục, Phó chủ tịch Uỷ ban Trung ương, Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Từ 1987 -
1991, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc
phòng. Năm 1992, ông được Nhà nước phong tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Võ Chí Công
|
16
|
Lương Định Của
|
Lương Định Của (1920-1975), quê ở Sóc Trăng, tốt
nghiệp trường Đại học Tổng hợp Kyoto và Kiusiu, trở thành tiến sĩ thứ 96 của
Nhật Bản. Năm 1954, ông về Sài Gòn, làm ở Viện Nghiên cứu canh nông, rồi ra
chiến khu tập kết ra Bắc. Cả cuộc đời ông cống hiến cho sự nghiệp lai tạo các
loại giống cây trồng, đặt nền móng cho nền khoa học nông nghiệp Việt Nam, làm
Viện trưởng Viện cây lương thực và thực phẩm, được phong Anh hùng lao động.
|
Lương Định Của
|
17
|
Hồ Đắc Di
|
Hồ Đắc Di (1900-1984), là bác sĩ, trí thức yêu nước người Huế. Trước cách
mạng tháng Tám, ông làm hiệu trưởng trường Y kiêm Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy.
Kháng chiến, ông theo Chính phủ Cụ Hồ, cùng giáo sư Tôn Thất Tùng lập trường
Đại học Y của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở chiến khu, đào tạo cho toàn quốc
nhiều cán bộ y tế giỏi. Ông là đại biểu Quốc hội nhiều khóa và 38 năm làm Hiệu
trưởng trường Đại học Y khoa. Truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Hồ Đắc Di
|
18
|
Đoàn Thị Điểm
|
Đoàn Thị Điểm (1705-1748), hiệu “Hồng Hà nữ sĩ”, quê ở xã Giai Phạm,
huyện Yên Mỹ, Hưng Yên. Từ nhỏ đã hay chữ, từng lên Thăng Long dạy cung nữ
trong phủ Chúa. Bà lấy ông Nguyễn Kiều, tiến sĩ người làng Phú Xá (nay thuộc
phường Phú Thượng, quận Tây Hồ). Bà là tác giả Truyền kỳ tân phả và dịch giả
Chinh phụ ngâm.
|
Đoàn Thị Điểm
|
19
|
Xuân Diệu
|
Tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (1916-1985), quê huyện Can Lộc, Hà
Tĩnh; tham gia phong trào Việt Minh, Hội Văn hóa Cứu quốc; từng giữ các chức
vụ: Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ
Dân gian; năm 1983 được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm Nghệ thuật Cộng
hòa Dân chủ Đức; là nhà thơ, nhà văn hóa, nhà lý luận, phê bình văn học Việt
Nam nổi tiếng. Xuân Diệu được xem là cây bút tiêu biểu cho thơ ca hiện đại Việt
Nam, nhà bình luận văn học xuất sắc. Ông đã xuất bản hàng chục tác phẩm thơ,
thơ dịch, nghiên cứu, phê bình văn học; trong đó có những công trình nghiên cứu
có giá trị đặc biệt về các nhà thơ cổ điển Việt Nam như: Nguyễn Du, Nguyễn
Trãi, Hồ Xuân Hương… Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật và nhiều giải thưởng cao quý khác.
|
Xuân Diệu
|
20
|
Hoàng Diệu
|
Hoàng Diệu (1832-1882), quê ở Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đỗ Phó bảng,
giữ chức Tổng đốc Hà - Ninh (Hà Nội - Ninh Bình). Pháp đánh thành Hà Nội (25/4/1882), Hoàng Diệu chỉ huy cuộc chiến đấu tới cùng.
Thấy không đủ sức chiến đấu, ông thắt cổ tuẫn tiết. Tượng đồng của ông và
Nguyễn Tri Phương được đặt tại Cửa Bắc thành phố Hà Nội
để ghi nhớ hai ông đã hy sinh chống thực dân Pháp.
|
Hoàng Diệu
|
21
|
Tản Đà
|
Tản
Đà (1889-1939), ông tên thật Nguyễn Khắc Hiếu, là một nhà thơ, nhà
văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là
tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Trong
văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều
thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí.
Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành
thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt
hay nhất.
|
Tản
Đà
|
22
|
Trần Nguyên Đán
|
Trần Nguyên
Đán (1325-1390) là tôn thất nhà Trần, đời vua Trần Dụ Tông, ông được bổ
nhiệm chức Đại phu Ngự sử đài, chuyên việc can gián. Tháng 10 âm lịch năm
1370, ông cùng Cung Định vương Trần Phủ (tức Trần Nghệ Tông sau
này), Cung Tuyên vương Trần Kính (tức Trần Duệ Tông sau này), Thiên
Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân chống Dương
Nhật Lễ. Tháng 2 âm lịch năm 1371, sau khi lật đổ Dương Nhật Lễ, ông được Trần
Nghệ Tông phong làm tư đồ. Tháng 10 âm lịch năm 1375, vua Trần Duệ Tông sai
ông coi việc quân trấn Quảng Oai. Tháng 7 âm lịch năm 1385 thời Trần Phế
Đế, tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Nguyên Đán trí sĩ lui về Côn Sơn (nay
thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) ở ẩn.
|
Trần
Nguyên Đán
|
23
|
Nguyễn Thị Định
|
Nguyễn Thị Định
(1920-1992), quê ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà được Tỉnh
ủy chọn làm thuyền trưởng chuyến ra Bắc báo cáo và xin vũ khí chi viện. Bà từng
làm việc ở Bộ Tư lệnh miền Nam (1961-1964), giữ chức Phó Tổng Tư lệnh quân giải
phóng miền Nam (1965-1975). Năm 1974, Bà được phong quân hàm Thiếu
tướng. Bà được Nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân.
|
Nguyễn Thị Định
|
24
|
Trương Định
|
Trương Định (1820-1864)
quê ở Gò Công, Tiền Giang, là võ quan nhà Nguyễn và là thủ lĩnh chống Pháp giai
đoạn 1859-1864 ở Nam Bộ. Năm 1859, quân Pháp đánh chiếm thành
Gia Định, ông đánh thắng Pháp nhiều trận như chiến thắng Cây
Mai, Thị Nghè... Đầu năm 1861, Pháp tấn công Gia Định lần
thứ hai, Trương Định đem quân phối hợp với quân của tướng Nguyễn Tri
Phương phòng giữ chiến tuyến Chí Hòa. Khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ,
ông lui về Gò Công, trấn giữ vùng Gia Định - Định Tường. Ở đây,
Trương Định tổ chức lại lực lượng, bố phòng trấn giữ các vùng Gò
Công, Tân An, Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và
kéo dài đến tận biên giới Campuchia.
|
Trương Định
|
25
|
Bùi Bằng Đoàn
|
Bùi Bằng Đoàn (1889-1955)
có tên gọi là Mộ Trần, quê quán tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà
Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Năm 1945, ông tham gia Ban Cố vấn Chủ tịch
nước, thành viên Ủy ban Nghiên cứu Kế hoạch kiến thiết đất nước; Trưởng ban
Thanh tra đặc biệt của Chính phủ (1946). Từ năm 1946-1948, ông làm Trưởng ban
Thường trực Quốc hội, ở và làm việc tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang.
|
Bùi
Bằng Đoàn
|
26
|
Trần Thủ Độ
|
Trần Thủ Độ (1194-1264), quê huyện Hưng Hà, Thái Bình; lập nên triều
Trần bằng cách buộc Lí Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh, trở thành nhân
vật trụ cột của triều đình, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên -
Mông lần thứ nhất với câu nói “Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng
lo”; được truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương.
|
Trần Thủ Độ
|
27
|
Kim Đồng
|
Anh hùng Nông Văn Dền (tức Kim Đồng, 1929 - 1943) quê ở Nà Mạ, xã Trường
Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng là người dân tộc Nùng.
Sinh trưởng trong chiếc nôi cách mạng, khi còn nhỏ Kim Đồng đã sớm giác ngộ
và vận động các bạn cùng lứa tuổi trong bản làm nhiệm vụ liên lạc, chuyển
công văn, tài liệu, đưa đón cán bộ, trinh sát nắm tình hình địch để cung cấp
cho cán bộ. Rạng sáng ngày 15/2/1943, Kim Đồng được giao nhiệm vụ canh gác, bảo
vệ cuộc họp bí mật của Trung ương Đảng. Địch phát hiện và cho một lực lượng lớn
bao vây hòng bắt sống các đồng chí lãnh đạo của Đảng. Trước tình thế nguy hiểm,
Kim Đồng đã mưu trí đánh lạc hướng, lừa địch tập trung lực lượng và hỏa lực về
phía mình, đồng thời phát tín hiệu báo cho các đồng chí cán bộ rút lui an
toàn. Kim Đồng đã anh dũng hy sinh khi ở tuổi 14 và trở thành tấm gương sáng
cho các thế hệ thanh, thiếu niên noi theo. Tháng 5/1941, Trung ương Đảng quyết
định thành lập Đội thiếu niên cứu quốc Kim Đồng là một trong số năm đội viên
đầu tiên và được bầu làm đội trưởng Đội thiếu niên cứu quốc. Anh luôn thể hiện
trí thông minh, lòng dũng cảm, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.
|
Kim Đồng
|
28
|
Khúc Thừa Dụ
|
Khúc Thừa Dụ
(830-907), quê ở Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, năm 905 nhân cơ hội
chính quyền đô hộ nhà Đường ở nước ta suy yếu, ông tự xưng là Tiết độ xứ,
cùng với nhân dân đứng lên giành chính quyền. Khúc Thừa Dụ đã kết thúc cơ bản
ách thống trị hơn một nghìn năm của phong kiến phương Bắc. Lịch sử ghi nhận
công lao của ông như là một trong những người đầu tiên đặt cơ sở cho nền độc
lập dân tộc.
|
Khúc Thừa Dụ
|
29
|
Trịnh Hoài Đức
|
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), còn có tên là Hoài An, tự là Chí Sơn, hiệu
Cấn Trai, quê tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Đồng Nai), đỗ khoa thi hương đầu tiên
của triều Nguyễn, làm quan tới chức Thượng thư Bộ hộ, Hiệp Tống trấn thành
Gia Định, từng đi sứ sang triều Thanh; là nhà văn, nhà địa lí, tác giả của
Gia Định thành thông chí. Về sáng tác, Trịnh Hoài Đức là một đại biểu xuất sắc
trong nhóm “Gia Định Tam gia thi” hay “Bình Dương thi xã” (cùng với Lê Quang
Định và Ngô Nhân Tĩnh), có tác dụng kích thích phát triển cho một vùng văn
hóa. Ông còn để lại hai tập thơ chữ Hán là Cấn Trai thi tập (1783-1819) và tập
thơ đi sứ Trung Quốc Bắc sứ thi tập.
|
Trịnh Hoài Đức
|
30
|
Văn Tiến Dũng
|
Văn Tiến Dũng
(1917-2002), quê ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 1937, ông gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương. Từ 1942 - 1943, ông đảm nhiệm các chức vụ: Bí thư Đảng bộ
tỉnh Bắc Ninh, Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ, Uỷ viên Thường vụ Uỷ ban Quân sự Cách mạng
Bắc Kỳ; Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tư lệnh chiến dịch
giải phóng Sài Gòn - Gia Định; Bí thư Quân uỷ Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng (1978 - 1986). Ông được phong hàm Đại tướng năm 1974, được Nhà nước tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), Huân chương Hồ Chí Minh.
|
Văn Tiến Dũng
|
31
|
Hoàng Minh Giám
|
Giáo sư Hoàng
Minh Giám (1904-1995) quê ở xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm phủ
Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay là quận Bắc Từ Liêm Thành phố Hà
Nội. Năm 1926, ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Đông Dương khoá III.
Sau đó đi dạy học ở Phnôm Pênh (Campuchia), Sài Gòn, rồi viết
báo chống chế độ thực dân Pháp. Ngày 30/8/1945 ông được Chủ tịch Hồ Chí
Minh được cử làm Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ của Chính phủ
Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 3/1946 ông giữ chức Thứ
trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến. Từ tháng 11/1946 ông
giữ chức Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Từ tháng 3/1947 đến 07/1954
ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam. Từ tháng 7/1954 đến năm 1976
là Bộ trưởng Bộ Văn hóa. Từ năm 1976 đến năm 1981 là Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại
của Quốc hội Việt Nam khóa VI. Từ năm 1981 đến cuối đời, ông tham
gia các hoạt động của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ông
còn giữ các vị trí: Chủ tịch Đoàn chủ tịch Uỷ ban Việt Nam đoàn kết hữu nghị
với nhân dân các nước; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam - Indonesia; Chủ tịch Ủy
ban Việt Nam Đoàn kết với Nhân dân Mỹ; Ủy viên danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
|
Hoàng
Minh Giám
|
32
|
Võ Nguyên Giáp
|
Võ Nguyên Giáp
(1911- 2013), quê ở Lộc Thuỷ, Lệ Thuỷ, Quảng Bình,
nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam, nguyên Bí thư Quân uỷ Trung ương, nguyên Phó Thủ
tướng Thường trực Chính phủ, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam, Đại biểu Quốc hội từ khoá I - khoá VII; Đại
tướng đầu tiên của QĐND Việt Nam. Với tài năng quân sự kiệt xuất và những
đóng góp vĩ đại cho quân sự Việt Nam, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được báo chí
thế giới ca ngợi là “vị tướng huyền thoại”, sánh cùng các vĩ nhân trong suốt
2.000 năm qua.
|
Võ Nguyên Giáp
|
33
|
Trần Văn Giàu
|
Trần Văn Giàu
(1911-2010), quê ở An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An ông là nhà hoạt
động cách mạng, khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử triết học. Ông được bầu làm
Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ, Tổng giám đốc Nha thông tin Bộ nội vụ, là người sáng lập
ra giải thưởng Trần Văn Giàu năm 2002. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng: Huân
chương Hồ Chí Minh, Danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Anh
hùng lao động thời kỳ đổi mới, Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).
|
Trần Văn Giàu
|
34
|
Hoàng Hanh
|
Hoàng Hanh (1888-1963) quê ở xã Xuân Lạc, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An. Ông có thành tích xuất sắc trong
tăng gia sản xuất, đóng góp nhiều lương thực, thực phẩm cho kháng chiến chống
thực dân Pháp nên được bình chọn đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua cấp tỉnh và
sau đó là Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc ở Tuyên Quang vào năm
1952. Tại Đại hội này, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huân chương, giấy chứng nhận và là một
trong ba Anh hùng lao động đầu tiên của Việt Nam.
|
Hoàng
Hanh
|
35
|
Trần Nguyên Hãn
|
Trần Nguyên Hãn (1420-1429): người làng Sơn Động, huyện Lập
Thạch (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc), dòng dõi nhà Trần. Ông vào Lam Sơn theo Lê
Lợi khởi nghĩa chống quân Minh, làm tướng lập nhiều công lớn, thu phục vùng
Tân Bình, Thuận Hóa; bao vây thành Đông Quan tham gia đánh thắng trận Xương
Giang, bắt sống tướng giặc Hoàng Thúc, Thôi Tụ. Bình công được phong Tả tướng
quốc (1428). Sau bị vua Lê nghi ngờ, ông nhảy xuống sông tự vẫn, 26 năm sau mới
được Lê Nhân Tông minh oan.
|
Trần Nguyên Hãn
|
36
|
Tô Hiệu
|
Tô Hiệu (1912-1944), quê làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang,
tỉnh Hưng yên; tham gia các phong trào yêu nước từ năm 1925. Năm 1930, bị bắt
và bị đày ra Côn Đảo; tại đây, ông trở thành đảng viên Cộng sản. Năm 1934 ra
tù, hoạt động Mặt trận Dân chủ ở Hà Nội, rồi ra vùng mỏ Cẩm Phả chỉ đạo phong
trào công nhân; được cử làm Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, phụ trách Bí thư Thành ủy
Hải Phòng. Tháng 12/1939, ông lại bị Pháp bắt, giam lại nhà tù Sơn La. Do bị
tra tấn, tù đày gian khổ, ông lâm bệnh nặng, qua đời ngày 7/3/1944 tại nhà tù
Sơn La, nêu cao khí tiết của người Cộng sản.
|
Tô Hiệu
|
37
|
Nguyễn Công Hoan
|
Nguyễn Công
Hoan (1903-1977) quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận
Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên). Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm,
làm nghề dạy học ở nhiều nơi. Tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan là một
đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách
mạng Tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc
Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập
viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và
biên tập tờ Quân nhân học báo. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu
thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện
đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ chín năm. Ông cũng viết
bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc
gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với
cương vị Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam (khóa đầu
tiên 1957-1958), Ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn
Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là Ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp
Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của
báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.
|
Nguyễn
Công Hoan
|
38
|
Lê Hoàn
|
Lê Hoàn
(941-1005), quê ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Ông không chỉ là một vị vua có
những đóng góp lớn trong chống quân Tống phương Bắc, quân
Chiêm phương Nam, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều
công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiến tạo đất nước đại Cồ
Việt. Lê Hoàn cũng là người tạo tiền đề, điều kiện để thời gian sau
đó Lý Công Uẩn có đủ khả năng dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long
năm 1010, mở ra một kỷ nguyên phát triển lâu dài của văn hóa Thăng Long
- Hà Nội.
|
Lê Hoàn
|
39
|
Trần Hoàn
|
Trần Hoàn
(1928-2003), tên thật là Nguyễn Tăng Hích, còn có bút danh Hồ Thuận An. Ông
nguyên là Bộ trưởng Văn hóa - Thông tin, phó ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương. Ông tham gia hoạt động âm nhạc trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Trong sự nghiệp sáng tác, ông để lại những tác phẩm nổi tiếng
như: Một mùa xuân nho nhỏ, Chào mùa xuân, Giữa Mạc Tư Khoa nghe câu hò ví dặm,
Khúc hát người Hà Nội, Đêm Hồ Gươm, Lời Bác dặn trước lúc đi xa... Ghi nhận
những đóng góp to lớn của ông, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Độc
lập hạng Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật và nhiều Huân,
Huy chương, giải thưởng cao quý.
