ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
16/2007/QĐ-UBND
|
Đà
Lạt, ngày 16 tháng 4 năm 2007
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN XÃ HỘI HÓA ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC KINH
DOANH BẾN XE TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và
UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Luật Giao thông đường
bộ ngày 29/6/2001;
Căn cứ Quyết định số
08/2005/QĐ-BGTVT ngày 10/01/2005, Quyết định số 15/2007/QĐ-BGTVT ngày
26/03/2007 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành "Quy định
về bến xe ô tô khách";
Xét đề nghị của Giám đốc Sở
Giao thông vận tải,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1.
Phê duyệt đề án xã hội hóa đầu tư xây dựng và khai thác
kinh doanh bến xe trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng với những nội dung chủ yếu sau
đây:
I. Mục tiêu của
Đề án
1. xây dựng, quản lý hệ thống bến
xe trong toàn tỉnh đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn quy định tại Quyết định
08/2005/QĐ-BGTVT ngày 10/01/2005, Quyết định số 15/2007/QĐ-BGTVT ngày
26/03/2007 của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành "Quy định
về bến xe ô tô khách".
2. Đáp ứng được nhu cầu vận tải
ngày càng gia tăng, tạo điều kiện thuận lợi và giảm chi phí cho việc đi lại của
nhân dân.
3. Góp phần bảo đảm trật tự an
toàn giao thông, trật tự văn minh đô thị.
4. Kêu gọi, thu hút các thành phần
kinh tế tham gia đầu tư xây dựng, kinh doanh khai thác bến xe; tạo sự cạnh
tranh bình đẳng, lành mạnh, thực hiện tốt việc cung cấp dịch vụ vận tải đáp ứng
nhu cầu của nhân dân.
II. Cơ sơ
pháp lý
- Căn cứ Nghị định số
l08/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ về việc ban hành Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư.
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước
thu hồi đất.
- Quyết định số 08/2005/QĐ-BGTVT
ngày 10/01/2005 của Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành “Quy định về Bến xe ô tô khách”;
Quyết định số 15/2007/QĐ- BGTVT ngày 26/3/2007 của Bộ trưởng Bộ GTVT về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều, khoản trong “Quy định về Bến xe ô tô khách” ban hành
kèm theo Quyết định số 08/2005/QĐ-BGTVT ngày 10/01/2005 của Bộ trưởng Bộ GTVT.
- Quyết định số 09/2005/QĐ-BGTVT
ngày 10/01/2005 của Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành “Quy định về vận tải khách bằng
ô tô theo tuyến cố định và vận tải khách bằng ô tô theo hợp đồng ”
- Chỉ thị số 08/CT-TU ngày
23/6/2006 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường xây dựng, quản lý, khai thác
hệ thống giao thông vận tải tại Lâm Đồng.
III. Sự cần
thiết phải xã thực hiện xã hội hoá việc đầu tư xây dựng - kinh doanh khai thác
bến xe
1.Thực trạng hệ thống bến xe
trên địa bàn tỉnh:
a) Về cơ sở vật chất và trang
thiết bị phục vụ:
+ Tại thành phố Đà Lạt: Bến xe nội
thành Đà Lạt (tại ấp Ánh Sáng -phường 1): tổng diện tích 5000m2, diện
tích nhà làm việc 100m2 (nhà cấp 4), chưa có phòng bán vé, nhà chờ và các trang
thiết bị khác.
- Bến xe liên tỉnh Đà Lạt (tại số
1 Tô Hiến Thành - Đà Lạt): diện tích 17.800 m2, nhà làm việc diện tích 500m2
đạt tiêu chuẩn cấp 3, có phòng bán vé và nhà chờ cho hành khách đi xe, có hệ thống
thông tin hướng dẫn và điều hành hoạt động trên bến nhưng vẫn còn thiếu các tiện
nghi cần thiết.
- Ngoài 2 bến xe trên, thành phố
Đà Lạt đã quy hoạch 27 bãi đậu đỗ xe ô tô các loại với tổng diện tích khoảng
39.000m2 (theo Quyết định số 451/QĐ-UB ngày 08/05/2003 của UBND TP
Đà Lạt) . Hiện đã xây dựng và đưa vào hoạt động bãi đỗ xe ngầm tại trường Nguyễn
Thị Minh Khai, diện tích 2.633m2.