|
Trần Hoàn
|
40
|
Nguyễn Thái Học
|
Nguyễn Thái Học
(1902-1930), quê ở Thổ Tang, Vĩnh
Tường, Vĩnh Phúc năm 1927 tại Nam Đồng
Thư xã (Hà Nội), ông đã thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng. Việt Nam Quốc dân Đảng
theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên. Tức là phấn đấu: Dân tộc độc lập -
Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Đường lối chiến lược của Đảng là: Trước
làm cách mạng Quốc gia, sau làm cách mạng Thế giới. Chỉ trong một thời gian
ngắn Việt Nam Quốc dân Đảng đã phát triển mạnh mẽ lan rộng khắp các tỉnh ở Bắc
kỳ, do tổ chức thiếu chặt chẽ nên cuộc vận động quần chúng của Việt Nam Quốc
dân Đảng gặp nhiều trở ngại. Trước tình hình đó Nguyễn Thái Học cùng các đồng
chí của mình chủ trương bạo động cách mạng với phương châm: “Không thành công
thì thành nhân”. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng đứng đầu là lãnh
tụ Nguyễn Thái Học, phong trào bạo động chống Pháp ở các tỉnh đã nổ ra mà đỉnh
cao là khởi nghĩa Yên Bái vào đêm 9, rạng ngày 10/2/1930. Việt Nam Quốc dân Đảng
và khởi nghĩa Yên Bái bị dìm trong bể máu. Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí
bị giặc Pháp bắt và hành hình. Phong trào bị dập tắt. Lãnh tụ Nguyễn Thái Học
đã được Chính phủ truy tặng liệt sỹ và bằng Tổ quốc ghi công.
|
Nguyễn Thái Học
|
41
|
Nguyên Hồng
|
Nguyên Hồng
(1918-1982) quê ở Vụ Bản, Nam Định. Nguyên Hồng ham đọc sách từ nhỏ, ông
bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn"
đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang
trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Nguyên Hồng tham gia phong
trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Năm 1943, Nguyên Hồng
tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô
Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam,
là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Năm 1996,
ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
|
Nguyên
Hồng
|
42
|
Nguyễn Hiền
|
Nguyễn Hiền (1234-1256), quê xã Nam Thắng,
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất trong lịch
sử khoa thi của nước ta, ông có nhiều kế sách hay phò vua, giúp nước, đối phó
với quân phương Bắc, đánh giặc cỏ ở Mường La. Ông mộ dân đi khai hoang phục
hoá, đắp đê sông Hồng, đào kênh mương dẫn nước, tạo mùa màng thắng lợi, nhân
dân no ấm. Về quân sự, ông cho mở mang các xưởng rèn vũ khí, các võ đường rèn
luyện quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu chống quân xâm lược.
|
Nguyễn Hiền
|
43
|
Phạm Hùng
|
Phạm Hùng
(1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, quê ở xã Long Phước, huyện Long Hồ,
tỉnh Vĩnh Long. Năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1945,
ông được bầu làm Bí thứ Xứ uỷ lâm thời Nam Bộ. Từ 1956 - 1975, ông giữ nhiều
chức vụ quan trọng: Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, Phó Thủ
tướng, Bí thư Trung ương Cục Miền Nam. Từ 1976 - 1987, ông giữ chức Phó Thủ
tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam.
|
Phạm Hùng
|
44
|
Phùng Hưng
|
Phùng Hưng, quê ở làng Đường Lâm, Ba Vì, Hà Nội, trước sự tàn bạo của bọn đô hộ nhà Đường,
khoảng năm 766 - 791, Phùng Hưng cùng với người em Phùng Hãi phát động một cuộc
khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ. Phùng Hưng lãnh đạo nghĩa quân làm chủ
đất Đường Lâm và cả một vùng rộng lớn, chiếm được thành phủ Tống Bình - cơ
quan đầu não của bọn đô hộ nhà Đường.
|
Phùng Hưng
|
45
|
Lê Văn Hưu
|
Lê Văn Hưu (1230-1322)
người làng Phủ - Lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh - Hóa, nay thuộc xã Thiệu
Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên
hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi.
Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Năm 1272 ông soạn
xong bộ Đại-việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng. Đó là bộ sử ký qui
mô đầu tiên của nước ta, đã được Trần Thánh Tông ban chiếu khen. Nhưng đáng
tiếc hiện nay bộ sách đã thất lạc, chỉ còn một ít lời bình được Ngô Sĩ Liên
ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Ông là một sử gia có lòng yêu nước, có
cách nhìn tiến bộ đối với nhiều sự kiện lịch sử đương thời, bộ sử của ông đã
đóng góp rất nhiều cho Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên và đã để lại
cho chúng ta nhiều nhận định quý báu về các sự kiện lịch sử cũng như những đoạn
bình luận giàu tính chất văn học.
|
Lê Văn Hưu
|
46
|
Tố Hữu
|
Tố Hữu
(1920-2002), quê ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên Huế ông là một tác giả có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ
tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam,
Giám đốc Nha tuyên truyền và văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ, Thứ trưởng Bộ
Tuyên truyền, Phó chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, Bí thư
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng…Ông được tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về Văn học nghệ thuật (1996), Huân chương Sao
Vàng (1994), Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan (1996).
|
Tố Hữu
|
47
|
Nguyễn Văn Huyên
|
Nguyễn Văn Huyên (1908-1975), hiệu Huy Vân, sinh
tại thôn Lai Xá, xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội);
tiến sĩ văn khoa, cử nhân luật, giáo sư sử học, từng làm Giám đốc trường Viễn
Đông Bác Cổ (1945), Bộ trưởng Bộ Giáo dục (1946-1975); Phó chủ tịch Hội Khoa
học lịch sử Việt Nam; sáng lập Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam; để lại nhiều
tác phẩm nghiên cứu văn, sử. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ tiến sĩ khoa
văn trường đại học Xoóbon (Pháp).
|
Nguyễn Văn Huyên
|
48
|
Phan Huy Ích
|
Phan Huy Ích
(1751-1822) tên thật là Phan Công Hậu, ở làng Thu Hoạch, huyện Thiên
Lộc, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, (nay thuộc xã Thạch Châu, huyện Lộc
Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Năm 1771, ông thi đỗ Giải nguyên tại
trường thi Nghệ An và được triều đình thu dụng và bổ nhiệm một chức quan
nhỏ tại trấn Sơn Nam. Năm 1775, ông đỗ Tiến sĩ. Năm 1773, Phan
Huy Ích được bổ chức Tả mạc xứ Sơn Nam. Năm 1775, ông lại đỗ đầu khoa thi hội
ở Thăng Long, rồi sau đó đỗ chế khoa đồng tiến sĩ, được bổ Hàn lâm thừa chỉ ở
phủ chúa Trịnh. Ủng hộ chế độ Chúa Trịnh, năm 1777 sau khi được bổ làm Đốc đồng
Thanh Hoa, ông về giữ chức Thiêm sai tri hình phiên ở phủ Chúa. Năm Đinh Dậu,
Phan Huy Ích được chúa Trịnh Sâm sai vào Phú Xuân phong chức tước cho Tây Sơn
Nguyễn Nhạc, sau đó được chúa phái lên Nam quan tiếp sứ thần nhà Thanh. Góp
nhiều công lớn trong lĩnh vực ngoại giao, ông trở thành nhà ngoại giao tiêu
biểu thời Tây Sơn. Phan Huy Ích được vua Quang Trung giao cùng với Ngô Thì Nhậm
trông nom công việc ngoại giao được giao toàn quyền việc đối ngoại với nhà
Thanh. Ngoài những thành tích ngoại giao, ông còn đóng góp nhiều tác phẩm văn
học có giá trị cho làng văn học Việt Nam. Cuối năm 1787, quân Tây
Sơn ra Bắc Hà lần thứ hai. Lê Chiêu Thống chạy
sang Trung Quốc cầu cứu. Phan Huy Ích bỏ lên Sài Sơn (Sơn Tây), chấm
dứt 14 năm làm quan với chính quyền vua Lê - chúa Trịnh.
|
Phan
Huy Ích
|
49
|
Trần Quang Khải
|
Trần Quang Khải (1241-1294): Trần Quang Khải, con thứ ba
của Thái Tông Trần Cảnh, em ruột vua Trần Thánh Tông, làm tới chức Thượng tướng
Thái sư; đảm nhận việc ngoại giao trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, trực
tiếp chỉ huy trận thắng ở Chương Dương (1285); tác giả bài Tụng giá hoàn kinh
sư nổi tiếng. Trần Quang Khải có học lực cao, sáng tác nhiều bài thơ xuất sắc,
bộc lộ hào khí của thời đại đất nước hưng thịnh, đồng thời lại chứng tỏ một
tâm hồn thi sĩ phong phú, gắn bó với thiên nhiên. Tập thơ Lạc đạo tập chỉ còn
sót lại hơn mười bài, có bài nổi tiếng.
|
Trần Quang Khải
|
50
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Huỳnh Thúc Kháng (1875-1947): nhà chí sĩ, nhà văn, quê huyện Thăng
Bình (nay là Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam, Đỗ hoàng giáp, không ra làm quan, đứng
đầu phong trào Duy Tân ở Trung kỳ đầu thế kỷ XX. Phong trào chống sưu thuế nổ
ra, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm, trở về là Viện trưởng Viện Dân biểu
Trung Kỳ, làm báo Tiếng dân. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Bộ trưởng Nội vụ,
quyền Chủ tịch nước khi Bác Hồ sang Pháp, sáng lập và là Hội trưởng Hội Liên
hiệp quốc dân Việt Nam. Tác giả các sách Thi tu tùng thoại, Thi tù thảo,
Trung Kỳ cựu sưu ký.
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
51
|
Phùng Khắc Khoan
|
Phùng Khắc Khoan (1528-1613): người làng Bùng (Phùng Xã),
huyện Thạch Thất, nay thuộc Hà Nội; nổi tiếng thông minh từ nhỏ, học trò Nguyễn
Bỉnh Khiêm, quen gọi là Trạng Bùng. Năm 1550 vào Thanh phù Lê, diệt Mạc. Đỗ
hoàng giáp (1580), làm quan thượng thư Bộ Hội, Bộ Công triều Lê; đi sứ sang
nhà Minh (1597), lý lẽ cứng cỏi. Ông còn là nhà thơ, tác giả tập thơ Nôm Lâm
tuyền văn, miêu tả các loài cây cỏ. Ông đem nghề dệt dạy cho dân vùng quê
ông.
|
Phùng Khắc Khoan
|
52
|
Nguyễn Khoái
|
Nguyễn Khoái (Chưa rõ năm sinh, năm mất): Thế kỷ XIII, sinh
trưởng ở đất Hồng Châu, tỉnh Hưng Yên, có sức khoẻ phi thường, được vua Trần
giao trọng trách chỉ huy quân túc vệ, tham gia các trận đánh giặc Mông-Nguyên
ở Tây Kết, Hàm Tử, Bạch Đằng... có tài thiện chiến trên bộ, dưới nước; lập
chiến công lớn, giải phóng kinh đô Thăng Long. Ông được vua Trần thưởng công
và phong làm “Liệt hầu” - Là tước thời Trần chỉ để dùng để ban cho người
trong hoàng tộc.
|
Nguyễn Khoái
|
53
|
Nguyễn Khuyến
|
Nguyễn Khuyến (1835-1909): hiệu Quế Sơn, người làng Yên Đổ, huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông đỗ tam trường nên gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Làm
quan triều Nguyễn ở nhiều nơi, sau tới chức Học sĩ sung Quốc sử quán Toản tu.
Triều Nguyễn đầu hàng Pháp, ông cáo quan về quê. Nhà thơ hiện thực và trào lộng
nổi tiếng, để lại nhiều thơ hay.
|
Nguyễn Khuyến
|
54
|
Phùng Chí Kiên
|
Phùng Chí Kiên (1901-1941), tên thật là Nguyễn Vĩ, quê xã Mỹ
Quang Thượng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, được giác ngộ cách mạng rất sớm.
Năm 1926 ông sang Quảng Châu dự huấn luyện do Nguyễn Ái Quốc tổ chức rồi theo
học trường Võ bị Hoàng Phố, gia nhập quân cách mạng Trung Quốc, khởi nghĩa Quảng
Châu (12/1927) do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Năm 1931 học Đại học
Phương Đông (Liên Xô). Năm 1934 tham gia chuẩn bị Đại hội lần thứ nhất của Đảng.
Năm 1935 được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách công tác Đảng ở
nước ngoài. Năm 1936 vận động thành lập Việt Nam Độc lập đồng minh hội ở
Trung Quốc.Năm 1941 cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh về Pắc Bó, chỉ đạo căn cứ Bắc
Sơn (Cao Bằng), chỉ huy trung đội cứu quốc quân số 1. Ông bị Pháp bắt và giết
hại ở Ngân Sơn tháng 8/1941, sau được truy phong quân hàm cấp tướng.
|
Phùng Chí Kiên
|
55
|
Lý Thường Kiệt
|
Lý Thường Kiệt
(1019-1105), họ Ngô tên Tuấn, tự là Thường Kiệt, sinh tại Phủ Thái Hoà, thành
Thăng Long (Hà Nội). Từ nhỏ, Ông đã có chí hướng, ham đọc sách, nghiên cứu
binh thư, luyện tập võ nghệ. Ông có tài văn, võ. Ông có nhiều công lao trong
việc chống Tống bình Chiêm, đóng góp xây dựng đất nước phồn vinh. Lịch sử
cũng đã lưu lại tư tưởng quân sự vô cùng táo bạo và thần tốc của Ông: “Ngồi
yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của giặc”. Ông là
tác giả bài thơ bất hủ “Nam Quốc Sơn Hà”, cổ vũ tinh thần quyết chiến quyết
thắng của quân dân ta. Bài thơ khẳng định quyền độc lập dân tộc tự chủ thiêng
liêng của Tổ quốc. Bài thơ đã đi vào lịch sử của dân tộc ta như một bản tuyên
ngôn độc lập thứ nhất.
|
Lý Thường Kiệt
|
56
|
Võ Văn Kiệt
|
Võ Văn Kiệt
(1922-2008), quê ở xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Năm 1939,
ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1946, ông được bầu làm Bí
thư Tỉnh uỷ Bạc Liêu. Từ 1976 - 1982, ông giữ các chức vụ: Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân TP.HCM, Bí thư Thành uỷ TP.HCM. Từ 1982 - 1988: Chủ nhiệm Uỷ ban kế
hoạch Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh…
Năm 1997, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Võ Văn Kiệt
|
57
|
Yết Kiêu
|
Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế quê ở huyện Thanh
Hà, Hải Dương, do trải cuộc sống trên sông nước từ nhỏ nên ông bơi lội rất giỏi.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần hai và lần ba, Phạm Hữu
Thế với tài bơi lội "nhập thuỷ như phúc bình địa hỹ" (đi dưới nước
ung dung, tự tại như trên đất bằng) đã lập nhiều chiến công đóng góp cho chiến
thắng của vua tôi nhà Trần. Ông đã được nhân dân và vua quan nhà Trần gọi là
Yết Kiêu (tên một loài cá lớn ngày xưa).
|
Yết Kiêu
|
58
|
Trương Vĩnh Ký
|
Trương Vĩnh Ký (1837-1898), quê ở huyện Chợ
Lách, tỉnh Bến Tre. Ông là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục học,
khảo cứu văn hóa tiêu biểu của Việt Nam. Ông được phong Giáo sư Viện
sĩ Pháp, là nhà bác học hàng đầu thế giới thế kỷ 19. Ông được coi
là "ông tổ nghề báo Việt Nam", sáng lập và là Tổng biên tập tờ Gia
Định báo.
|
Trương Vĩnh Ký
|
59
|
Cù Chính Lan
|
Cù Chính Lan (1930-1952), quê xã Quỳnh Lôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An; trong chiến dịch Quang Trung (1950) được nêu gương “Anh hùng tay không diệt
giặc”. Chiến dịch Hòa Bình (1951), anh dùng lựu đạn diệt xe tăng địch trên đường
số 6 năm 1952, anh tham gia đánh đồn Gô Tô, bị cụt hai tay và một chân vẫn
anh dũng chỉ huy đến hơi thở cuối cùng. Được truy tặng Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân.
|
Cù Chính Lan
|
60
|
Ỷ Lan
|
Nguyên phi Ỷ Lan
(1044-1117), quê ở Gia Lâm, Hà Nội, tên thật là Lê Thị Yến, là một trong những
danh nhân có tài trị nước của dân tộc. Năm 1072, vua Lý Thánh Tông mất, Ỷ Lan
trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính. Bà cùng Tể tướng Lý Thường Kiệt lãnh đạo
nhân dân đánh tan quân Tống xâm lược, xây dựng đất nước yên bình, giàu mạnh.
|
Ỷ Lan
|
61
|
Lê Lai
|
Lê Lai quê ở xã Kiên
Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá ông tính cương trực, dung mạo khác thường, có chí
khí. Ông hy sinh khi giả làm Lê Lợi để phá vòng vây cho chủ tướng và nghĩa
quân Lam Sơn rút khỏi núi Chí Linh. Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông được
truy tặng là Sùng Trung đồng Đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần. Năm
1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương.
|
Lê Lai
|
62
|
Phạm Ngũ Lão
|
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phủ Ủng, huyện Đường Hào (nay
thuộc huyện Ân Thi), tỉnh Hưng Yên; một nông dân, ham học, có ý chí, tình
nguyện tham gia quân đội đánh giặc ngoại xâm, chỉ huy quân cấm vệ của Trần
Hưng Đạo; lập nhiều chiến công trong hai lần chống Nguyên - Mông (1285-1288),
sau còn đi dẹp loạn quấy phá biên giới Lão Qua và Chiêm Thành ở phía Nam, trở
thành danh tướng đời Trần, được phong tước Quan nội hầu.
|
Phạm Ngũ Lão
|
63
|
Ngô Sĩ Liên
|
Ngô Sĩ Liên sống ở thế kỷ XV, người làng Chúc
Lý, huyện Chương Đức, nay là xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây, tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn. Năm 1442 thi đậu tiến sĩ, làm ở Hàn lâm viện, rồi giữ
chức Đô ngự sử. Năm 1480, dời Hồng Đức, theo lệnh của Lê Thánh Tông, ông biên
soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư và Thực lục, trở thành nhà sử học nổi tiếng ở
nước ta.
|
Ngô Sỹ Liên
|
64
|
Trần Huy Liệu
|
Trần Huy Liệu
(1901-1969) quê ở làng Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định. Năm 1924, ông vào Nam công tác với các báo Nông cổ mín đàm, Rạng
đông, làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo. Tháng 6/1927 ông bị Pháp bắt,
kết án tù vì tham gia các tổ chức yêu nước. Năm 1928 ông gia nhập Việt
Nam Quốc dân đảng và tổ chức đảng bộ trong Nam giữ cương vị Bí thư kỳ
Nam bộ. Năm 1928, bị kết án 5 năm tù và đày ra Côn Đảo. Sau khi ra tù
ông trở ra Bắc và tham gia hoạt động cách mạng, ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Đông Dương. Tháng 8/1945, ông dự Đại hội Quốc dân ở Tân
Trào và được bầu làm Phó chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng (tức Chính
phủ lâm thời). Ngày 25/8/1945, ông thay mặt Chính phủ cùng với Nguyễn
Lương Bằng và Cù Huy Cận vào kinh đô Huế chấp nhận sự thoái vị
và nhận ấn tín của vua Bảo Đại. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Bộ
trưởng Bộ Tuyên truyền cổ động, Chính trị Cục trưởng trong Quân sự Ủy
viên hội, Bí thư Tổng bộ Việt Minh, Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc, Ủy viên
thường trực Quốc hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Phó
Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Trung. Trong thời gian kháng chiến chống Mỹ ông
tham gia công tác Quốc hội, làm Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội.
|
Trần
Huy Liệu
|
65
|
Cao Lỗ
|
Cao Lỗ quê quán:
xã Cao Đức, Gia Bình, Bắc Ninh, là một vị tướng tài của Thục Phán An Dương
Vương. Ông giỏi võ nghệ, là người chế ra nỏ Liên Châu (Nỏ thần) và được An
Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.