- Bến xe tạm tại số 5 Lữ Gia Đà
Lạt do Cty TNHH Thành Bưởi đầu tư, diện tích 500m2 đã đưa vào hoạt động tháng
9/2006.
- Tại các xã xa trung tâm thành
phố như Tà Nung, Xuân Thọ, Xuân Trường, mặc dù đã có tuyến vận tải khách cố định
nhưng chưa có bến xe.
+ Thị xã Bảo Lộc: Bến xe nội tỉnh
(tại giao lộ Hà Giang – Hoàng Văn Thụ): diện tích 8.180 m2, chưa xây dựng nhà
làm việc và đầu tư các trang thiết bị cần thiết.
- Bến xe liên tỉnh (tại số 284
Trần Phú - phường Lộc Sơn): diện tích 4000m2, nhà làm việc diện tích 200m2
đạt tiêu chuẩn cấp 4, có phòng bán vé, có hệ thống thông tin hướng dẫn và điều
hành hoạt động trên bến nhưng không đầy đủ, còn thiếu nhà chờ và các trang thiết
bị phục vụ cần thiết.
- Tại một số xã xa trung tâm thị
xã chưa có bến xe.
+ Huyện Đức Trọng: Bến xe Trung
tâm huyện: đã qui hoạch, phê duyệt dự án đầu tư đạt tiêu chuẩn bến xe loại 3 với
tổng mức đầu từ 5,2 tỷ đồng, tuy nhiên đến nay vẫn chưa triển khai xây dựng. Hiện
nay đang sử dụng bến xe tạm.
- Tại các trung tâm xã và cụm xã
đã có tuyến vận tải khách cố định nhưng chưa có bến xe như Tà In, Đà Loan . . .
+ Huyện Lâm Hà: Bến xe Trung tâm
huyện hiện tại không có mặt bằng, chỉ có một gian nhà làm việc tạm để giao dịch
và xác nhận sổ nhật trình cho xe khách chạy tuyến cố định.
- Một số trung tâm xã và cụm xã
có tuyến vận tải khách cố định nhưng chưa có bến xe như : Phú sơn, Phi Liêng,
Sình Công. . .
+ Huyện Đơn Dương: Đã quy hoạch
bến xe trung tâm huyện tại thôn Thạnh Nghĩa - Thạnh Mỹ, diện tích 6.000m2,
chưa đầu tư xây dựng.
- Bến xe khu vực thị trấn Dran
hiện tại mặt bằng đã bị thu hẹp để làm nơi buôn bán, diện tích dành cho đỗ xe
còn khoảng 500m2, không có văn phòng làm việc và trang thiết bị.
- Tại các khu vực khác chưa có bến
xe.
+ Huyện Di Linh: Bến xe trung
tâm huyện tại khu vực trung tâm thị trấn, diện tích 2.529m2, sân bãi
đổ đá cấp phối, có nhà làm việc nhưng đã xuống cấp.
- Một số bến tại các xã và trung
tâm cụm xã như Tân Thượng, Hoà Ninh, Hòa Nam, Sơn Điền, Gia Bắc đã lập qui hoạch
nhưng chưa đầu tư xây dựng.
+ Huyện Đạ Huoai: Bến xe trung
tâm huyện tại khu vực trung tâm thị trấn Madaguoi, diện tích 1.700m2,
mặt sân đất, chưa có nhà làm việc. Hiện nay đang quy hoạch lại khu vực này
thành trung tâm thương mại và bến xe ô tô khách. Dự kiến kêu gọi đầu tư theo
hình thức đổi đất lấy cơ sở hạ tầng.
- Tại các khu vực khác chưa có bến
xe.
+ Huyện Đạ Tẻh: Hiện tại bến xe
trung tâm huyện được bố trí tạm thời tại khu vực chợ cũ, diện tích 2.611m2,
chưa có văn phòng làm việc.
- Tại các khu vực khác chưa có bến
xe.
+ Huyện Cát Tiên: Bến xe Trung
tâm huyện tại trung tâm xã Phù Mỹ, diện tích 5.408m2, hiện tại chỉ mới
đầu tư san lấp mặt bằng.
- Đã quy hoạch 2 bến xe Trung
tâm cụm xã là bến xe Gia Viễn, diện tích 3.139m2 và bến xe Phước Cát
1, diện tích 3.000m2 nhưng chưa đầu tư xây dựng.