Ông được tôn là vị tổ sư nghề rèn của Việt Nam.
|
Cao Lỗ
|
66
|
Mai Thúc Loan
|
Mai Thúc Loan
quê quán Hà Tĩnh, người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông
dân chống sự chiếm đóng của nhà Đường ở Việt Nam vào
đầu thế kỉ thứ 8. Ông xưng đế và đóng kinh đô ở thành Vạn An. Sau đó,
ông cùng nghĩa quân quanh vùng, liên kết với cả các nước Chăm Pa, Chân Lạp chống
giặc tại địa phương và tiến quân ra Bắc tiến công thành phủ Tống Bình. Bọn đô
hộ nhà Đường bỏ thành chạy tháo thân về nước.
|
Mai Thúc Loan
|
67
|
Thế Lữ
|
Thế Lữ (1907-1989) tên khai sinh Nguyễn Đình Lễ,
quê ở ấp Thái Hà, Hà Nội. Là một
trong các tác giả Tự Lực có nhiều tác phẩm nhất được Nhà xuất bản Đời nay
phát hành. Từ 1934 đến 1943, ông cho ra mắt 12 cuốn sách,
trung bình mỗi năm một cuốn. Đáng chú ý nhất là tập truyện đầu tay Vàng
và máu (1934), tập thơ Mấy vần thơ (1935)...
Ngoài ra, ông dành nhiều thời gian và tâm huyết cho sân khấu kịch
nói.
|
Thế
Lữ
|
68
|
Phan Đăng Lưu
|
Phan Đăng Lưu
(1902-1941), quê ở Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, là nhà
hoạt động cách mạng nổi tiếng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ông được bầu
làm Uỷ viên thường vụ tổng bộ phụ trách tuyên huấn Tân Việt Cách mạng Đảng,
có những đóng góp xuất sắc vào các cuộc vận động hợp pháp và nửa hợp pháp ở
Trung Kì, đồng thời viết nhiều sách lí luận chính trị, văn học. Năm 1939, ông
được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương.
|
Phan Đăng Lưu
|
69
|
Lê Văn Lương
|
Lê Văn Lương (1912-1995),
quê ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 1945, ông là Ủy viên
dự khuyết Xứ ủy Nam bộ, tham gia chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông ở, làm việc tại nhiều địa điểm của
tỉnh Tuyên Quang và giữ các chức vụ: Bí thư Văn phòng Trung ương Đảng; Trưởng
Ban Tổ chức Trung ương (khi đó gọi Bộ Tổ chức) kiêm phụ trách Văn phòng
Trung ương Đảng.
|
Lê
Văn Lương
|
70
|
Hồ Quý Ly
|
Hồ Quý Ly
(1336-1407), là một vị vua Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại thần dưới
thời nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm
quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc
hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.
|
Hồ Quý Ly
|
71
|
Đặng Thai Mai
|
Đặng Thai Mai (1902-1984), quê Lương Điền, huyện Thanh Chương, Nghệ
An, dạy ở trường Quốc học (Huế), sau ra Hà Nội mở trường Thăng Long, lập Hội
truyền bá quốc ngữ, viết báo công khai của Đảng. Sau cách mạng, ông làm Bộ
trưởng Bộ Giáo dục, đại biểu Quốc hội, Viện trưởng Viện Văn học, Chủ tịch Hội
Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông là nhà nghiên cứu văn học, sử học,
triết học… có nhiều tác phẩm giá trị. Giải thưởng Hồ Chí Minh.
|
Đặng Thai Mai
|
72
|
Phạm Sư Mạnh
|
Phạm Sư Mạnh quê
quán làng Thạnh Hiệp, Kinh Môn, Hải Dương, là nho sĩ nổi tiếng triều Trần,
tên thật là Phạm Độ, tự Nghĩa Phu, hiệu Uý Trai,. Ông đỗ Thái học đời Trần
Minh Tông, từng giữ chức: Chưởng bạ thư kiêm tham chính viện Khu mật, Nhập nội
hành khiển tri Khu mật viện sự, Hành khiển Tả ti lang trung, Nhập nội nạp
ngôn.
|
Phạm Sư Mạnh
|
73
|
Hồ Tùng Mậu
|
Hồ Tùng Mậu (1896-1951), quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An; tên chính là Hồ Bá Cự, tham gia cách mạng từ sớm, hoạt động ở Lào,
Thái Lan, Trung Quốc. Viết báo Thanh niên. Năm 1926 vào Đảng Cộng sản Trung
Quốc, khởi nghĩa Quảng Châu, bị bắt ba lần, tham gia hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản. Năm 1931 bị bắt giải về nước giam ở Tây Nguyên. Ông vượt trại
về hoạt động ở miền Trung. Ông đã giữ các chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến
- hành chính Liên khu IV, Tổng Thanh tra Chính phủ, Ủy viên Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa II. Ông hy sinh trên đường đi công tác ở Thanh Hóa.
|
Hồ Tung Mậu
|
74
|
Hàm Nghi
|
Hàm Nghi
(1871-1943), là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng
Cai và bà Phan Thị Nhàn. Là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà
Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong Lịch sử Việt
Nam. Cùng với các vị vua Thành Thái, Duy Tân ông là một trong ba vị
vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.
|
Hàm Nghi
|
75
|
Đặng Văn Ngữ
|
Đặng Văn Ngữ (1910-1967), giáo sư, bác sĩ, quê ở An Cựu, Huế. Nhà
khoa học xuất sắc để lại nhiều công trình có giá trị cho ngành y và chuyên ngành
ký sinh trùng. Ông là giáo sư chủ nhiệm bộ môn Sinh học, Đại học Y khoa, Viện
trưởng Viện Sốt rét - Ký sinh trùng. Ông hy sinh tại Thừa Thiên khi đi thực
nghiệm chống sốt rét cho quân Giải phóng miền Nam, được truy tặng liệt sĩ,
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
|
Đặng Văn Ngữ
|
76
|
Ngô Thì Nhậm
|
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà văn hóa-quân sự lớn, người làng Tả
Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Đỗ tiến sĩ, làm tới Công bộ Hữu
thị lang thời Lê Mạt. Quang Trung ra Bắc Hà, trọng dụng cử ông trấn giữ Thăng
Long cùng với Ngô Văn Sở. Quân Thanh xâm lược, ông hiến kế lui quân về Tam Điệp
bảo toàn lực lượng, đợi đại quân Tây Sơn ra, cùng tiến đánh giải phóng kinh
thành - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Triều Tây Sơn mất, ông bị nhà Nguyễn bắt, hãm hại;
Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị về văn, sử, triết, ngoại giao.
|
Ngô Thì Nhậm
|
77
|
Đỗ Nhuận
|
Đỗ Nhuận
(1922-1991), quê quán xã Thái Học, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương ông là một
nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cách mạng, là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết
Opera. Ông là Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam khóa I, II. Năm
1943, ông tham gia hoạt động cách mạng và bị thực dân Pháp bắt giam vào các
nhà lao: Hải Dương, Hoả Lò, Sơn La. Năm 1955, ông đạt giải nhất Hội văn nghệ
Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó nổi bật là bài hát “Chiến
thắng Điện Biên”… Ông được Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng
Nhì, Giải thưởng Hồ Chí Minh, Huân chương Chiến sĩ hạng Nhì, Huân chương Chiến
thắng hạng Nhì.
|
Đỗ Nhuận
|
78
|
Trần Đăng Ninh
|
Trần Đăng Ninh
là một nhà hoạt động cách mạng và quân sự, Chủ nhiệm đầu tiên của Ủy ban Kiểm
tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Cung cấp (sau là Tổng cục
Hậu cần, Quân đội Nhân dân Việt Nam) giai đoạn 1950-1955. Ông được Nhà nước tặng
thưởng các Huân chương Độc lập hạng nhất, Quân công hạng nhì, Chiến thắng hạng
nhất, truy tặng Huân chương sao Vàng năm 2003.
|
Trần Đăng Ninh
|
79
|
Hải Thượng Lãn
Ông
|
Hải Thượng Lãn
Ông là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), quê ở xã Liêu Xá,
huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông là đại danh y có đóng góp lớn cho
nền y học dân tộc Việt Nam, từng chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh
Sâm. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như: Hải Thượng y tông tâm lĩnh, Lĩnh
Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự.
|
Hải Thượng Lãn Ông
|
80
|
Huỳnh Tấn Phát
|
Huỳnh Tấn
Phát (1913-1989 ), quê ở xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Mỹ
Tho (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Trước Cách mạng tháng
Tám 1945, ông là Chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động trong phong
trào Thanh niên Tiền Phong, truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ.
Ông được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5/3/1945.
Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông cùng một số trí thức Nam Bộ tham gia cướp
chính quyền ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc
hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bổ sung làm Ủy viên dự
khuyết Ban Thường trực Quốc hội. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức Ủy
viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ,
trực tiếp phụ trách Đài phát thanh Tiếng nói Sài Gòn-Chợ Lớn tự do.
Năm 1960, ông tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam, giữ chức Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương, đồng thời là
Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tháng
6/1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Năm 1976, ông được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban
Xây dựng cơ bản Nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ông
còn đảm trách các chức vụ: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ
tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
|
Huỳnh
Tấn Phát
|
81
|
Tôn Quang Phiệt
|
Tôn Quang Phiệt
(1900-1973) quê ở xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
Năm 1925, ông cùng Đặng Thai Mai, Phạm Thiều... sáng lập tổ chức Việt
Nam nghĩa đoàn, tham gia đấu tranh đòi thực dân Pháp thả cụ Phan Bội
Châu. Tổ chức này sau đó được thống nhất với Hội Phục Việt của Lê
Văn Huân và Trần Mộng Bạch ở Vinh và Tôn Quang Phiệt được cử làm Hội trưởng
Hội Phục Việt. Hội Phục Việt đổi tên thành Hội Hưng Nam (11/1925) rồi cuối
cùng là Đảng Tân Việt (1928), một trong những tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng và Ủy
ban kháng chiến đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên. Năm 1946, ông trở
thành Đại biểu Quốc hội khóa I và tham gia vào Uỷ ban dự thảo Hiến
pháp Việt Nam. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa I-IV đã từng đảm nhận nhiều chức
vụ trong Quốc hội như: Phó trưởng ban Thường trực Quốc hội khóa I, Uỷ
viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Tổng Thư ký Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội khóa III, IV. Ông còn là Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết nhân dân Á -
Phi của Việt Nam, Phó Hội trưởng Hội hữu nghị Việt - Trung, Uỷ viên Ban Chấp
hành Trung ương Hội hữu nghị Việt - Xô. Từ năm 1954, ông có nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị như: Lịch sử Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1948), Trên
đường tranh đấu của nhân dân Việt Nam (1950)... Ông được nhà nước Việt
Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao Vàng.
|
Tôn
Quang Phiệt
|
82
|
Vũ Trọng Phụng
|
Vũ Trọng Phụng (1912-1939), quê gốc ở huyện Mĩ
Hào, Hưng Yên, từ nhỏ sống ở Hà Nội; nhà báo, nhà văn xuất chúng, với các tác
phẩm phản ánh xã hội đương thời một cách sinh động, sắc sảo như: Số đỏ, Vỡ
đê, Giông tố, Làm đĩ …
|
Vũ Trọng Phụng
|
83
|
Nguyễn Tri
Phương
|
Nguyễn Tri
Phương (1800-1873), quê ở Làng Đường Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế. Ông được vua Minh Mạng thu dụng. Năm Mậu Ngọ
(1858), tàu chiến Pháp đến uy hiếp Đà Nẵng, ông được cử làm Quân thứ tổng thống
đại thần trực tiếp chỉ huy quân đội chống giặc. Với vũ khí tối tân Pháp đã
phá hủy một số lớn đồn lũy của ta, ông bị triều đình giáng cấp nhưng vẫn lưu
tại chức. Ông xây dựng đồn Chí Hòa để chống Pháp. Ngày 25/10/1861, Pháp công phá đồn, ông bị thương, em
trai ông là Nguyễn Duy tử trận. Pháp chiếm Gia Định, ông bị triều đình cách
chức, năm sau được cử làm Đổng nhung quân vụ Biên Hòa. Ngày 19/11/1873, quân Pháp do Garnier chỉ huy, đánh úp
Hà Nội. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm hy sinh tại trận, ông bị trọng
thương. Giặc Pháp chiếm thành Hà Nội, chúng bắt được ông trong lúc bị thương
nặng, lính Pháp biết về ông nên cố cứu chữa, nhưng ông đã từ chối và nói rằng:
“Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc
nghĩa”. Sau đó, ông tuyệt thực một tháng và mất. Yêu nước, thương dân, bất
khuất trước kẻ thù, Nguyễn Tri Phương đã chọn cái chết để thỏa lòng trung với
nước.
|
Nguyễn Tri Phương
|
84
|
Lạc Long Quân
|
Lạc Long Quân
(khoảng thế kỷ 8-7 TCN), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam. Lạc Long Quân được
xem là vị vua của nhà nước sơ khai Xích Quỷ trước Văn Lang và là Thủy Tổ sinh
ra dân tộc Việt Nam theo truyền thuyết "bọc trăm trứng".
|
Lạc Long Quân
|
85
|
Cao Bá Quát
|
Cao Bá Quát (1808-1855), tự Chu Thần, quê xã Phú Thị, huyện Gia Lâm,
sống ở Thăng Long, đỗ cử nhân, làm Giáo thụ Quốc Oai (Sơn Tây), năm 1854 cùng
Lê Duy Cự khởi nghĩa Mỹ Lương (nay là Mỹ Đức, Hà Nội) bị đàn áp dã man và hy
sinh. Nhà thơ lớn để lại hơn 1300 bài thơ, ông còn là nhà thư pháp, được người
đời tôn ông là “Thánh Quát”.
|
Cao Bá Quát
|
86
|
Võ Thị Sáu
|
Võ Thị Sáu
(1935-1952), tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở xã Phước
Long Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là anh hùng Lực lượng vũ
trang (truy tặng 1993), khi hi sinh là đội viên Công an Xung phong quận Đất Đỏ.
Tham gia cách mạng năm 1948. Sớm có ý thức căm thù thực dân Pháp, dũng cảm,
hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao như giao liên, mua hàng tiếp tế
cho các tổ chức cách mạng. Tháng 5/1948, tham gia phá tề,
trừ gian, giết cai tổng Tòng. Ngày 14/7/1949, cùng đồng đội phá cuộc mít tinh kỉ niệm quốc khánh Pháp do ngụy
quyền tổ chức. Đã trực tiếp diệt nhiều lính Pháp ở Vũng Tàu. Tháng 5/1950, bị địch bắt giam ở Bà Rịa, sau chuyển đến Khám Chí Hoà, Sài
Gòn. Mặc dù bị địch tra tấn dã man vẫn giữ vững khí tiết người công an cách mạng.
Bị thực dân Pháp kết án tử hình - vụ án đã gây chấn động dư luận xã hội lúc
đó. Khi bị dẫn đi làm thủ tục trước khi hành quyết đã khước từ rửa tội, từ chối
bịt mắt khi ở pháp trường, giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng. Võ Thị
Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23/1/1952 và được truy tặng Huân chương Chiến công hạng nhất.
|
Võ Thị Sáu
|
87
|
Trương Hán Siêu
|
Trương Hán Siêu, quê huyện Yên Ninh (nay là Thành phố
Ninh Bình), Ninh Bình; được Trần Hưng Đạo nuôi dưỡng và tiến cử, sau làm tới
chức Hành khiển, Tả Tham tri Chính sự; trở thành nhà văn, nhà chính trị nổi
tiếng thời Trần, là tác giả Hoàng Triều đại điển, Bạch Đằng giang phú …
|
Trương Hán Siêu
|
88
|
Nguyễn Văn Siêu
|
Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), tự Tốn Ba, hiệu Phương Bình, người làng
Kim Lũ (nay là xã Đại Kim), huyện Thanh Trì; sống ở thôn Cổ Lương, bờ sông
Tô. Đỗ bảng, làm án sát sứ Hưng Yên, rồi về dạy học, lập trường Phương Đình.
Ông giỏi văn chương, học rộng, được người đời gọi là Thần Siêu, cùng với
Thánh Quát (Cao Bá Quát) là bạn, nổi tiếng thời ấy. Ông để lại nhiều tác phẩm
có giá trị và có công tạo đền Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, ở đây còn nhiều
những câu đối và đại tự do ông viết.
|
Nguyễn Văn Siêu
|
89
|
Nguyễn Sơn
|
Nguyễn Sơn (1908-1956) là một trong những người được phong quân hàm
tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam đợt đầu tiên vào năm 1948. Ông cũng được
Trung Quốc phong quân hàm tướng vào năm 1955 nên còn được gọi là "Lưỡng
quốc tướng quân". Năm 1925, ông gia nhập "Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội", trở thành một trong những đảng viên sớm nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới
thiệu tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Quảng Châu và học
Trường Quân sự Hoàng Phố. Tháng 8/1927, ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc
từ đó tham gia vào cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh
đạo. Năm 1934, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương nước Cộng hòa
Xô viết Trung Hoa. Tháng 11/1945, ông trở về nước hoạt động
theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và giữ nhiều chức vụ quan
trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ như: Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam, Tư lệnh kiêm Chính ủy
hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi, Cục
trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu, Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4. Năm
1948, ông được Nhà nước phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu
tiên. Ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
|
Nguyễn Sơn
|
90
|
Lý Quốc Sư
|
Lý Quốc Sư
(1065-1141), quê quán ở Gia Viễn, Ninh Bình, là pháp
danh của thiền sư Nguyễn Minh Không. Quốc sư đã có công lớn chữa bệnh hoá hổ
cho vua Lý Thần Tông. Ngài là ông tổ nghề y, đúc đồng, thủ công nghiệp, trồng
lúa nước, đã có công truyền nghề cho dân vùng Nam Định, được nhân dân Nam Định
ghi nhớ công ơn, lập đền thờ.
|
Lý Quốc Sư
|
91
|
Nguyễn Văn Tạo
|
Nguyễn Văn Tạo (1908-1970), quê ở làng Phước Lợi
(có tài liệu ghi là làng Gò Đen), tổng Long Hưng Hạ, tỉnh Chợ Lớn,
nay thuộc tỉnh Long An. Năm 1926 ông sang Pháp, vừa học Đại học Văn khoa
vừa đi làm và tham gia Đảng Việt Nam Độc lập, rồi
gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1929, ông trở
thành người Việt Nam duy nhất là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, phụ
trách vấn đề thuộc địa. Năm 1930, ông về nước làm chủ bút báo Trung Lập.
Năm 1933, ông đắc cử Ủy viên Hội đồng thành phố Sài Gòn. Năm
1945, ông về hoạt động tại Sài Gòn, tham gia lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám tại Sài Gòn và các tỉnh Nam Kỳ. Ông tham gia
cấp chính quyền tại Sài Gòn và được chỉ định vào Ủy ban Hành chính lâm thời
Nam Bộ với chức vụ Ủy trưởng Nội vụ. Trong cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khóa I năm 1946, ông trúng cử đại biểu quốc hội
Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Rạch Giá. Năm 1946, ông ra Bắc, được chỉ định vào Chính phủ, giữ chức
Bộ trưởng Bộ Lao động (1946-1965). Năm 1951, ông
được Ban Chấp hành Trung ương Đảng phân công làm thành viên Ban Kinh tế Tài
chính, Tiểu ban Công vận, Ủy viên Ban Việt kiều Trung ương (năm 1959). Năm
1965 ông giữ chức Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính của Chính phủ, hàm Bộ trưởng, đại
biểu Quốc hội Việt Nam các khóa II, III. Năm 1956,
ông được cử tham gia Tiểu ban Đấu tranh thống nhất của Quốc hội. Năm 1969 ông
giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Thống nhất của Quốc hội. Ông cũng là Hiệu trưởng đầu
tiên của trường Đại học Kinh tế - Tài chính.
|
Nguyễn
Văn Tạo
|
92
|
Duy Tân
|
Vua Duy Tân
(1900-1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn. Năm 1916, lúc Châu Âu có đại chiến,
ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên,
Trần Cao Vân, ông dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày
ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo
Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai
(1939-1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống Phát xít Đức. Ngày 26 tháng 12
năm 1945, ông mất ở Cộng hòa Trung Phi.
|
Duy Tân
|
93
|
Tống Duy Tân
|
Tống Duy Tân
(1837- 1892), quê quán: xã Đông Biện, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá là nhà
yêu nước kháng Pháp. Năm1875 thi đỗ Tiến sĩ, bổ làm Tri phủ Vĩnh Tường, rồi Đốc
học Thanh Hoá, sau làm Thương biện tỉnh vụ, đổi sang Chánh sứ Sơn phòng tỉnh
Thanh Hoá, có lúc ông từ quan về dạy học. Năm 1885, sau khi Kinh đô Huế thất
thủ, ông hưởng ứng phong trào Cần Vương tham gia khởi nghĩa chống Pháp, ông lập
căn cứ và trở thành thủ lĩnh của chiến khu Ba Đình, tỉnh Thanh Hoá. Nghĩa
quân của ông bị Pháp bao vây khủng bố, ông đành phải rút lui, lúc thì lánh ra
Bắc, lúc chạy vào Hồng Lĩnh; một thời gian, ông bị tên Cao Ngọc Lệ (có sách
ghi là Lễ) làm phản báo cho quân Pháp vây bắt. Chúng kết án tử hình và hành
quyết ông vào ngày 5/10, Nhâm Thìn, 1892, hưởng thọ 55 tuổi. Trước khi mất
ông có câu đối: "Món nợ tiền sinh nay mới trả. Cái danh bất tử trước còn
truyền".
|
Tống Duy Tân
|
94
|
Lê Trọng Tấn
|
Lê
Trọng Tấn (1914–1986) tên thật là Lê Trọng Tố quê ở làng Nghĩa Lộ,
thôn An Định, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay
là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội) Ông từng là Viện
trưởng Học viện Quân sự Cao cấp, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân
dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Tư lệnh Quân Giải phóng
miền Nam. Là Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông
có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã
đánh trận mở màn vào cao điểm Him Lam (13/3/1954) trận mở đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ và sau 56 ngày đêm
quân đội ta đã giành chiến thắng vào ngày 07/5/1954.
|
Lê Trọng Tấn
|
95
|
Nguyễn Cơ Thạch
|
Nguyễn Cơ Thạch
(1921-1998), quê quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định Ông tham gia
tổ chức Thanh niên Dân chủ rồi Thanh niên phản đế tại Nam Định (1937-1939), bị
giam tại nhà lao Nam Định, Hòa Bình, Sơn La (1040-1945). Năm 1943 ông được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau đó ông về công tác tại Bộ Quốc phòng,
Bí thư cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến Hành chính tỉnh Hà Đông (tháng 5/1949-5/1951); Bí thư Đảng ủy các
cơ quan của Liên khu (1949-1954) và nhiều chức danh cấp cao khác. Ông được
nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng…
|
Nguyễn Cơ Thạch
|
96
|
Phạm Ngọc Thạch
|
Phạm Ngọc Thạch (1909-1968), quê quán ở Quy Nhơn, Bình Định là bác
sĩ, giáo sư, Anh hùng Lao động; tốt nghiệp trường Đại học y khoa ở Pháp
(1934), năm 1936, ông là hội viên duy nhất ở Đông Dương của Hội nghiên cứu về
bệnh lao của Pháp. Về nước, ông mở bệnh viện tư chữa lao ở Sài Gòn. Đầu năm
1941, chủ động liên hệ với Đảng Cộng sản và tham gia phong trào cách mạng,
phong trào Mặt trận Bình dân, khởi nghĩa tháng Tám được cử vào Ủy ban nhân
dân cách mạng Sài Gòn. Sau năm 1954 ra Bắc, làm Bộ trưởng Y tế (1958), Viện
trưởng Viện chống lao, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tác giả của
vắc-xin BCG nổi tiếng. Để có thực tế phục vụ chiến trường, năm 1968 ông trở về
Nam và mất trong vùng giải phóng miền Đông Nam Bộ vì bệnh sốt rét ác tính
ngày 07/11/1968. Phạm Ngọc Thạch có nhiều công trình nghiên cứu chuyên môn có
giá trị về bệnh lao. Các luận văn viết bằng tiếng nước ngoài của ông đã được
đăng trên nhiều kỷ yếu ở Bucarest (1961), New Delhi (1957), Moscow (1958) và
Paris (1968).
|
Phạm Ngọc Thạch
|
97
|
Hoàng Văn Thái
|
Hoàng Văn Thái (1915-1986), tên thật là Hoàng Văn Xiêm, quê xã Tân
An, huyện Tiền Hải, Thái Bình. Ông tham gia phong trào nông dân Tiền Hải từ
năm 1936, được kết nạp vào Chi bộ Cộng sản đầu tiên của huyện Tiền Hải. Sau
Cách mạng tháng Tám, được giao phụ trách Tổng Tham mưu trưởng Quân đội, Tư lệnh
kiêm Chính ủy quân khu 5. Phó Bí thư Trung ương Cục, Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền,
trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
|
Hoàng Văn Thái
|
98
|
Cao Thắng
|
Cao Thắng (1864-1893), quê ở làng Yên Đức, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh, tham gia khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng chỉ huy năm 1885, ông
hy sinh trong một trận đánh đồn Pháp ở Thanh Chương (Nghệ An). Ông được cụ
Phan Đình Phùng tin cẩn giao trách nhiệm chỉ huy quân sự. Nhờ có Cao Thắng,
nghĩa quân trưởng thành nhanh chóng, mở rộng địa bàn, thanh thế vang dội ở 4
tỉnh miền Trung. Đặc biệt, Cao Thắng đã tìm mọi cách chế tạo được súng trường
để trang bị cho nghĩa quân. Súng của Cao Thắng chế tạo làm cho các sĩ quan
Pháp và kỹ sư Âu châu phải kinh ngạc.
|
Cao Thắng
|
99
|
Tô Hiến Thành
|
Tô Hiến Thành (1102-1179), người làng Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (nay thuộc
Hà Nội), làm quan Thái úy thời vua Lý Anh Tông (1138-1175); giỏi cả văn, võ.
Chỉ huy quân dẹp loạn và bọn xâm lấn ở biên giới phía tây, phía nam. Ông là
người trung trực, thanh liêm nổi tiếng, có công khai phá vùng Tống Sơn - Nga
Sơn (Thanh Hóa).
|
Tô Hiến Thành
|
100
|
Bà Huyện Thanh
Quan
|
Bà Huyện Thanh
Quan (1805-1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh, quê ở làng Nghi Tàm, Hà Đông,
Hà Nội. Bà nổi tiếng về tài làm thơ. Thời gian theo chồng vào làm việc ở Huế,
bà được vua Minh Mạng sung vào triều làm Cung trung Giáo tập để dạy học cho
công chúa và các cung nhân. Năm 1847, sau khi chồng mất, bà xin phép về quê
và đưa bốn con nhỏ từ Huế về sống tại quê nội ở làng Nghi Tàm. Tác phẩm bà đã
để lại gồm 6 bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật, miêu tả phong cảnh đất
nước như: Thăng Long thành hoài cổ, Qua chùa Trấn Quốc, qua Đèo Ngang, Chiều
hôm nhớ nhà, Tức cảnh chiều thu, Cảnh Hương sơn.
|
Bà Huyện Thanh Quan
|
101
|
Nguyễn Gia Thiều
|
Nguyễn Gia Thiều (1741-1798), người làng Liễu Ngạn,
huyện Siêu Loại (nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh trưởng trong một
gia đình quý tộc, từ bé học trong phủ chúa Trịnh, thông minh, hiểu nhiều
ngành nghệ thuật: nhạc họa, kiến trúc… 18 tuổi làm Hiệu úy rồi thăng Tổng
binh, trấn thủ Hưng Hóa, được phong tước hầu. Tây Sơn thống nhất đất nước,
ông về làng ẩn dật rồi mất. Tác giả Cung oán ngâm khúc nổi tiếng.
|
Nguyễn Gia Thiều
|
102
|
Nguyễn Thiếp
|
Nguyễn Thiếp
(1723-1804) có tên húy là Minh, tự là Quang Thiếp, ông là người quê
ở Cương Gián (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Năm Bính Tuất (1756), ông
được bổ làm Huấn đạo (chức quan trông coi việc học trong một huyện) ở Anh Đô
(phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Ở đó 6 năm, ông được đổi làm Tri huyện
Thanh Giang (nay là Thanh Chương, Nghệ An). Năm Mậu
Tý (1768), ông xin từ quan về ở ẩn tại trại Bùi Phong trên dãy Thiên Nhẫn.
Ông nhiều lần được vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) mời về giúp việc triều
chính nhưng ông từ chối. Năm 1791, vua Quang Trung lại cho mời ông
vào Phú Xuân để bàn việc nước, lần này ông đã nhận lời. Đến gặp,
ông đã dâng lên vua Quang Trung một bản tấu bàn về 3 vấn đề: Một là
"Quân đức" (đại ý khuyên vua nên theo đạo Thánh hiền để trị nước);
hai là "Dân tâm" (đại ý khuyên vua nên dùng nhân chính để thu phục
lòng người), và ba là "Học pháp" (đại ý khuyên vua chăm lo việc
giáo dục). Tuy là ba, nhưng chúng có quan hệ mật thiết với nhau và đều lấy
quan niệm "dân là gốc nước" làm cơ sở. Nguyễn Thiếp viết: "Dân
là gốc nước, gốc vững nước mới yên". Ngày 20/8/1791, nhà vua ban
chiếu lập "Sùng chính Thư viện" ở nơi ông ở ẩn và mời ông làm Viện
trưởng. Kể từ đó, ông hết lòng chăm lo việc dịch sách chữ
Hán ra chữ Nôm để dạy học và phổ biến trong dân. Chỉ trong hai
năm, ông đã tổ chức dịch xong các sách: Tiểu học, Tứ thư, Kinh Thi,
và chủ trì biên soạn xong hai bộ sách là Thi kinh giải
âm và Ngũ kinh toát yếu diễn nghĩa.
|
Nguyễn
Thiếp
|
103
|
Nguyễn Hữu Thọ
|
Nguyễn Hữu Thọ (1910-1996) quê
tại làng Long Phú, tổng Long Hưng Hạ, quận Trung Quận, tỉnh Chợ Lớn (nay
là thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Ông là Phó
Chủ tịch nước của Việt Nam (1976-1980) và Quyền Chủ tịch nước Việt
Nam (giai đoạn từ 30/3/1980 cho đến 4/7/1981), sau đó là Phó Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước Việt Nam (1980-1992), Chủ tịch Quốc hội Việt
Nam khóa VII, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam (1988-1994). Ông còn là Chủ tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam Việt Nam.
|
Nguyễn Hữu Thọ
|
104
|
Lê Đức Thọ
|
Lê Đức Thọ (1911-1990), tên thật là Phan Đình Khải, quê làng Dịch Lễ,
nay thuộc xã Nam Vân, Nam Định. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương, bị Pháp bắt
tù đày ở Côn Đảo, Hỏa Lò, Sơn La, Hòa Bình… ra tù, ông tham gia phát động cao
trào cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa. Kháng chiến toàn quốc, ông công tác ở
miền Nam, giữ cương vị chủ chốt trong Xứ ủy Nam bộ, Trung ương Cục miền Nam.
Năm 1955 ông được bổ sung vào Bộ Chính trị, phụ trách công tác tổ chức của
Trung ương Đảng, Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, tham gia Quân ủy Trung
ương, sau trở lại miền Nam công tác. Ông là cố vấn đặc biệt của phái đoàn
Chính phủ ta tại hội nghị Paris, ký hiệp định với Mỹ giải quyết hòa bình vấn
đề Việt Nam. Năm 1975, ông vào Nam chỉ đạo cuộc tổng tiến công mùa xuân và
chiến dịch Hồ Chí Minh thống nhất đất nước.
|
Lê Đức Thọ
|
105
|
Hoàng Văn Thụ
|
Hoàng Văn Thụ (1906-1944), là bậc tiền bối cách
mạng, dân tộc Tày, quê xã Nhân Lý, huyện Văn Yên, nay là Văn Lãng, tỉnh Lạng
Sơn, tham gia cách mạng từ năm 1927, đại biểu dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng
ở Ma Cao, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Thường vụ Trung ương Đảng, năm 1943 ông bị
Pháp bắt tại Hà Nội, kiên cường bất khuất, bị chúng kết án tử hình. Những hoạt
động của Hoàng Văn Thụ rất đa dạng. Ông rất giàu kinh nghiệm đối với công tác
tuyên truyền trong công nhân, binh sĩ. Ông là chủ bút nhiều tờ báo bí mật
như: Tranh đấu, Lao động nhằm phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng cho đồng
bào miền núi. Ông cũng sử dụng thơ ca phục vụ cho lý tưởng cách mạng. Có nhiều
bài Sli, lượn do Hoàng Văn Thụ sáng tác đã trở thành phổ biến và đi vào kho
tàng văn nghệ dân gian.
|
Hoàng Văn Thụ
|
106
|
Xuân Thủy
|
Xuân Thủy (1912-1985), tên thật là Nguyễn Trọng Nhâm, quê huyện
Từ Liêm, Hà Nội; từng giữ các chức vụ Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối
ngoại Trung ương, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam tại
Hội nghị Paris, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hội đồng Nhà nước, Phó Chủ tịch
Quốc hội; ông là nhà thơ, để lại các tác phẩm Đường xuân, Thơ Xuân Thủy …
|
Xuân Thủy
|
107
|
Tôn Thất Thuyết
|
Tôn Thất Thuyết
(1839-1913), quê ở Thôn Phú Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế, là danh tướng, nhà yêu nước. Năm 1869, ông làm án sát Hải Dương,
Tán tương Quân thứ Thái nguyên, Tán lý quân thứ Sơn Hưng Tuyên. Ông được
phong làm Hữu Tham tri Bộ binh, tước Nam. Ông ráo riết chuẩn bị chống Pháp.