+ Huyện Bảo Lâm: Bến xe Trung
tâm huyện có diện tích 3. 375m2, đạt tiêu chuẩn bến xe loại 5, hiện
tại chỉ mới có sân bãi rải sỏi đồi và nhà làm việc cấp 4
- Các khu vực khác chưa có bến
xe.
+ Huyện Lạc Dương: Theo quy hoạch
chi tiết trung tâm thị trấn Lạc Dương dự kiến xây dựng bến xe Trung tâm thị trấn
Lạc Dương diện tích 1 ha; xây dựng bến xe trung tâm cụm xã tại xã Đa Nhim diện
tích 0,5 ha.
+ Huyện Đam Rông: Là huyện mới
thành lập, đang trong giai đoạn quy hoạch xây dựng nên chưa có bến xe. Hiện tại
đang sử dụng tạm một địa điểm tại xã Đạ Tông để đậu đỗ xe.
b) Tình hình đầu tư và xây dựng
bến xe trong những năm qua: Trong nhiều năm qua, nhìn chung việc đầu tư xây dựng
và nâng cấp cải tạo bến xe tại các địa phương còn rất hạn chế.
Trong 4 năm gần đây, tổng giá trị
vốn đầu tư cho việc xây dựng, nâng cấp bến xe trên địa bàn toàn tỉnh chỉ khoảng
1,7 tỷ đồng.
- Bến xe Đà Lạt:
+ Làm sân bãi, hàng rào bến xe nội
thành : 178.000.000đ
+ Xây dựng nhà khách bến xe Liên
tỉnh : 1.376.000.000đ
- Bến xe Bảo Lộc: làm hàng rào
và sửa chữa sân bãi đậu xe
- Bến xe Bảo Lâm: được xây được
xây dựng và đưa vào sử dụng năm 2005 với giá trị 30.000.000 đ.
- Bến xe Đức Trọng: duy tu bảo
dưỡng sân bãi giá trị 35.000.000đ
Ngoài ra, các bến xe khác hầu
như không được đầu tư xây dựng, cải tạo nâng cấp.
c) Tình hình tổ chức, quản lý và
khai thác bến xe:
-Về tổ chức: Thực hiện Quyết định
số 99/2002/QĐ-UB ngày 08/8/2002 của UBND tỉnh về việc "Chuyển giao các bến
xe, trạm xe thuộc Xí nghiệp bến xe Lâm Đồng về UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc
và thành phố Đà Lạt quản lý ", UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố
Đà Lạt đã thành lập Ban quản lý bến xe theo mô hình đơn vị sự nghiệp trực thuộc
UBND các huyện, thị, thành phố quản lý. Riêng huyện Đạ Huoai và huyện Bảo Lâm
thành lập Ban quản lý bến xe trực thuộc Đội quản lý công trình đô thị.
- Về quản lý, khai thác :
+ Về quản lý: Ban quản lý các bến
xe hiện nay thực hiện công tác quản lý, điều hành tại bến xe, cụ thể như: điều
hành hoạt động của xe theo biểu đồ đã được duyệt, kiểm tra an toàn vận chuyển,
ký xác nhận sổ nhật trình. Việc quản lý điều hành hoạt động của các Ban quản lý
bến xe cơ bản đảm bảo đúng các quy định của Bộ GTVT; tuy nhiên, có lúc, có nơi
vẫn còn xảy ra tình trạng tùy tiện trong việc thực hiện biểu đồ chạy xe, xác nhận
sổ nhật trình khống hoặc xác nhận không đúng đối tượng, để xảy ra tình trạng
cán bộ, nhân viên gây nhũng nhiễu, phiền hà cho chủ xe .
+ Về khai thác: theo quy định của
Bộ GTVT về chức năng khai thác bến xe là của doanh nghiệp khai thác bến xe
nhưng hiện tại, Ban quản lý bến xe trực tiếp thực hiện chức năng này. Hiện nay,
hầu hết các Ban quản lý bến xe chỉ mới khai thác dịch vụ tổ chức bán vé do
doanh nghiệp vận tải ủy thác, thu phí đậu đỗ và ra vào bến, cho thuê quầy bán
vé, . . . còn các dịch vụ khác chủ yếu áp dụng hình thức khoán và cho thuê mặt
bằng. Tuy vậy, việc kinh doanh khai thác các dịch vụ kèm theo chỉ có ở những bến
xe lớn, có vị trí thuận lợi.
2. Đánh giá chung :
a) Ưu điểm: Kể từ khi các bến xe
được chuyển từ mô hình Doanh nghiệp nhà nước (Xí nghiệp bến xe Lâm Đồng) sang
mô hình Đơn vị sự nghiệp (Ban quản lý bến xe) trực thuộc UBND các huyện, thị,
thành phố quản lý, Ban quản lý bến xe các địa phương đã có nhiều cố gắng trong
việc duy trì hoạt động phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và phục vụ hoạt động
của các doanh nghiệp kinh doanh khai thác tuyến vận tải khách cố định; đồng thời
có nhiều đóng góp vào việc đảm bảo trật tự xã hội, trật tự ATGT và phát triển
kinh tế xã hội của địa phương.
- Nhiều bến xe có kết quả doanh
thu năm sau cao hơn năm trước và tự trang trải được các khoản chi thường xuyên.
- Các Ban quản lý bến xe đã phối
hợp tốt với các ban ngành chức năng trong việc quản lý hoạt động vận tải để
nâng cao doanh thu cho đơn vị; trong các dịp lễ, tết và kỳ thi đại học đã phối
hợp với đơn vị vận tải để giải quyết tốt nhu cầu đi lại của nhân dân không để ứ
đọng hành khách; làm tốt công tác huy động, trưng dụng xe ô tô để phục vụ nhiệm
vụ chính trị, an ninh quốc phòng khi cần thiết.
b) Những tồn tại, yếu kém:
- Về quy hoạch bến xe: thực hiện
kế hoạch số 577/KH-UB ngày 18/02/2004 của UBND tỉnh Lâm Đồng về thực hiện Chỉ
thị 01/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động vận tải
khách liên tỉnh bằng xe ô tô, công tác qui hoạch và đầu tư xây dựng bến xe đã
được đặt ra nhưng kết quả thực hiện còn rất hạn chế. Nguyên nhân là do ngành
giao thông vận tải và chính quyền địa phương còn thiếu quan tâm đến công tác
này.
- Về cơ sở vật chất, trang thiết
bị: hầu hết các bến xe dang khai thác và sử dụng trên địa bàn đều không đảm bảo
tiêu chuẩn theo quy định tại Quyết định số 08/2005/QĐ-BGTVT của Bộ trưởng Bộ
GTVT, cụ thể như :
+ Một số bến xe đạt tiêu chuẩn về
diện tích, có nhà làm việc nhưng nhà chờ cho hành khách và phòng vé không có,
hoặc có nhưng không đủ diện tích và thiếu các tiện nghi cần thiết như: bến xe
Đà Lạt, Bảo Lộc, Bảo Lâm, Di Linh.
+ Một số bến xe chỉ mới có sân
bãi đậu xe và nhà làm việc tạm như: bến xe Đạ Huoai, Cát Tiên, Đạ Tẻh.
+ Các bến xe còn lại thì chỉ mới
quy hoạch chưa được đầu tư và nhiều nơi chưa có quy hoạch bến xe.
- Về mô hình tổ chức và quản lý
khai thác :
+ Về mô hình tổ chức: Mô hình
Ban quản lý bến xe hiện nay là đơn vị sự nghiệp có thu (tự trang trại kinh phí)
không còn phù hợp với quy định quản lý chuyên ngành và gặp khó khăn trong việc
huy động vốn đầu tư.
+ Bộ máy quản lý cồng kềnh, sử dụng
lao động kém hiệu quả, trình độ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ phần lớn không có
nghiệp vụ quản lý vận tải, công tác quản lý điều hành còn mang nặng tính hành
chính quan liêu, có lúc có nơi còn nhũng nhiễu, tiêu cực, làm trái quy định về
quản lý chuyên ngành, gây khó khăn cho các đơn vị kinh doanh vận tải, không
khuyến khích và tạo điều kiện cho doanh nghiệp vận tải hoạt động kinh doanh
lành mạnh.