Ông có công rước vua Hàm Nghi ra sơn phòng Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh mở
đầu phong trào Cần Vương kháng Pháp.
|
Tôn Thất Thuyết
|
108
|
Hoàng Đạo Thúy
|
Hoàng Đạo
Thúy (1900-1994), sinh ra tại số nhà 7 phố Hàng Đào, Hoàn Kiếm, Hà
Nội. Sau khi học xong, ông làm giáo viên Tiểu học tại Trường Sinh Từ.
Năm 1929, Hoàng Đạo Thúy cho in quyển Hướng đạo sinh và cùng một số đồng
chí thành lập "Hội Hướng đạo Việt Nam". Năm 1931, ông thành lập Ấu
đoàn Việt Nam đầu tiên tên là đoàn Lê Lợi và thành lập Thiếu đoàn Hùng Vương.
Năm 1943, với sự hướng dẫn của ông Vũ Quý, ông bắt đầu hướng phong trào
hướng đạo tham gia phong trào Việt Minh. Tháng 8/1945, ông được mời và
được Trần Quốc Hoàn, Hà Huy Giáp đưa lên Tân Trào dự Quốc
dân Đại hội. Tại đây, ông gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và các
ông Trường Chinh, Phạm Văn Đồng. Năm 1945, ông được cử giữ chức Trưởng
Phòng Thông tin Liên lạc trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu đồng thời là Ủy viên Ban
Quân sự toàn quốc, ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam đại diện
khu vực tỉnh Thái Bình. Năm 1946, ông được phân công làm Cục trưởng Chính
trị Cục. Ngày 17/4/1946 ông được phân công làm Giám đốc Trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn. Ngày 1/5/1947, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1948, ông được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Giao thông công binh, Cục trưởng
Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu. Cũng trong năm này, ông được đích
thân Chủ tịch Hồ Chí Minh mời và bổ nhiệm giữ vai trò Tổng Thư ký đầu tiên của
Phong trào thi đua toàn quốc. Ngày 25/61949, ông được bổ nhiệm giữ chức Cục
trưởng Cục Thông tin Liên lạc. Năm 1962, ông chuyển ngành sang công tác
tại Ủy ban Dân tộc Trung ương và giữ chức Giám đốc Trường Dân tộc Trung ương.
|
Hoàng
Đạo Thúy
|
109
|
Nguyễn Đình Thi
|
Nguyễn Đình
Thi (1924-2003) nguyên quán ở làng Vũ Thạch, hiện nay là phố Bà Triệu,
phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Những năm 1940, ông
tham gia Tổ Văn hóa Cứu quốc. Năm 1945, ông tham dự Hội nghị Quốc dân
Tân Trào, sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư ký Hội Văn
hóa cứu quốc. Ông thuộc thế hệ các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến
chống thực dân Pháp. Ông viết sách khảo luận triết học, viết văn, làm thơ, soạn
nhạc, soạn kịch, viết lý luận phê bình. Ông được nhà nước phong tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I năm 1996. Sau năm
1954, ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật. Từ
năm 1958 đến năm 1989 làm Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt
Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn
học nghệ thuật.
|
Nguyễn
Đình Thi
|
110
|
Nguyễn Khánh Toàn
|
Nguyễn Khánh
Toàn (1905-1993) quê ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1926,
ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương. Năm 1929, ông sang học
tại Trường Đảng Liên Xô theo giới thiệu của Đảng Cộng sản
Pháp. Năm 1939, ông được điều động về Trung Quốc hoạt động với nhóm
Cộng sản Việt Nam ở Diên An. Tại đây ông tham gia giảng dạy Khoa lịch sử
cách mạng thế giới và Khoa tiếng Nga với bí danh Hoàng Chính Quang. Năm 1946,
ông được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Năm 1960, ông được cử làm Phó
chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Từ năm 1965 đến năm 1982, sau khi Ban
Khoa học Xã hội tách khỏi Uỷ ban Khoa học Nhà nước để đổi thành Viện Khoa học
Xã hội rồi Uỷ ban Khoa học Xã hội (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam), ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm cơ quan nghiên cứu khoa học này cho đến
ngày nghỉ hưu. Ông là Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
III (1960 - 1976), đại biểu Quốc hội các khóa II và III (1960 -
1971). Ông từng là Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo nghiên cứu, phiên dịch và xuất bản Đại
Việt sử ký toàn thư. Ông được bầu làm viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm
Khoa học Liên Xô và Viện Hàn lâm Khoa học CHDC Đức. Năm 1996, Ông
được Chính phủ truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và được
Nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng.
|
Nguyễn
Khánh Toàn
|
111
|
Tuệ Tĩnh
|
Tuệ Tĩnh (1341-1385), tên thật là Nguyễn Bá Thành, quê phủ Hồng Châu
(nay thuộc huyện Cẩm Giàng), tỉnh Hải Dương; có tài chữa bệnh, được cử sang
Trung Quốc chữa bệnh cho hoàng hậu, bị lưu lại và mất ở bên đó; là tác giả
các bộ sách về thuốc Nam dược thần hiệu và Hồng Nghĩa Giác tự y thư.
|
Tuệ Tĩnh
|
112
|
Ngô Tất Tố
|
Ngô Tất Tố (1894-1954), nhà báo, nhà văn hiện đại, người làng Lộc Hà,
xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội. Ông đỗ đầu xứ nhưng bỏ nho học, đi làm
báo, viết văn dịch thuật. Những tác phẩm nổi tiếng trước Cách mạng như Tắt
đèn, Việc làng, Lều chõng… cùng với bài báo bình luận xuất sắc ký nhiều bút
danh; những sách nghiên cứu phê bình như Nho giáo, Lão tử, Mặc Tử; dịch thơ
văn Hán - Nôm và truyện Trung Quốc, đã đưa ông thành cây bút hiện thực lớn.
Ông tham gia Văn hóa cứu quốc, đi kháng chiến chống Pháp, làm báo cách mạng
và mất tháng 4-1954 tại Yên Thế, Bắc Giang.
|
Ngô Tất Tố
|
113
|
Nguyễn Văn Tố
|
Nguyễn Văn Tố (1889-1947),
quê ở Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Sau Cách mạng
Tháng Tám (1945), ông giữ chức Bộ trưởng Cứu tế Xã hội trong Chính
phủ cách mạng lâm thời. Ông là Đại biểu quốc hội, Chủ tịch Quốc hội
khóa I. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông cùng Chính phủ rút
lên Việt Bắc tiếp tục kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 7/10/1947, trong một cuộc tấn công của quân đội Pháp vào chiến
khu Việt Bắc, ông bị bắt, bị tra khảo và bị giết tại Bắc Kạn.
|
Nguyễn
Văn Tố
|
114
|
Nguyễn Trường Tộ
|
Nguyễn Trường Tộ (1830 -1871),
quê ở làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là trí thức, nhà cải cách xã hội Việt
Nam ở thế kỷ 19, có tài năng xuất chúng. Ông có lòng yêu nước thiết
tha, đặt hy vọng vào thế hệ trẻ có thể canh tân đất nước theo mô hình Nhật Bản.
Ông nhiều lần gửi các bản điều trần cho triều đình nhà Nguyễn, cử sứ bộ đi
các nước tranh thủ sự ủng hộ, đánh úp Pháp ở sáu tỉnh Nam Bộ... Tên ông được
đặt cho nhiều tên đường phố ở Việt Nam.
|
Nguyễn Trường Tộ
|
115
|
Trần Quốc Toản
|
Trần Quốc Toản
(1267-1285), quê ở Tức Mặc, Mỹ Lộc, Nam Định, người anh hùng thiếu niên chống
Nguyên Mông. Năm 1282, lúc ông mới 15 tuổi, được tin quân Nguyên Mông sang cướp
nước ta, vua Trần Nhân Tông hội các vương hầu bàn kế sách chống giặc. Quốc Toản
cũng là Hầu tước, nhưng vì nhỏ tuổi nên đến dự Hội Bình Than mà không được
vào họp bàn. Ông đứng ngoài căm tức lỡ tay bóp nát quả cam vua ban cho. Tan Hội
về, ông tập hợp đám bạn thiếu niên thân thuộc, sắm sửa vũ khí, may cờ hiệu đề
6 chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân", rồi tự dẫn binh ra trận đánh
giặc. Ông cùng các chiến binh trẻ tuổi tham dự vào nhiều trận đánh lớn, từng
có lúc theo Thượng tướng Trần Quang Khải, góp phần chiến thắng Chương Dương
vang dội trong lịch sử chống Nguyên Mông. Trong một trận đánh không cân sức,
ông bị trọng thương và hy sinh năm 1285, lúc ấy mới qua tuổi 18. Vua Trần
Nhân Tông thương tiếc, thân làm bài văn tế và truy phong ông tước Hoài Văn
Vương. Trần Quốc Toản là vị tướng trẻ nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của
dân tộc. Ông là tấm gương anh hùng yêu nước trẻ tuổi tiêu biểu của đất nước.
|
Trần Quốc Toản
|
116
|
Hà Hưng Tông
|
Hà Hưng Tông (1066-1127) quê ở
châu Vị Long nay là huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Năm
Nhâm Tuất (1082), ông kết duyên với Công chúa Khâm Thánh và được phong làm Tả
đại liêu ban; đến năm Bính Dần (1086) kiêm thêm Tri châu Vị Long, giữ Tiết độ
sứ, Kim tử quang lộc đại phu, kiểm hiệu Thái phó. Ông được phong làm
Phò ký lang, Đô tri tả vũ vệ đại tướng quân, đồng trung thư,
môn hạ bình chương sự, kiêm quân nội khuyến nông sự Thái bảo, Thái phó, Thượng
trụ quốc.
|
Hà
Hưng Tông
|
117
|
Lê Thánh Tông
|
Lê Thánh
Tông (1442-1497), là vị vua thứ năm của nhà Hậu Lê, trị
vì từ năm 1460 đến 1497. Ông là người đã đưa Đại Việt lên tới thời
hoàng kim của chế độ phong kiến. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất
nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh
tế, giáo dục và luật pháp. Ông là người xây dựng bộ Luật Hồng
Đức. Đây là một công trình lập pháp lớn, chứng tỏ bước phát triển mới rất
quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam. Ông được truy tôn
là Sùng thiên Quảng vận Cao minh Quang chính Chí đức Đại công Thánh văn
Thần vũ Đạt hiếu Thuần hoàng đế.
|
Lê Thánh Tông
|
118
|
Trần Thái Tông
|
Trần Thái Tông (1218-1277), vị vua đầu tiên của nhà Trần. Ông trực tiếp
chỉ huy cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất thắng lợi; nhường
ngôi cho con để tập trung nghiên cứu giáo lý nhà Phật và soạn tập Khóa hư lục.
|
Trần Thái Tông
|
119
|
Trần Thánh Tông
|
Trần Thánh Tông (1240-1290), vua thứ hai triều Trần, nhân từ, có nhiều
chính sách tích cực, và là một nhà thơ lớn, trị vì 20 năm (1258-1278), sau
nhường ngôi cho con là Trần Nhân Tông.
|
Trần Thánh Tông
|
120
|
Ngụy Như Kon Tum
|
Ngụy Như Kon
Tum (1913 quê ở xã Minh Lương, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên. Năm 1932, Ngụy Như Kon tum tốt nghiệp loại xuất sắc cả ba bằng Tú
tài bản xứ, Tú tài Tây ban Toán, Tú tài Tây ban Triết. Ông được cấp học bổng
sang Paris du học và tốt nghiệp cử nhân Vật lý, Thạc sĩ Lý-Hóa tại Đại học
Paris (còn gọi là Sorbonne, Pháp). Năm 1939, ông trở về nước
và dạy tại trường Trung học Chasseloup (Sài Gòn) rồi trường Bưởi (Hà Nội).
Ông sáng lập hội SET để giáo dục tinh thần yêu nước cho thanh niên trí thức.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tích cực tham gia công tác cách mạng. Kháng
chiến bùng nổ, ông lên chiến khu Việt Bắc, giữ những chức vụ: Tổng Giám đốc
trung học vụ kiêm Đổng lý sự vụ Bộ Quốc gia - Giáo dục (cuối 1946-1950).
Năm 1951, ông chuyển sang làm Giám đốc Trường Sư phạm cao cấp ở Khu học
xá Trung ương (Nam Ninh, Trung Quốc). Năm 1954, ông trở về thủ đô
Hà Nội, được cử xây dựng ngành đại học và giảng dạy Vật lý tại Trường Sư phạm
Khoa học. Hai năm sau, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, giáo sư
Ngụy Như Kon tum được cử làm Hiệu trưởng đầu tiên của trường và giữ chức vụ
này cho tới khi về hưu.
|
Ngụy
Như Kon Tum
|
121
|
Trần Quốc Tuấn
|
Trần Quốc Tuấn
(1228-1300), còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương. Ông là một nhà
chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông
được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh
tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông (năm 1285 và năm 1288).
Năm 1257, ông được Trần Thái Tông phong làm tướng chỉ huy các
lực lượng ở biên giới đánh quân Mông Cổ xâm lược. Sau đó ông lui về
thái ấp ở Vạn Kiếp. Đến tháng 10 âm lịch năm 1283, nhà
Nguyên (Mông Cổ) đe dọa đánh Đại Việt lần hai, Hưng Đạo vương được Thượng
hoàng Trần Thánh Tông, Hoàng đế Trần Nhân Tông phong làm Quốc
công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước. Trên cương vị này,
năm 1285, ông lãnh đạo quân sĩ chặn đánh đội quân xâm lược của Trấn Nam
vương Thoát Hoan. Sau những thất bại ban đầu, quân dân Việt dưới sự lãnh
đạo của hai vua Trần, Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải và Hưng
Đạo vương phản công mạnh mẽ, phá tan quân Nguyên trong các trận Hàm Tử,
Chương Dương, Trường Yên, Vạn Kiếp,... quét sạch quân Nguyên khỏi biên giới.
Năm 1288, quân Nguyên trở lại xâm lược Đại Việt. Hưng Đạo vương tiếp
tục làm Quốc công tiết chế. Ông đã dùng lại kế cũ của Ngô Quyền, đánh bại
hoàn toàn thủy quân của các tướng Phàn Tiếp, Ô Mã Nhi trong trận
Bạch Đằng. Quân Nguyên lại phải chạy về nước. Tháng 4 âm lịch
năm 1289, Trần Nhân Tông chính thức gia phong ông làm "Đại
vương" dù chức quyền đứng đầu triều đình khi đó vẫn thuộc về Thượng tướng
Thái sư Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải.
|
Trần
Quốc Tuấn
|
122
|
Huyền Trân
|
Huyền Trân
(1287-1340) là con gái vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho
vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Năm 1307, Chế Mân qua đời,
Huyền Trân được cứu đưa về Thăng Long. Năm 1308, bà đầu gia Phật giáo ở núi
Trâu Sơn (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Năm 1311, bà đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên
Bản (nay là Vụ Bản, tỉnh Nam Định) lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau bà
được nhân dân thờ phụng tại đó.
|
Huyền Trân
|
123
|
Đặng Thùy Trâm
|
Đặng Thùy Trâm
(1942-1970), tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm
1966, sau đó xung phong vào chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của người thầy
thuốc trong thời gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm
công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ
tại địa bàn đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất
trẻ. Trong hành trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã
được một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại chiến
trường huyện Đức Phổ tìm thấy và cất giữ. Cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” sau
đó đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành; liệt sĩ Đặng Thùy
Trâm được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006.
|
Đặng Thùy Trâm
|
124
|
Nguyễn Văn Trỗi
|
Nguyễn Văn Trỗi
(1940-1964), quê quán xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam; Ông làm thợ
điện ở nhà máy điện Chợ Quán và tham gia tổ chức Biệt động thành, Đại đội quyết
tử Tây Nam Sài Gòn. Năm 1964, ông được tập huấn cách đánh biệt động nội
thành ở căn cứ Rừng Thơm, Đức Hòa (Long An). Ngày 2/5/1964, ông nhận
nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý (nay là cầu Nguyễn Văn Trỗi), để ám sát
phái đoàn quân sự chính trị cao cấp của Chính phủ Mỹ do Bộ trưởng quốc phòng
Robert McNamara dẫn đầu. Công việc bại lộ, ông bị bắt lúc 22 giờ ngày
9/5/1964. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đưa ông ra tòa án quân sự kết án tử
hình. Để cứu ông, một tổ chức du kích Venezuela tuyên bố trao đổi anh với một
con tin là trung tá không quân Mỹ là Michael Smolen mà họ vừa bắt giữ. Tuy
nhiên, sau khi viên sĩ quan Mỹ vừa được trả tự do thì ông bị đưa đi xử bắn.