+ Trong sản xuất kinh doanh còn
thiếu sự năng động sáng tạo, chưa quan tâm đến việc đầu tư để nâng cao chất lượng
phục vụ khách đi xe và phục vụ doanh nghiệp vận tải để thu hút xe và khách vào
bến mà chỉ dựa vào các biện pháp hành chính để ràng buộc xe vào bến; đây là một
trong những nguyên nhân làm nảy sinh tình trạng “bến cóc”, “xe dù” gây mất trật
tự trong hoạt động kinh doanh vận tải khách.
+ Ngoài ra, ở những địa phương bến
xe có qui mô nhỏ, lưu lượng xe ít nhưng vẫn phải tổ chức ra Ban quản lý bến xe
để điều hành hoạt động của bến thì lại gặp không ít khó khăn về kinh phí hoạt động
vì nguồn thu không đủ chi, phải sử dụng ngân sách huyện để trả lương.
3. Các chủ trương, chính sách
của nhà nước khuyến khích đầu tư xây dựng và khai thác kinh doanh bến xe:
- Đầu tư xây dựng bến xe, nơi đỗ
xe là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư, thuộc Danh mục B, phụ lục I, Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ về ban hành “Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư”
- Các huyện và thị xã Bảo Lộc
thuộc tỉnh Lâm Đồng là địa bàn được ưu đãi đầu tư, thuộc phụ lục II, Nghị định
108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ về ban hành “ Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật đầu tư”
- “Nhà nước khuyến khích các
thành phần tham gia đầu tư xây dựng mới hoặc đầu tư nâng cấp, cải tạo các bến
xe đang khai thác” - theo Điều 7 của “qui định về bến xe ô tô khách” ban hành
kèm theo Quyết định số 08/2005/QĐ-BGTVT của Bộ trưởng Bộ GTVT.
- Bến xe là cơ sở hạ tầng giao
thông đô thị, hoạt động mang tính phục vụ công cộng và là nơi để thực hiện công
tác quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vận tải khách theo tuyến cố định;
vì vậy chỉ thực hiện xã hội hoá việc đầu tư, xây dựng và kinh doanh khai thác bến
xe , còn công tác quản lý nhà nước phải do cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành thực hiện.
4. Sự cần thiết phải thực hiện
xã hội hoá việc đầu tư xây dựng và kinh doanh khai thác bến xe:
- Thực hiện xã hội hoá việc đầu
tư xây dựng và kinh doanh khai thác bến xe nhằm khắc phục những tồn tại, yếu
kém đã phân tích như nêu trên.
- Khả năng đầu tư từ nguồn ngân
sách nhà nước để xây dựng mới và cải tạo nâng cấp hệ thống bến xe là rất hạn chế.
- Việc xã hội hoá đầu tư khai
thác bến xe không chỉ giảm gánh nặng cho ngân sách mà còn góp phần thay đổi cơ
bản phương thức hoạt động điều hành mang nặng tính hành chính quan liêu và có
nhiều yếu kém như nêu ở trên.
- Theo Quyết định số
09/2005/QĐ-BGTVT ngày 10/01/2005 của Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành "Quy định
về vận tải khách bằng ô tô theo tuyến cố định và vận tải khách bằng ô tô theo hợp
đồng" thì điều kiện mở tuyến vận tải khách phải có bến xe đảm bảo tiêu chuẩn
theo quy định nhưng phần lớn các bến của các địa phương đều không đảm bảo tiêu
chuẩn hoặc không có bến xe nên việc mở tuyến vận tải khách cố định gặp nhiều
khó khăn.
a) Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư
xây dựng và nâng cấp hệ thống bến xe:
- Bến xe trung tâm huyện, thị,
thành phố :
+ Vốn đầu tư nâng cấp bến xe Đà
Lạt để đạt tiêu chuẩn bến xe loại 1 là 05 tỷ đồng .
+ Vốn đầu tư nâng cấp bến xe Bảo
Lộc để đạt tiêu chuẩn bến xe loại 1 là 07 tỷ đồng.
+ Vốn đầu tư xây dựng mới bến xe
Đức Trọng đạt tiêu chuẩn bến xe loại 2 là 05tỷ.
+ Vốn đầu tư xây dựng bến xe loại
3 cho 9 bến xe Trung tâm các huyện Lâm Hà, Đơn Dương Di Linh, Bảo Lâm, Đạ
Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Lạc Dương và Đam Rông là 27 tỷ đồng (mỗi bến khoảng 3
tỷ đồng).
- Bến xe Trung tâm cụm xã và xã
:
+ Vốn đầu tư xây dựng bến xe loại
4 cho khoảng 18 bến xe Trung tâm cụm xã, thị tâm là 18 tỷ đồng (mỗi bến 1 tỷ đồng).
+ Vốn đầu tư xây dựng bến xe loại
5 cho khoảng 50 bến xe cấp xã 10 tỷ đồng (mỗi bên 200 triệu).
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho hệ
thống bến xe trong toàn tỉnh trong những năm tới ước khoảng 72 tỷ đồng.
b) Khả năng kêu gọi đầu tư từ
các thành phần kinh tế:
- Thực tế hiện nay các doanh
nghiệp vận tài có số lượng xe lớn và có khả năng tài chính đều có nhu cầu đầu
tư xây dựng bến xe để khép kín quy trình vận chuyển nâng cao chất lượng phục vụ
và thuận lợi cho việc xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp. Đối với các bến.
xe cấp huyện, xã, các HTX vận tải và doanh nghiệp tư nhân cũng muốn được đầu
tư, khai thác bến xe để tăng thêm ngành nghề kinh doanh và tận dụng mặt bằng sẵn
có của bến xe để làm trụ sở doanh nghiệp và mở mang ngành nghề kinh doanh. Đồng
thời, một số doanh nghiệp tư nhân. hộ gia đình có đất đai đủ diện tích và vị
trí thuận lợi để làm bến xe cũng sẵn sàng góp vốn bằng giá trị đất hoặc trực tiếp
đầu tư để xây dựng khai thác bến xe.
- Tại một số địa phương trong nước
đã triển khai có hiệu quả việc huy động các thành phần kinh tế đầu tư khai thác
bến xe.
IV. Giải pháp
thực hiện
1. Quy hoạch hệ thống bến xe
và công bố quy hoạch:
a) Mục tiêu quy hoạch:
- Rà soát, điều chỉnh quy hoạch
các bến xe hiện có cho phù hợp với nhiệm vụ định hướng phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.
- Quy hoạch tổng thể mạng lưới bến
xe trên toàn tỉnh và qui hoạch xây dựng chi tiết đối với từng bến xe ở các địa
phương.
b) Quy hoạch bến xe phải đảm bảo
một số tiêu chí sau :
- Về vị trí: bến xe phải nằm ở
khu trung tâm (hoặc gần khu trung tâm dân cư hoặc nơi tập hợp những đầu mối
giao thông quan trọng. Mặt khác, vị trí xây dựng bến xe có tính quyết định
trong việc kêu gọi đầu tư, vì vậy, vị trí quy hoạch bến xe cần phải đặc biệt
quan tâm đến yếu tố thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân và hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp vận tải .
- Về diện tích: với định hướng bến
xe là nơi kinh doanh dịch vụ tổng hợp nên ngoài việc phải đảm bảo diện tích
theo tiêu chuẩn bến xe theo quy định của Bộ GTVT cần bố trí thêm diện tích để
phát triển kinh doanh các ngành nghề khác như kho bãi, trạm xăng dầu, chợ đầu mối,
lưu trú . . . Đối với bến xe cấp huyện, cấp xã do lưu lượng xe ra vào ít, khó
có khả năng tổ chức hệ thống vận tải công cộng bằng xe buýt thì nên gắn kết bến
xe với trung tâm thương mại, dịch vụ khác.
c) Cơ sở xây dựng quy hoạch :
- Căn cứ quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội toàn tỉnh và của từng địa phương đã được phê duyệt.
- Căn cứ Quyết định số
119/2001/QĐ-UB ngày 20/11/2001 của UBND tỉnh phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát
triển giao thông vận tải tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2001-2010 và định hướng đến
năm 2020.
- Căn cứ Đề án rà soát, bổ sung
Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng
đến năm 2020 đang thực hiện và chuẩn bị hoàn tất.
d) Công tác lập quy hoạch:
- Sở GTVT Lâm Đồng chủ trì phối
họp với UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt tiến hành lập quy hoạch
tổng thể hệ thống bến xe trong toàn tỉnh trên cơ sở Đề án rà soát , điều chỉnh
Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng
đến năm 2020.
- UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc,
thành phố Đà Lạt lập quy hoạch xây dựng chi tiết các bến xe trên địa bàn trình
UBND tỉnh phê duyệt.