Nguyễn Văn Trỗi bị xử bắn tại sân sau nhà lao Chí Hòa lúc 9 giờ 45 phút ngày
15 tháng 10 năm 1964, trước sự chứng kiến của nhiều phóng viên nước ngoài.
|
Nguyễn Văn Trỗi
|
125
|
Lý Tự Trọng
|
Lý Tự Trọng (1915-1932)
, quê ở Xã Thạch Minh, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh có nhiều tích cực trong việc
liên lạc giữa Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội với Đảng bộ,
các cán bộ cách mạng ở Việt Nam đang hoạt động ở Trung Quốc; đồng thời tổ chức
chuyển thư từ tài liệu của Tổng bộ về nước. Ngày 8/2/1931 để bảo vệ đồng chí
đang diễn thuyết tuyên truyền cách mạng, Lý Tự Trọng đã bắn chết mật thám
Pháp và bị bắt. Anh bị chính quyền Pháp tại Sài Gòn kết án tử hình, anh bị xử
bắn khi mới 17 tuổi. Câu nói nổi tiếng của anh được các thế hệ thanh niên lấy
làm lẽ sống cho mình ”Con đường thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng
không có con đường nào khác”.
|
Lý Tự Trọng
|
126
|
Trần Bình Trọng
|
Trần Bình Trọng (1259-1285), danh tướng đời Trần, quê huyện
Thanh Liêm, Hà Nam, vốn họ Lê do có công lớn nên được ban họ vua; trong trận
đánh ở sông Thiên Mặc bị giặc Nguyên bắt dụ hàng, ông khảng khái nói: “Ta thà
làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” và chịu chết.
|
Trần Bình Trọng
|
127
|
Nguyễn Công Trứ
|
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), hiệu Ngộ Trai, Hy Văn, người làng Uy Viễn,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ giải nguyên (1819), làm tri huyện rồi đến
Tổng đốc, Thượng thư nhưng đầy chìm nổi, có lúc bị cách làm lính. Ông có tài
thao lược, có công khai hoang lấn biển vùng Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình; lập
ra các huyện mới: Tiền Hải, Kim Sơn… Ông còn là nhà thơ tài hoa, sáng tác nhiều
bài ca trù nổi tiếng.
|
Nguyễn Công Trứ
|
128
|
Nguyễn Trung Trực
|
Nguyễn Trung Trực (1838-1868), người phủ Tân An, tỉnh Đình Tường (nay
thuộc Long An); còn có tên Nguyễn Văn Lịch - một nông dân kiêm ngư nghiệp;
hăng hái chống Pháp khi chúng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ; từng đánh đắm chiếm
hạm Hy Vọng (Espérence) trên sông Vàm Cỏ (1861); được giao trấn thủ Hà Tiên.
Pháp chiếm xong Nam Kỳ, ông lập căn cứ ở Hòn Chuông tiếp tục chiến đấu cho đến
khi bị Pháp bắt và đem hành hình ở Rạch Giá. Ông để lại câu nói nổi tiếng:
“Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”.
|
Nguyễn Trung Trực
|
129
|
Hồ Nguyên Trừng
|
Hồ Nguyên Trừng
(1347-1446), quê ở Thanh Hóa còn có tên là Lê Trừng, hiệu Nam Ông. Dưới triều nhà
Trần, Hồ Nguyên Trừng từng giữ chức Thượng Lân tự, Tư đồ. Sau đó, được cử làm
Tả tướng quốc nhà Hồ, làm quan ở bộ Công khi nhà Minh xâm lược. Ông là
nhà kỹ thuật quân sự, được coi là ông tổ của nghề đúc súng thần công Việt
Nam. Ông cũng chỉ huy xây dựng nhiều công trình đồ sộ thời nhà Hồ. Ngoài
ra ông còn là nhà văn Việt Nam ở thế kỷ 15, là người mở đường
cho khuynh hướng viết về “người thực, việc thực” trong văn xuôi tự
sự Việt Nam.
|
Hồ Nguyên Trừng
|
130
|
Nguyễn Quốc Trị
|
Nguyễn Quốc Trị (1921 - 1967) quê ở làng Phượng Kỷ,
xã Đà Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Ông được
phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1952 tại Đại
hội chiến sỹ thi toàn quốc tổ chức tại Tuyên Quang.
|
Nguyễn
Quốc Trị
|
131
|
Đào Duy Từ
|
Đào Duy Từ (1572-1634), quê huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa, con một gia
đình nghệ sĩ tuồng vào Đàng Trong chống họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông giúp chúa
Nguyễn đắp lũy Thầy (gồm 2 lũy Trường Dực, Nhật Lệ) ở Quảng Bình, được coi là
Khai quốc công thần. Tác giả Hồ trướng khu cơ (sách binh pháp), tuồng Sơn Hậu,
khúc ngâm Ngọc Long Cương Văn…
|
Đào Duy Từ
|
132
|
Hàn Mặc Tử
|
Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ
Mỹ, huyện Đồng Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là tỉnh Quảng Bình). Hàn Mặc Tử làm
thơ sớm, 14 tuổi đã làm thơ Đường luật đăng báo với bút danh Minh Duệ Thị;
năm 1930 đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do một thi xã tổ chức. Cùng Chế
Lan Viên lập trường thơ Loạn. Ông sử dụng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ
Thanh rồi cuối cùng là Hàn Mặc Tử. Tác phẩm gồm có: Lệ Thanh thi tập, Gái
quê, Đau thương (còn gọi là Thơ điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu
duyên (gồm 02 vở kịch thơ: Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội)…Hàn Mặc Tử học tiểu
học ở Qui Nhơn, trung học ở Huế, có thời gian làm ở Sở Đạc điền (Qui Nhơn).
Năm 1934-1935 theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo (viết báo Công luận, phụ trách
trang văn báo Sài Gòn), về sau trở ra Qui Nhơn. Năm 1936 bị mắc bệnh phong,
phải vào nhà thương Qui Hòa và qua đời ở đó.
|
Hàn Mặc Tử
|
133
|
Ngô Gia Tự
|
Ngô Gia Tự
(1908-1935), quê ở Bắc Ninh, ông được Đảng kỳ bộ Bắc Kỳ chỉ định vào Tỉnh bộ
Bắc Ninh. Cuối năm 1928, ông vào Sài Gòn hoạt động. Ông được bầu làm Bí thư Xứ
ủy lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Kỳ. Cuối năm 1930, ông bị Pháp bắt tại
Sài Gòn, đến tháng 5/1933 thì chúng đày ông ra Côn Đảo.
|
Ngô Gia Tự
|
134
|
Nguyễn Tuân
|
Nguyễn Tuân (1910-1987), Nhà văn Việt Nam, người làng Mọc Thượng
Đình, sinh tại phố Hàng Bạc, nhưng sống với gia đình thời trẻ ở miền Trung. Làm
báo, viết văn, đóng phim từ năm 1930. Nổi tiếng với thể loại tùy bút mang
phong cách riêng độc đáo trước Cách mạng, trong kháng chiến và sau hòa bình.
Tham gia chống Pháp, đi Nam tiến; thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam; đi với bộ đội
dự các chiến dịch sông Thao, đường số 4. Ông để lại nhiều tác phẩm giá trị:
Thiếu quê hương, Vang bóng một thời, Tóc chi Hoài, Sông Đà; Hà nội ta đánh Mỹ
giỏi….
|
Nguyễn Tuân
|
135
|
Dã Tượng
|
Dã Tượng có công
trong sự nghiệp chống quân Nguyên - Mông cuối thế kỷ XIII. Ông là người nổi
tiếng trung thành, tận tình bảo vệ chủ tướng. Chính ông và Yết Kiêu có công lớn
lúc bắt Toa Đô. Trong cuộc chiến gay go, quân sĩ tản mác, ông đã bám trụ ở một
điểm đến khi chủ tướng gặp được Yết Kiêu mới thôi. Ông được Trần Quốc Tuấn
tin yêu. Theo truyền thuyết, Dã Tượng còn là ông tổ nghề rèn. Những làng rèn
đều thờ Dã Tượng tiên sư.
|
Dã Tượng
|
136
|
Tô Ngọc Vân
|
Tô Ngọc Vân (1906-1954), quê ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng
Yên; sinh ở Hà Nội, học khóa II trường Mỹ thuật Đông Dương (1925-1931), sau
trở thành giáo sư hội họa của trường. Ông tham gia hoạt động bán công khai
trong Mật trận Việt Minh, sau Cách mạng tháng Tám là một trong những họa sĩ đầu
tiên được vào vẽ Bác Hồ. Ông mất trong kháng chiến chống pháp, sau 28 năm cống
hiến cho hội họa Việt Nam hiện đại; để lại nhiều tác phẩm sơn dầu giá trị, được
lưu giữ trong các bảo tàng quốc gia và thế giới. Ông được truy tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh.
|
Tô Ngọc Vân
|
137
|
Chế Lan Viên
|
Chế Lan Viên (1920-1989), chính tên là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Nghệ
Tĩnh, sinh ở Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, học ở Qui Nhơn, đỗ trung học rồi dạy tư.
Nổi tiếng từ khi còn ít tuổi, với tập thơ Điêu tàn (1938), tiếp đó là tập văn
xuôi Vàng sao (1942). Từ Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ
và báo chí ở Liên khu IV rồi chuyển ra hoạt động ở Việt Bắc, tham gia nhiều
khóa Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách
bao gồm thơ, bút ký, lý luận - phê bình, với bút pháp sắc sảo, thông minh và
giàu chất trí tuệ. Ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật.
|
Chế Lan Viên
|
138
|
Lương Thế Vinh
|
Lương thế Vinh (1441-1496) quê ở xã Liên Bảo, Vụ Bản, Nam Định, ngay
từ bé Lương thế Vinh đã nổi tiếng “thần đồng làng Hương”. Ông có tài ngoại
giao, thường giúp cho nhà vua việc văn từ bang giao với nước ngoài. Lương thế
Vinh là một nhà giáo dục giỏi. Ông đã đề nghị nhà vua cải cách việc học hành
thi cử , đưa việc học xuống tận nông thôn, cần quan tâm đến cả việc dạy tri
thức và đạo đức. Đặc biệt, Lương thế Vinh rất chú trọng đến môn toán, đến việc
dạy toán và học toán. Ông đã biên soạn cuốn “Toán pháp đại thành” dày 160
trang, là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Bản cửu chương và bàn
tính của ông rất thông dụng trong công sở và trong nhân dân. Dân quý mến gọi
ông là Trạng Lường, tức là ông Trạng giỏi tính toán, đo lường. Lương Thế Vinh
còn có những công trình về âm nhạc nhờ bộ Đồng Văn chuyên hợp xướng và bộ Nhã
nhạc chuyên hòa tấu bằng nhạc khí, dùng trong quốc lễ và triều hội.
|
Lương Thế Vinh
|
139
|
Lưu Quang Vũ
|
Lưu Quang Vũ (1948-1988),
quê quán xã Thiệu Cơ, Hạ Hòa, Phú Thọ, ông là nhà thơ, nhà soạn kịch và nhà
văn hiện đại của Việt Nam. Năm 1978 ông làm biên tập viên Tạp chí sân khấu, bắt
đầu sáng tác kịch nói. Các tác phẩm của ông giàu tính hiện thực và nhân văn,
được dàn dựng thành công như: “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tôi và chúng
ta”, “Tin ở hoa hồng”… Lưu Quang Vũ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 (năm 2000) về nghệ thuật sân khấu.
|
Lưu Quang Vũ
|
140
|
An Dương Vương
|
An Dương Vương
tên thật là Thục Phán, là vị vua lập lên nược Âu Lạc và cũng là vị vua duy nhất
cai trị nhà nước này. Âu Lạc là nhà nược thứ hai trong lịch sử Việt Nam, sau
nhà nước Văn Lang đầu tiên của các vua Hùng. Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi thời gian ông làm vua kéo dài 50
năm (từ 257 TCN đến 208TCN). Căn cứ và Sử ký Tư Mã Thiên thì cho rằng An
Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại gần 30 năm (từ 208 TCN đến 179 TCN). Ông
là người xây thành Cổ Loa và phát triển thủy binh, cho chế tạo nhiều vũ khí lợi
hại, tạo lợi thế vững chắc cho Cổ Loa.
|
An Dương Vương
|
141
|
Hùng Vương
|
Theo truyền thuyết,
là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong
"Lĩnh Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long
Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc
Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con
theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương
đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được
18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép
thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược"(thời
Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại
Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều
Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 Tr.CN. "Đại Việt sử kí toàn
thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ
Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm
Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung
Quốc, tức năm 258 tcn. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 Tr.CN.
Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói
là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để
biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.
|
Hùng Vương
|
142
|
Kinh Dương Vương
|
Kinh Dương Vương
là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khoẻ phi thường.
Kinh Dương Vương thành lập nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất
(2879TCN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Thống,
Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó rời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Ông lấy con gái vua hồ
Động Đình tên là Thần Long, sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối
ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.
|
Kinh Dương Vương
|
143
|
Triệu Việt Vương
|
Triệu Việt Vương là miếu hiệu của Triệu Quang Phục, quê huyện Vĩnh Tường,
tỉnh Vĩnh Phúc, trước phò Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân (544), rồi tự mình lên
ngôi, xây căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên) chống quân xâm lược nhà
Lương; sau bị Lí Phật Tử đánh bại, chạy về đến cửa Đại An (Nam Định) thì mất.
|
Triệu Việt Vương
|
144
|
Nguyễn Xiển
|
Nguyễn Xiển (1907-1997) quê ở
thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Năm 1926, đỗ đầu tú tài Tây ở Hà
Nội và đoạt học bổng sang Pháp học Trường Đại học Toulouse và
đã đỗ cử nhân. Năm 1932, ông về nước, ra Hà Nội dạy học. Từ năm 1937 ông
chuyển sang ngành khí tượng thủy văn. Năm 1941 ông phụ trách Đài khí tượng
Phù Liễn Đông Dương tại tỉnh Kiến An hiện đại nhất Đông Nam Á lúc bấy
giờ. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử giữ chức Chủ tịch Uỷ
ban Hành chính Bắc bộ kiêm Giám đốc Nha khí tượng. Năm 1946, ông được
bầu làm Phó Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc
hội Việt Nam liên tục từ khoá I đến khoá VIII; Phó Chủ tịch Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội các khoá II, III, IV,V,VI; Phó Chủ tịch Quốc hội
khoá VII. Từ năm 1955 đến 1959, ông làm Bộ trưởng Cứu tế xã hội. Từ
năm 1960 đến 1976, ông làm Giám đốc Nha Khí tượng Việt
Nam, Chủ tịch Uỷ ban địa cầu quốc tế Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban khoa
học kỹ thuật nhà nước. Năm 1956, ông làm Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt
Nam và giữ chức này cho đến khi đảng này giải thể năm 1988. Ông còn là Ủy
viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa I, khóa II.
|
Nguyễn
Xiển
|
145
|
Nguyễn Viết Xuân
|
Nguyễn Viết Xuân (1933-1964)
quê ở thôn Thượng, xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 05/11/1952, Ông nhập ngũ và trở
thành chiến sỹ của C3 Đoàn 99. Sau đó Ông trở thành chiến sỹ trinh sát của
C832 D396. Ngày 18/11/1964, tại trận địa phòng không miền Tây tỉnh Quảng
Bình. Máy bay phản lực Mỹ nhằm vào trận địa ném bom. Anh em trong đơn vị chưa
quen bắn pháo nên có phần lúng túng, Ông đã kịp thời động viên: “Các đồng chí hãy vững vàng, dũng cảm nhìn thẳng máy bay mà bắn. Ngày
19/11/1964, Nguyễn Viết Xuân hi sinh nhưng lời hô bất hủ của Ông “Nhằm thẳng
quân thù, bắn!” còn vang vọng. Cảm phục trước tấm gương hy sinh
anh dũng, toàn quân đã noi gương Ông. Tổ quốc ghi nhớ công lao của Ông. Ngày
01/01/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang cho liệt Sĩ Nguyễn Viết Xuân.
|
Nguyễn Viết Xuân
|
146
|
Lê Anh Xuân
|
Lê Anh Xuân (1940 - 1968), là nhà văn, liệt sĩ. Anh từng học Đại học
tổng hợp Hà Nội sau đó, được cử đi học ở nước ngoài, nhưng đã xin được về quê
hương chiến đấu. Anh hy sinh ngày 25/5/1968 trong cuộc tổng tiến công tết Mậu
Thân 1968 ở vùng phụ cận Sài Gòn, ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước,
tỉnh Long An. Lê Anh Xuân có 3 tập thơ đã xuất bản "Tiếng gà
gáy", "Hoa dừa", "Trường ca Nguyễn Văn Trỗi", trong
đó có bài thơ nổi tiếng "Dáng đứng Việt Nam". Năm 2001, Lê Anh Xuân
được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật và được truy tặng
anh hùng lực lượng vũ trang năm 2011.
|
Lê Anh Xuân
|
147
|
Nguyễn Xí
|
Nguyễn Xí (1396-1465), là công thần khai quốc nhà Hậu Lê. Những
năm 1421 và 1422, Nguyễn Xí là một trong những tướng có công đánh tan cuộc tấn
công của quân Minh và quân Ai Lao, bảo vệ an toàn Bộ chỉ huy Lam Sơn và lãnh
tụ của Lam Sơn là Bình Định Vương Lê Lợi. Năm 1427, ông đã phối hợp với tướng
Lê Sát hạ thành, bắt sống các tướng Minh là Thôi Tụ, Hoàng Phúc, góp phần to
lớn vào việc đánh chặn viện binh giặc, tạo điều kiện cho đại quân hạ thành
Đông Quan, giải phóng đất nước vào năm 1427. Tháng 6.1460, ông cùng đại thần
Đinh Liệt, Lê Niệm phế truất Nghi Dân đưa Gia vương (Lê Thánh Tông) lên ngôi
hoàng đế. Nguyễn Xí được coi là một tướng tài từng phục vụ từ đời Lê Thái Tổ
cho đến Lê Thánh Tông, đem lại nhiều thắng lợi trên hai mặt trận quân sự và
chính trị.
|
Nguyễn Xí
|
148
|
Trần Tế Xương
|
Trần Tế Xương (1870-1907) tên thật Trần Duy Uyên, quê huyện Mỹ Lộc,
Nam Định; có tài văn thơ nhưng đi thi 8 lần mà chỉ đỗ Tú tài nên thường gọi là
Tú Xương; nổi tiếng với thơ trào phúng, là tác giả Vị Xuyên thi văn tập.
|
Trần Tế Xương
|
V. Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân, anh hùng lao động của tỉnh Tuyên Quang: 03 tên
TT
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Chiến công
|
Đơn vị công tác, chức vụ
|
Tên dự kiến đặt
|
1
|
Phạm Đình Chiến
|
Xã Đông Thọ, huyện Sơn Dương
|
Được tuyên dương anh hùng
LLVTND ngày 08/3/1995
|
Chiến
sỹ phòng cảnh sát hình sự công an tỉnh Hà Giang
|
Phạm Đình Chiến
|
2
|
Bàn Hồng Tiên
|
Xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa
|
Được tuyên dương anh hùng Lao
động năm 1967
|
Bí thư Đảng ủy xã Yên Nguyên, chủ nhiệm HTX Đồng Vàng,
xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa
|
Bàn Hồng Tiên
|
3
|
Triệu Tiến Xuân
|
Xã
Đức Xuân, huyện Na Hang
|
Được tuyên dương anh hùng
LLVTND ngày 20/9/1971
|
Pháo
thủ 1, A3, D1, E204, Bộ Tư lệnh pháo binh
|
Triệu Tiến Xuân
|
VI. Các đồng
chí nguyên lãnh đạo tỉnh Tuyên Quang qua các thời kỳ: 21 tên
TT
|
Họ và tên
|
Quê quán
|
Tóm
tắt thân thế sự nghiệp
|
Tên dự kiến đặt
|
1
|
Trương
Đình Dần 1910 - 2006
|
Xã Quỳnh Lưu, huyện Nho Quan,
tỉnh Ninh Bình
|
Tham gia hoạt động
cách mạng từ năm 1925. Năm 1929 gia
nhập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 3/2/1930, được kết nạp Đảng. Từ năm 1940 đến 1945 là Xứ ủy
viên dự khuyết Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1941 là Bí thư Ban Cán
sự Đảng Tuyên Quang. Đầu năm 1943, bị Pháp bắt giam. Năm 1945, sau khi thoát
khỏi nhà tù, tiếp tục làm Bí thư liên tỉnh, hoạt động ở
Ninh Bình, Tuyên Quang, Hưng Yên, Hải Dương, Hòa Bình. Từ năm 1946 đến
1953 lần lượt giữ các chức vụ: Đặc phái
viên Ủy ban hành chính Bắc bộ, Phó Chủ tịch Ủy ban hành
chính Hòa Bình, Phó Bí thư Tỉnh ủy Hòa Bình, Bí thư Nông hội tỉnh Hòa Bình, Đại biểu Quốc hội
khóa II.
Được Đảng và Nhà
nước trao tặng: Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân
chương Hồ Chí Minh, Huy hiệu 50, 60, 70 năm tuổi Đảng.
|
Trương
Đình Dần
|
2
|
Tạ
Xuân Thu 1916 - 1971
|
Xã Tây Giang, huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
|
Năm 1936 tham
gia hoạt động cách mạng. Năm 1940, bị thực dân Pháp bắt. Tháng 9.1944 vượt ngục
tham gia đội Cứu quốc quân và hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở 2 tỉnh
Thái Nguyên và Tuyên Quang. Tháng 3/1945, ông chỉ huy đội
Giải phóng quân chiến đấu giải phóng Tuyên Quang. Từ tháng 10/1945 đến năm 1950, giữ các trọng trách: Bí thư Tỉnh
ủy Tuyên Quang; Chính trị viên Khu 1; Chính ủy Khu 10; phụ trách Mặt
trận Tây Tiến; Ủy viên kiểm tra của Quân ủy Trung ương
và Thanh tra Quân đội. Từ năm 1950 đến 1953 là Phái viên quân sự của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sang giúp Chính phủ Lào, chỉ huy bộ đội tình nguyện Việt Nam ở Thượng Lào.
Từ năm 1954 đến 1955 là Tư lệnh kiêm Chính ủy Bộ đội Biên phòng, Chính ủy Sư đoàn 335. Từ
tháng 11/1953 đến 1963
là Chính ủy kiêm Cục trưởng Cục Phòng thủ bờ biển (đơn vị tiền
thân của Quân chủng Hải quân)
Năm 1961, được
phong hàm Thiếu tướng. Năm 1964 là Tư lệnh đầu tiên của
Quân chủng Hải quân. Từ năm 1964 đến năm 1971 là Chính ủy Quân chủng Hải quân, Binh chủng
pháo binh và Học viện quân sự. Đại biểu Quốc hội khóa I, II.
Được Đảng và Nhà
nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Quân công hạng nhất,
Huân chương Chiến công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân
chương Hồ Chí Minh.
|
Tạ
Xuân Thu
|
3
|
Nguyễn
Công Thành 1920 - 1957
|
Thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ,
huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên
|
Tham gia cách mạng
từ đầu năm 1936, hoạt động trong phong trào thanh niên
dân chủ ở tỉnh Nam Định. Năm 1939, chuyển sang hoạt động ở Thái Bình. Tháng 4
và tháng 5 năm 1945, hoạt động tại huyện Văn Giang, tỉnh
Bắc Ninh. Tháng 6/1945, lên hoạt động ở Tân Trào (Sơn
Dương, Tuyên Quang), làm huấn luyện viên tại Trường Quân chính kháng Nhật.
Tháng 8/1945, sau khi Tuyên Quang khởi nghĩa giành chính
quyền thành công được cử làm Bí thư Tỉnh bộ Việt Minh kiêm Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Cuối năm 1946, được cử làm Bí thư Tỉnh ủy
Tuyên Quang. Đến giữa năm 1948, chuyển công tác về Liên Khu 10. Từ
tháng 4/1950 đến tháng 3/1951 được điều động làm Bí thư Tỉnh ủy Hà
Giang. Từ năm 1951 đến năm 1957
Công tác tại báo Sự thật, Chánh Văn phòng Ban Tuyên huấn Trung ương kiêm
Chánh Văn phòng Bộ Tuyên truyền.
|
Nguyễn
Công Thành
|
4
|
Võ
Thanh Hòa 1921
|
Huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định
|
Năm 1936 tham
gia phong trào công khai. Năm 1938 tham gia Đoàn thanh
niên Dân chủ. Năm 1939 tham gia Đoàn thanh niên Phản đế.
Năm 1940, bị Pháp bắt và giam tại nhà giam Nam Định, Hà
Nội, Sơn La, Hòa Bình. Năm 1943, thoát khỏi nhà tù về hoạt động ở Nam Định
sau đó lên Vĩnh Yên lãnh đạo đấu tranh chống Quốc Dân Đảng.
Tháng 6/1946 được đề bạt Thường vụ Tỉnh ủy,
Chủ nhiệm tổng bộ Việt Minh. Năm 1947 là Bí
thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1948 là Bí thư Tỉnh ủy Tuyên
Quang. Năm 1949, công tác tại tuyên huấn Khu 3. Từ năm 1950
đến năm 1951 là Quyền Bí thư Tỉnh ủy
Hải Dương, Bí thư Tỉnh ủy Sơn Tây. Năm 1953 là Biên tập viên trong văn phòng Liên khu 3.
|
Võ
Thanh Hòa
|
5
|
Trần
Thanh Quang 1922-2017
|
Xã Nam Lợi, huyện Nam Trực, tỉnh
Nam Định
|
Từ năm 1938 đến
1939 tham gia Thanh niên Dân chủ, Thanh niên
Phản đế . Từ năm 1940 đén tháng 3/1945 bị bắt đầy ở Nam Định, Hỏa Lò, Sơn La, Chợ
Chu. Tháng 3/1945, vượt ngục Hỏa Lò tiếp tục tham gia
cách mạng.
Từ năm 1948 đến
năm 1949 là Bí thư Tỉnh ủy Nam Định, Bí
thư Tỉnh ủy Hà Nam kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hà Nam, Phó ban Tổ chức
khu 10. Từ năm 1949 đến 1955 là Bí
thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Năm 1955 Phụ trách công tác tuyên huấn tại khu Việt
Bắc. Từ năm 1956 đến 1971 là
Phó Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Chánh Văn
phòng kiêm thường trực đảng đoàn Bộ Y tế, Phó Chủ nhiệm Ủy ban bảo vệ Phụ nữ
và Trẻ em.
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương
Chiến công hạng nhất, Huy hiệu Vì sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo.
|
Trần
Thanh Quang
|
6
|
Nguyễn
Công Bình 1909 - 1959
|
Xã Lạc Nghiệp, tổng Trà Lũ, Phủ
Xuân Trường (nay là xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định)
|
Từ năm 1928 đến 1929 tham gia phong trào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội.
Tháng 3/1943, cùng với 11 đồng chí tổ chức vượt ngục ở
Chợ Chu trở về vùng núi Hồng hoạt động cách mạng. Năm 1945, ông chỉ
huy giải phóng quân chiếm huyện lị Chiêm Hóa, thị xã
Tuyên Quang. Ngày 22/8/1945 ông được bầu làm Chủ tịch Ủy
ban lâm thời tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1946 đến 1956 là
Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1953
đến 1956 là Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Sau đó được điều động sang công tác tại Khu tự trị Việt Bắc.
|
Nguyễn
Công Bình
|
7
|
Nguyễn
Xuân Việt 1914-1994
|
Xã Trường Yên, huyện Chương Mỹ,
thành phố Hà Nội
|
Tham gia cách mạng
năm 1938. Từ năm 1941 đến 1945
là Bí thư Chi bộ xã, cán bộ Việt Minh huyện, Ủy viên Ủy ban khởi
nghĩa huyện Chương Mỹ. Từ năm 1945 đến
năm 1946 là Ủy viên Thường vụ Huyện ủy,
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Chương Mỹ. Năm 1947 là Chính trị viên Huyện đội Chương Mỹ. Từ năm 1947 đến
năm 1948 là Phó ban Thanh tra tỉnh Hà Đông.
Từ năm 1948 đến năm 1950 là Phó Ban công tác đội văn phòng Trung ương Đảng. Từ năm 1950 đến năm 1953 là Tỉnh ủy
viên, Bí thư kiêm Chủ tịch huyện Sơn Dương - Tuyên Quang. Từ năm 1953 đến năm 1958 là Tỉnh ủy
viên, Bí thư nông hội, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch, Phó Chủ tịch Ủy ban kháng
chiến tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1958 đến năm 1961 là Quyền
Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Khu ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang. Từ năm
1961 đến năm 1962 là Trưởng ban
nghiên cứu thành phố Thái Nguyên - Việt Bắc. Từ năm 1962
đến năm 1976 là Bí thư Tỉnh ủy
Nghĩa Lộ.
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương
Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huân chương Lao động hạng ba, Huy hiệu
50 năm tuổi đảng.
|
Nguyễn
Xuân Việt
|
8
|
Trần
Hoài Quang 1922-1999
|
Xã Triệu Sơn, huyện Triệu Hải,
tỉnh Quảng Trị
|
Năm 1940, phụ
trách Thanh niên Phản đế Huế. Cuối năm 1940, bị bắt giam tại nhà lao Thừa
Phủ, Buôn Ma Thuột. Tháng 6/1945, về hoạt
động tại tỉnh Quảng Trị, huấn luyện dân quân du kích chuẩn bị cướp chính quyền.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông lần lượt làm Trung đoàn phó
kiêm Chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật, Ủy viên Ban Chính trị khu
C, Hiệu trưởng Trường Quân chính Lào - Việt Khu 4.
Từ năm 1946 đến 1948 là Phái viên chính trị Liên khu 4, Tỉnh ủy
viên tỉnh Thừa Thiên, phụ trách Quân sự, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến
huyện Hương Trà. Tháng 1/1949, ông bị
bắt giam vào nhà lao Thừa phù lần thứu 2. Tháng 2/1949, ông vượt
ngục về làm Phó ban Tuyên huấn tỉnh Thừa Thiên. Tháng 5/1949 làm Tham mưu phó Mặt trận Bình Trị Thiên. Tháng 2/1950 được cử làm phái viên quân sự của Bộ Quốc phòng sang hoạt động ở
Campuchia. Tháng 7/1950 được cử làm
Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Quân sự Campuchia kiêm Chánh Văn phòng Ban Ngoại vụ
Nam Bộ, Tham mưu trưởng, Trưởng phòng Tham chính Campuchia. Năm 1954 công tác
ở phòng Lào Miên Trung ương rồi Trung đoàn trưởng, Chính
ủy Trung đoàn E664. Từ năm 1959 đến năm 1976 là Phó Bí
thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Ủy viên Khu tự trị Việt Bắc, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên
Quang. Từ năm 1976 đến 1977 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên
Khen thưởng: Huy
hiệu 40 năm và 50 năm tuổi đảng, Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương
Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Chiến công hạng hai, Huân chương Chiến sỹ
vẻ vang hạng ba, Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Huy hiệu Vì tổ chức
và xây dựng công đoàn; Huy hiệu Vì sự nghiệp giao thông vận tải.
|
Trần
Hoài Quang
|
9
|
Lê
Hạnh 1924-2013
|
Xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, tỉnh
Hải Dương
|
Từ tháng 8/1945 đến tháng 5/1947 là
Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính xã Cẩm Chế. Từ tháng 5/1947 đến tháng 6/1949
là cán bộ Ban Tuyên huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện
Thanh Hà, phụ trách công tác Tuyên huấn; Cán bộ Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hải
Dương. Từ tháng 6/1949 đến
tháng 6/1953 là Bí
thư Huyện ủy Nam Sách, tỉnh Quảng Yên (nay thuộc Hải Dương). Từ tháng
6/1953 đến tháng 5/1955 là Trưởng ban Địch vận, Trưởng ban Chính trị
Tỉnh đội Quảng Yên, Phó Trưởng ban Chính trị liên tỉnh Quảng Yên - Hồng Gai.
Từ tháng 8/1955 đến tháng 12/1960 là Phó Trưởng ban Tổ
chức Quân khu Việt Bắc. Năm 1962, được phong hàm Thiếu
tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 4/1962, được điều động về làm Chính trị viên Tỉnh đội Tuyên Quang.
Từ tháng 6/1963 đến tháng 1/1976 là Ủy viên Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang khoá IV, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tuyên Quang khoá V, khoá VI. Từ
tháng 1/1976 đến tháng 4/1977 là Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, Chính ủy Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 5/1977 đến tháng 2/1979 là Bí thư Tỉnh ủy Hà
Tuyên. Từ tháng 3/1979 đến tháng 11/1983 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương
Chiến thắng hạng ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng ba, Huy hiệu 40, 50,
60, 65 năm tuổi Đảng.
|
Lê
Hạnh
|
10
|
Nguyễn
Văn Đức 1923-2002
|
Thành phố Hà Nội
|
Trước và trong
Cách mạng Tháng Tám, làm công tác liên lạc ở xã, chính
trị viên xã đội, chính trị viên tự vệ liên xã. Từ năm 1948
đến năm 1951 là Trưởng ban Tỉnh báo, Ủy viên Thường
vụ huyện ủy kiêm chính trị viên huyện đội Vĩnh Tường; Bí thư
Huyện ủy Than Uyên, Yên Bái. Từ năm 1951 đến năm 1953 là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị
viên Tỉnh đội Yên Bái. Tháng 4/1951 là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Yên Bái. Từ tháng 7/1951 đến năm 1953 là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chính trị
viên Tỉnh đội Yên Bái. Từ năm 1954 đến năm
1963 là Phó Bí thư, Quyền Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái.
Từ năm 1963 đến năm 1976 là Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn. Từ năm 1976 đến năm 1979 công tác tại Viện kiểm sát Nhân dân tối cao. Từ năm 1979 đến
năm 1986 là Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên. Tháng 9/1986, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội
vụ (nay là Bộ Công an). Năm 1989 được
phong quân hàm Thượng tướng.
Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa V, VI. Đại biểu Quốc hội khóa
VII. Được tặng thưởng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, Huân chương Độc lập hạng nhất
|
Nguyễn
Văn Đức
|
11
|
Phạm
Đình Dy 1928-2016
|
Xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hóa
|
Từ năm 1951 đến năm 1953 công tác tại Ty
giao thông Cao
Bằng.
Từ tháng 11/1953 đến tháng 8/1954 là cán
bộ kỹ thuật công trường cầu đường Thái Nguyên - Lạng Sơn thuộc Bộ Giao
Thông
Công chính. Từ tháng 11/1956 đến tháng 8/1958 phụ trách bộ
phận Kỹ thuật, kế hoạch Khu giao thông Lao- Hà -Yên. Từ tháng 9/1958 đến tháng 12/1960 là Trưởng Ty
Giao thông Hà Giang. Từ
tháng 2/1963 đến tháng 7/1964 là Phó
Ty giao
thông Hà Giang. Từ tháng 8/1964 đến tháng 7/1974 là Trưởng Ty
Giao thông Hà Giang. Từ tháng 7/1974 đến 3/1976 là Phó
Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang. Từ tháng 4/1976 đến năm 1978 là Tỉnh ủy viên, Trưởng Ty
Giao thông Hà Tuyên. Từ
tháng 7/1977 đến tháng 6/1985 là Ủy viên Ban Thường vụ
Tỉnh ủy, Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 7/1985 đến tháng 10/1986 là Ủy viên BTV
Tỉnh ủy,
Chủ
tịch UBND tỉnh Hà Tuyên. Từ tháng 10/1986 đến 8/1991 ông là Ủy viên
ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên.