đ) Kinh phí thực hiện quy hoạch:
- Về quy hoạch tổng thể hệ thống
bến xe trên toàn tỉnh: Sử dụng kinh phí thực hiện Đề án rà soát , điều chỉnh
Quy hoạch giao thông vận tải tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2006 -2010 và định hướng đến
năm 2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt tại quyết định số 3850 /QĐ-UB ngày 22
tháng 10 năm 2004 , trong trường hợp cần thiết được bổ sung kinh phí để việc quy
hoạch đảm bảo yêu cầu đề ra.
- Quy hoạch xây dựng chi tiết
các bến xe trên địa bàn các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt: UBND các địa
phương tự lo kinh phí để thực hiện.
e) Công bố quy hoạch: Quy hoạch
xây dựng đối với từng bến xe sau khi được UBND tỉnh phê duyệt thì tiến hành
công bố quy hoạch trên phương tiện thông tin đại chúng và đưa vào danh mục dự
án kêu gọi đầu tư .
2. Tách chức năng quản lý nhà
nước và chức năng khai thác tại bến xe:
- Sở GTVT giao cho phòng, ban
chuyên môn hiện có của Sở trực tiếp thực hiện chức năng quản lý bến xe theo
''qui định về bến xe ô tô khách" ban hành kèm theo Quyết định số
08/2005/BGTVT của Bộ trưởng Bộ GTVT (bổ sung biên chế để thực hiện việc kiểm
tra hoạt động các bến xe khách trên địa bàn toàn tỉnh, không thành lập thêm
phòng, ban chuyên môn để đảm nhận công việc này).
- Sau khi bến xe đã được giao
cho nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh, khai thác bến xe thì tiến hành giải thể
các Ban quản lý bến xe hiện có.
3. Các phương án xã hội hóa đầu
tư xây dựng và kinh doanh khai thác bến
a) Đối với các bến xe đang hoạt
động, phù hợp qui hoạch, đã có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ (như bến xe liên
tỉnh Đà Lạt, Bãi đậu xe ngầm trung tâm thành phố Đà Lạt, bến xe Bảo Lộc ...):
- Đấu thầu cho thuê mặt bằng và
cơ sở vật chất hiện có tại bến xe, nộp ngân sách tiền thuê hàng năm và sau 05
năm điều chỉnh lại giá cho thuê; hoặc đấu thầu bán cơ sở vật chất hiện có tại bến
xe và giao quyền sử dụng mặt bằng có thời hạn nhất định, nộp tiền vào ngân sách
một lần. Xác định đây là phương án lựa chọn ưu tiên để thực hiện.
- Tiến hành cổ phần hoá theo định
hướng cổ phần hoá đơn vị sự nghiệp đã đề ra trong Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày
15/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ nhưng Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi
phối hoặc bán cho người lao động tại đơn vị để thành lập công ty cổ phần.
b) Đối với các bến xe còn lại sẽ
hình thành theo qui hoạch:
- Nhà nước tiến hành thu hồi đất,
bồi thường giải toả, sau đó đấu thầu cho thuê hoặc giao đất để đầu tư.
- Đối với bến xe có doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế muốn đầu tư và đăng ký, Nhà nước thu hồi đất,
doanh nghiệp thực hiện bồi thường. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính trong các
trường hợp thuê hoặc giao quyền sử dụng đất thực hiện theo Luật Đất đai và các
Nghị định hướng dẫn hiện hành của Chính phủ.
- Trường hợp có từ 02 nhà dầu tư
trở lên quan tâm và đăng ký đầu tư thì tổ chức đấu thầu.
4. Điều kiện ràng buộc nhà đầu
tư về sử dụng lao động chuyển tiếp tại các Ban Quản lý bến xe hiện có:
Nhà đầu tư phải tiếp tục hợp đồng
sử dụng lao động trong thời hạn tối thiểu là 01 năm để tạo điều kiện ổn định đời
sống của người lao động do thay đổi cơ chế quản lý.