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất,
Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, nhiều
Bằng khen của các cấp và bộ, ngành Trung ương.
|
Phạm
Đình Dy
|
12
|
Lê
Tùng 1919
|
Xã Lê Hồ, huyện
Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
|
Ông tham gia hoạt
động Việt Minh trước Cách mạng tháng Tám. Tham gia cướp chính quyền ở
huyện Kim Bảng.
Sau Cách mạng tháng Tám là Chính trị
viên Tỉnh đội cảnh vệ Hà Nam. Năm 1947 là Phó Bí thư huyện ủy
kiêm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Năm 1948 là Bí thư Huyện
ủy Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Năm 1950 là Bí thư Huyện ủy Sơn
Dương, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Năm 1951 là Tỉnh ủy
viên, phụ trách chi sở mậu dịch tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1952 đến
1955 là Tỉnh
ủy viên phụ trách công trường sửa chữa cầu đường Ty giao thông. Từ năm 1956 đến
1959 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tuyên Quang, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy.
Từ
1959 đến 1961 là Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Phó Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1961 đến 1963 là Khu ủy
viên, Chánh Văn phòng khu ủy tự trị Việt Bắc. Từ năm 1963 đến 1968 là Phó Bí thư Tỉnh
ủy Tuyên Quang.
|
Lê
Tùng
|
13
|
Lê
Văn Lương 1918
|
Làng Minh Tảo, huyện Thanh
Liêm, Hà Nam
|
Năm 1939 tham
gia cách mạng trong tổ chức Thanh niên Cứu quốc Hà Nội. Từ năm 1942 đến
năm 1945 bị thực dân Pháp bắt giam tại Hà Nội và Sơn La. Từ tháng 9/1945 đến
tháng 12/1945 là Chính trị viên chi đội Vệ quốc đoàn tỉnh Bắc Giang. Từ tháng
12/1945 đến tháng 8/1946 tham gia đại đội Nam Tiến ở Nha Trang, trung đoàn Bắc
Bắc. Tháng 9/1946 đến tháng 3/1947 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm
Tỉnh bộ Việt Minh. Từ tháng 4/1947 đến tháng 5/1948 là Tỉnh đội trưởng dân
quân Thái Nguyên. Từ tháng 5/1948 đến tháng 3/1950 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh
ủy, Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh. Từ tháng 3/1950 đến tháng 3/1951 là Trưởng
ban kiểm tra, Trưởng Ban tổ chức Tỉnh ủy Bắc Giang. Từ tháng 3/1951 đến tháng
3/1952 là Phó Văn phòng liên khu ủy Việt Bắc. Từ tháng 3/1953 đến tháng
2/1957 là Ủy viên Đảng đoàn ban nông hội, phụ trách nông dân Liên khu Việt Bắc.
Từ tháng 2/1957 đến năm 1959 là Giám đốc tài chính Khu tự trị Việt Bắc. Từ
năm 1960 đến tháng 2/1961 là Khu ủy viên, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính khu
tự trị Việt Bắc. Từ tháng 3/1961 đến tháng 12/1975 là Bí thư Tỉnh ủy Hà
Giang. Từ năm 1976 đến tháng 3/1977 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hà
Tuyên.
Được tặng thưởng:
Huân chương chiến công Hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và
nhiều bằng khen.
|
Lê
Văn Lương
|
14
|
Hồ
Ngọc Thu 1921-2005
|
Xã Võng La, huyện Đông Anh,
thành phố Hà Nội
|
Từ năm 1941 là
Bí thư Chi bộ thôn Võng La, xã Võng La. Trong và sau Cách mạng Tháng Tám ông đảm nhận các chức vụ: Bí thư Huyện đoàn Đông Anh; Tỉnh
ủy viên tỉnh ủy Vĩnh Phúc; Bí thư Huyện ủy Kim Anh; Bí
thư huyện ủy Yên Lãng; Bí thư huyện ủy Đa Phúc. Từ năm 1951
đến năm 1953 là Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Từ năm 1956 đến năm 1959 là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc. Từ
năm 1959 đến năm 1968 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Vĩnh Phúc.
Từ năm 1968 đến năm 1972 là Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban Hành chính tỉnh Vĩnh Phú. Từ
năm 1972 đến năm 1976 là Ủy viên thư ký Ủy ban thường vụ Quốc hội. Từ năm 1977 đến năm 1979 là
Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Hà Tuyên; Đại biểu Quốc hội các khóa III, IV.
Khen thưởng:
Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương
Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
|
Hồ
Ngọc Thu
|
15
|
Vũ
Tiến 1932-2003
|
Xã Tự Lập, huyện Yên Lãng, tỉnh
Vĩnh Phúc
|
Vào Đảng Cộng
sản Việt Nam 25.6.1950. Tham gia cách mạng từ năm 14 tuổi làm giao thông
liên lạc của Tỉnh bộ Việt Minh - Phúc Yên (1946), Thư ký chính trị Tiểu đoàn
39 Bắc Kạn (1948-1949); Cán bộ văn phòng Ban kinh tế Tỉnh
ủy Vĩnh Phúc (1949-1959); Kế toán nhà in báo Độc Lập (1950-1951); học tại
Trung Quốc (1951-1957); công tác tại ngành giáo dục tỉnh Hà Giang
(1957-1962); học tại Trường Đại học sư phạm Hà Nội (1962-1965); Chánh Văn
phòng Tỉnh ủy Hà Giang, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Hà Tuyên (1965-1986); Từ
năm 1983 là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Tuyên, Phó Bí
thư Thường trực Tỉnh ủy Hà Tuyên (1986-1991).
Khen thưởng: Huy
chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng
nhì, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
|
Vũ
Tiến
|
16
|
Vũ
Tiệp 1936-2014
|
Xã Hồng Lạc, huyện Sơn Dương,
tỉnh Tuyên Quang
|
Tháng 3/1950 tham gia cách mạng. Năm 1960 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ
tháng 7/1958 đến tháng 5/1960 là Bí thư Chi đoàn
Thanh niên kiêm Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Hồng Lạc, Ủy viên Ban Chấp hành Huyện đoàn Sơn Dương. Từ tháng 6/1960 đến tháng 6/1970 là Kế toán Văn phòng
Huyện ủy Sơn Dương; Huyện ủy viên, Phó trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Sơn Dương.
Từ tháng 7/1970 đến tháng 9/1976 là cán bộ Ban Tổ chức
Tỉnh ủy Tuyên Quang, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ tháng 11/1978 đến tháng 9/1986 là Phó Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên.
Từ năm 1983 đến năm 1991 lần lượt giữ các chức vụ Ủy viên Ban chấp
hành Đảng bộ tỉnh, Phó Bí thư Tỉnh ủy kiêm Trưởng ban Tổ chức Tỉnh
ủy Hà Tuyên, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Tuyên Quang.
Từ tháng 11/1993 đến tháng 7/1995 là Phó Bí thư Thường trực Tỉnh
ủy, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy.
Khen thưởng: Huân chương Độc lập
hạng nhì, Huân chương Kháng chiến hạng nhì, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng.
|
Vũ
Tiệp
|
17
|
Nguyễn
Thu Sơn 1919-1998
|
Xã Hồng Việt, huyện Hà Quảng,
tỉnh Cao Bằng
|
Năm 1936
tham gia phong trào Phản đế tại Cao Bằng. Năm 1941 sang Trung Quốc làm việc tại nhà in của báo Cờ giải phóng, sau học tại
Trường Hoàng Phố. Năm 1944, về nước giữ chức Tiểu đội trưởng tuyên truyền
giải phóng quân, tổ chức lực lượng tấn công thắng lợi tại đồn Phay Khắt và Nà
Ngần. Trong Cách mạng tháng Tám, tổ chức phát triển du kích tại 3 huyện Chợ Đồn,
Bạch Thông, Na Rì. Từ năm 1950 đến
1953 lần lượt giữu các chức vụ Phân khu trưởng Tây
Nguyên, Trung đoàn trưởng trung đoàn 210, 215, 216 (liên
khu 5); Tỉnh ủy viên, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng. Từ năm 1953
đến 1957 là Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội
Tuyên Quang. Từ năm 1957 đến 1960 là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Tuyên
Quang. Từ năm 1962 đến 1971
là Chánh án Tòa án nhân dân Khu tự trị Việt Bắc
Khen thưởng:
Huân chương Chiến thắng hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhì, Huân chương
Kháng chiến hạng nhất, Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng
|
Nguyễn
Thu Sơn
|
18
|
Triệu Kim Dung 1917-1989
|
Xã Vĩnh Lộc, huyện
Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang
|
Trước Cách mạng
tháng Tám, là Bí thư Thanh niên cứu quốc xã Vĩnh Lộc. Sau Cách mạng Tháng Tám, từ năm 1946-1949 là Bí thư Huyện bộ Việt
Minh, Thường vụ Huyện ủy Sơn Dương. Từ năm 1949 đến 1951 là Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính huyện Na
Hang. Từ năm 1951-1953 là Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy
ban kháng chiến huyện Hàm Yên. Từ năm 1953 đến 1955 Phụ
trách chi nhánh ngân hàng tỉnh. Từ năm 1956 đến
năm 1960 là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Trưởng ty Thương nghiệp. Từ năm 1960 đến 1964 là Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Từ năm
1965 đến 1969 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính
tỉnh. Từ năm 1970 đến 1976 là Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch
Ủy ban hành chính tỉnh.
Khen thưởng: Huân
chương Kháng chiến hạng nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy
hiệu 40 năm tuổi đảng và nhiều phần thưởng khác.
|
Triệu Kim Dung
|
19
|
Viên
Thế Nghiêu 1930
|
Xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh
Hà Giang
|
Từ năm 1946 đến
năm 1949 là giáo viên bình dân học vụ, cán
bộ y tế nông thôn tiểu khu Quản Bạ, nhân viên Văn phòng
Tỉnh ủy Hà Giang, Văn phòng Ban tuyên huấn Tỉnh ủy Hà
Giang. Từ năm 1950 đến 1953 là
cán bộ kiểm tra Huyện ủy Đồng Văn, Bí thư Chi bộ xã Niêm Sơn, Sủng
Là, Sà Phìn. Năm 1953 đến 1956
tham gia phát động quần chúng giảm tô, cải
cách ruộng đất. Từ năm 1956 đến 1958 là Ủy viên chấp
hành Tỉnh đoàn thanh niên Lao động Hà Giang. Từ năm 1959
đến 1961 là huyện ủy viên phụ trách
tuyên huấn Huyện ủy Đồng Văn. Từ năm 1962 đến 1965 là Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên. Từ năm
1965 đến 1966 là Ủy
viên Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch tỉnh. Từ năm 1967 đến
1969 là Ủy viên thư ký Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang. Từ năm 1969
đến 1970 là Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch
tỉnh. Từ năm 1971 đến 1976 là Chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh. Từ năm
1977 đến 1985 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh
Hà Tuyên. Khen thưởng: Huân chương Kháng chiến hạng ba
và nhiều phần thưởng cao quý khác.
|
Viên
Thế Nghiêu
|
20
|
Quan
Ngọc Thuyết 1929-2005
|
Xã Thượng Lâm, huyện Na Hang,
tỉnh Tuyên Quang
|
Từ năm 1948 đến 1949 là Phó Bí thư huyện đoàn. Năm 1950
là Chánh Văn phòng Ủy ban Liên Việt huyện Nà Hang. Từ
năm 1951 đến 1953 là Chánh
Văn phòng Huyện ủy, Bí thư Chi bộ cơ quan Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1953 đến 1955 là huyện ủy
viên, phụ trách tổ chức Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1956 đến 1957 cán bộ tổ chức, Ủy viên Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Phó Bí thư Đảng ủy
Dân-Chính-Đảng tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1957 đến 1958 là Phó Bí
thư, quyền Bí thư Huyện ủy Nà Hang. Từ năm 1959 đến 1963 là Bí thư Huyện ủy, kiêm Chủ tịch Ủy ban
Hành chính huyện Nà Hang. Từ năm 1963 đến 1965 là Ủy viên Ủy ban Hành chính tỉnh, Trưởng
ty Nông nghiệp. Từ năm 1965 đến 1969
là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh, Phó Trưởng ban Nông
nghiệp tỉnh Tuyên Quang. Từ năm 1969 đến 1979 là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ
tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Tuyên Quang, Hà Tuyên. Từ năm 1979 đến năm 1983 là Ủy
viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh Hà
Tuyên. Từ năm 1983 đến 1986 là Phó
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên. Từ năm 1986 đến 1990 là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tuyên
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập Hang Ba, Huân chương kháng chiến Hạng Ba, Huân chương
khansgc hiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng, Huy hiệu
50 năm tuổi Đảng.
|
Quan
Ngọc Thuyết
|
21
|
Hoàng Thừa 1938-1997
|
Xã Vĩnh Phúc,
huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.
|
Từ năm 1954 đến 1958 là cán bộ
Văn phòng huyện ủy Bắc Quang. Từ năm 1959 đến 1976 là Bí thư Huyện đoàn Bắc Quang; Bí thư Tỉnh
đoàn Hà Giang. Từ năm 1976 đến 1981
là Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Vị Xuyên,
Hà Tuyên. Từ năm 1981 đến 1988
là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kế
hoạch tỉnh. Từ năm 1989 đến 1991 là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà
Tuyên. Từ năm 1991 đến 1997
là Bí thư Tỉnh ủy Hà Giang, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội Hà
Giang khóa IX, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, VIII.
Khen thưởng:
Huân chương độc lập hạng Nhì, Huân chương kháng
chiến Hạng Nhất, huy chương vì giai cấp công nhân Việt Nam và nhiều
bằng khen khác.
|
Hoàng Thừa
|
VII. Danh
sách các tuyến đường, phố đã được đặt tên: 70 tên
STT
|
Tên
đường, phố
|
Ghi
chú
|
1
|
Nguyễn Tất Thành
|
|
2
|
Tân Trào
|
|
3
|
Quang Trung
|
|
4
|
17/8
|
|
5
|
Kim Bình
|
Theo
QĐ số 48 thuộc xã Tràng Đà
|
6
|
Bình Thuận
|
|
7
|
Chiến thắng Sông Lô
|
|
8
|
Nguyễn Văn Cừ
|
Theo
QĐ số 20 thuộc phường Minh Xuân
|
9
|
Phan Thiết
|
|
10
|
Nguyễn Văn Linh
|
|
11
|
Hà Huy Tập
|
|
12
|
Đinh Tiên Hoàng
|
|
13
|
Nguyễn Lương Bằng
|
|
14
|
Hoàng Quốc Việt
|
|
15
|
Trần Đại Nghĩa
|
|
16
|
Song Hào
|
|
17
|
Nam Cao
|
|
18
|
Hà Tuyên
|
|
19
|
Trần Nhân Tông
|
|
20
|
Hồng Thái
|
|
21
|
Tôn Thất Tùng
|
Theo
QĐ số 48 thuộc xã Ỷ La (cũ)
|
22
|
Hoa Lư
|
23
|
Lê Hồng Phong
|
|
24
|
Trần Hưng Đạo
|
|
25
|
Xuân Hoà
|
|
26
|
Ngô Quyền
|
|
27
|
Vũ Mùi
|
|
28
|
Lý Thánh Tông
|
|
29
|
Nguyễn Đình Chiểu
|
|
30
|
Hoàng Thế Cao
|
|
31
|
Bà Triệu
|
|
32
|
Hai Bà Trưng
|
|
33
|
Lê Quý Đôn
|
|
34
|
Hoàng Hoa Thám
|
|
35
|
Phan Đình Phùng
|
|
36
|
Nguyễn Thị Minh Khai
|
Theo
QĐ 48 thuộc P. Phan Thiết
|
37
|
Nguyễn Du
|
|
38
|
Ngô Gia Khảm
|
|
39
|
Trần Nhật Duật
|
|
40
|
Hồ Xuân Hương
|
|
41
|
Chu Văn An
|
|
42
|
Đường Lê Lợi
|
|
43
|
Đường Chiến Thắng sông Lô
|
Đường
liên xã, phường
|
44
|
Đường phố Lý Thái Tổ
|
|
45
|
Đường Trần Phú
|
|
46
|
Đường Nguyễn Trãi
|
|
47
|
Lý Nam Đế
|
|
48
|
Phan Chu Chinh
|
|
49
|
Văn Cao
|
|
50
|
Xã Tắc
|
|
51
|
Phan Bội Châu
|
|
52
|
Lương Sơn Tuyết
|
|
53
|
Tam Cờ
|
|
54
|
Đức Nghĩa
|
|
55
|
Nguyễn Bỉnh Khiêm
|
|
56
|
Thanh La
|
|
57
|
Mạc Đĩnh Chi
|
|
58
|
Trường Chinh
|
|
59
|
Nguyễn Chí Thanh
|
|
60
|
Kim Quan
|
|
61
|
Tiên Lũng
|
|
62
|
Tân Hà
|
Theo
QĐ 48 thuộc xã Ỷ La
|
63
|
Lê Duẩn
|
64
|
Minh Thanh
|
65
|
Tuệ Tĩnh
|
66
|
Phạm Văn Đồng
|
|
67
|
Tôn Đức Thắng
|
|
68
|
Phú Hưng
|
|
69
|
Lê Đại Hành
|
|
70
|
Bình Ca
|
|
Tổng cộng: 297 tên (trong đó
tên mới: 227; tên cũ: 70)
Quyết định 77/QĐ-UBND năm 2020 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Quyết định 77/QĐ-UBND ngày 19/03/2020 về Ngân hàng tên đường, phố và công trình công cộng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
3.373
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
info@ThuVienPhapLuat.vn
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|