5. Các cơ chế chính sách khuyến
khích đầu tư :
a) Đơn vị đầu tư bến xe được hưởng
các ưu đãi đầu tư, ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, tiền sử
dụng đất, thuê đất và thuế sử dụng đất theo quy định tại Điều 24, 25, 20 mục I,
chương IV, Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính Phủ về
"Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư"
và các quy định hiện hành của pháp luật về đất đai và về thuế.
b) Đơn vị đầu tư được quyền sử dụng
mặt bằng để kinh doanh khai thác dịch vụ tổng hợp, thương mại theo quy hoạch
chi tiết được duyệt; đặc biệt là các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ phục vụ hành
khách và lái, phụ xe.
c) Đơn vị đầu tư được quyết định
mức thu phí đậu đỗ xe, cho thuê mặt bằng để kinh doanh theo quy hoạch chi tiết
được duyệt.
d) Đối với các bến xe vùng sâu,
vùng xa khó thu hút đầu tư thì trước mắt. Nhà nước bố trí vốn đầu tư xây dựng
các hạng mục hạ tầng cơ bản như mặt bằng, sân bãi, điện nước để đảm bảo nhu cầu
đi lại thuận tiện cho nhân dân.
V. Tổ chức thực
hiện
1. Trách nhiệm của các cấp,
các ngành trong việc tổ chức thực hiện :
a) Sở Giao thông vận tải:
- Chủ trì, phối hợp với các sở,
ngành liên quan và các địa phương hoàn chỉnh qui hoạch tổng thể hệ thống các bến
xe trên địa bàn tỉnh.
- Đôn đốc, hướng dẫn các địa
phương triển khai thực hiện Đề án và định kỳ tổng hợp báo cáo về tình hình thực
hiện.
b) Sở Xây dựng chủ trì cùng Sở
Giao thông vận tải, Sở Tài nguyên và môi trường giúp các địa phương trong công
tác quy hoạch xây dựng chi tiết bến xe, thẩm định và trình UBND tỉnh phê duyệt
quy hoạch xây dựng chi tiết.
c) Sở Tài Chính chủ trì cùng Sở
Giao thông vận tải hướng dẫn các địa phương về trình tự thủ tục, các tiêu chí cụ
thể khi tổ chức đấu thầu cho thuê hoặc giao mặt bằng và cơ sở vật chất tại các
bến xe. Trường hợp cần thiết, thẩm định và phê duyệt phương án đấu thầu của các
bến xe khi địa phương có đề nghị hoặc khi được UBND tỉnh giao nhiệm vụ.
d) UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc,
thành phố Đà Lạt chủ động rà soát, đề xuất điều chỉnh hoặc bổ sung quy hoạch và
lập qui hoạch xây dựng chi tiết các bến xe trên địa bàn trình UBND tỉnh phê duyệt;
làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên chức, người lao động tại
Ban quản lý bến xe thuộc địa phương khi thực hiện chuyển đổi công tác quản lý,
kinh doanh khai thác bến xe theo Đề án này; tổ chức thực hiện đấu thầu cho thuê
hoặc giao đầu tư xây dựng kinh doanh khai thác các bến xe, bãi đỗ xe trên địa
bàn quản lý.
2. Thời gian thực hiện:
a) Về tách chức năng quản lý nhà
nước tại bến xe : Sở GTVT hoàn thành việc lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh bổ
sung chức năng nhiệm vụ và biên chế để thực hiện chức năng quản lý bến xe,
trình Sở Nội vụ thẩm định và trình UBND tỉnh phê duyệt trong quý II năm 2007.
b) Về quy hoạch:
- Hoàn thành quy hoạch tổng thể
hệ thống bến xe trong toàn tỉnh trình UBND tỉnh phê duyệt trong quý II năm
2007.
- Trên cơ sở quy hoạch tổng thể,
các địa phương phối hợp với các Sở, ngành tiến hành quy hoạch chi tiết và trình
UBND tỉnh phê duyệt hoàn tất trong năm 2007.
c) Về tổ chức đấu thầu khai thác
đầu tư bến xe:
- Thực hiện thí điểm việc tổ chức
đấu thầu khai thác Bến xe liên tỉnh Đà Lạt trong quý 2 năm 2007 để rút kinh
nghiệm.
- Quý 3 năm 2007 bắt đầu triển
khai tại các Bến xe trung tâm Bảo Lộc, Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh, Bảo Lâm
và các bến xe còn lại theo tiến độ qui hoạch xây dựng chi tiết.
Điều 2.
Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ ngày ký.
Điều 3.
Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các Sở, Ban, ngành có
liên quan, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt và Thủ trưởng
các cơ quan, đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./-
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Huỳnh Đức Hòa
|