QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Nghị quyết số:
61/2022/QH15
|
Hà Nội, ngày
16 tháng 6 năm 2022
|
NGHỊ QUYẾT
TIẾP TỤC TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH,
PHÁP LUẬT VỀ QUY HOẠCH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÁO GỠ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC, ĐẨY
NHANH TIẾN ĐỘ LẬP VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH THỜI KỲ 2021 - 2030
QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn cứ Nghị quyết số 09/2021/QH15 ngày 25 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội
về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2022 và Nghị quyết số 19/2021/QH15 ngày 27 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội
về thành lập Đoàn giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về
công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch
có hiệu lực thi hành”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số
166/BC-ĐGS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành và ý kiến
của các vị đại biểu Quốc hội;
QUYẾT NGHỊ:
Điều
1. Đánh giá kết quả thực hiện
Quốc hội cơ bản tán thành
nội dung Báo cáo số 166/BC-ĐGS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của Đoàn giám sát của
Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác
quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu
lực thi hành với những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân chủ yếu
sau đây:
Việc xây dựng, ban hành Luật Quy hoạch là nỗ lực, cố gắng lớn của Quốc
hội, Chính phủ trong việc thể chế hóa Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16 tháng 01 năm 2012 của Hội nghị
lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI). Sau khi Luật Quy hoạch được thông qua, Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã khẩn trương ban hành,
sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản pháp luật để triển khai thực hiện Luật Quy hoạch. Công tác lập, thẩm định, phê
duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch cơ bản đã hoàn thành. Kinh phí lập quy hoạch đã được
quan tâm bố trí trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020. Tuy
nhiên, quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật
về quy hoạch gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do quy định của Luật Quy hoạch còn có những bất cập, chưa rõ
ràng, có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến tiến độ lập các
quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030 chậm, trong khi các quy hoạch thời kỳ 2011 - 2020
hết hiệu lực nên thiếu cơ sở để thực hiện các chương trình, dự án đầu tư và các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
đã ban hành Nghị quyết số 751/2019/UBTVQH14
ngày 16 tháng 8 năm 2019 giải thích theo hướng cho lập đồng thời các quy hoạch
thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; các quy hoạch nêu tại điểm c khoản 1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đã được phê duyệt trước
ngày 01 tháng 01 năm 2019 được điều chỉnh nội dung theo quy định của pháp luật
có liên quan trước ngày Luật Quy hoạch có
hiệu lực. Bên cạnh đó, quy định về quy hoạch tổng thể quốc
gia và khái niệm “tích hợp quy hoạch” chưa rõ về nội
hàm, chưa được quy định cụ thể trong quy trình lập quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh dẫn đến khó triển khai
trong thực tiễn. Một số nội dung như việc phân kỳ đầu tư triển khai các dự án và trình tự, thủ tục ban
hành kế hoạch thực hiện quy hoạch, việc huy động và sử dụng
nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, việc xử lý trường hợp các quy hoạch
cùng cấp phù hợp với quy hoạch cấp trên nhưng mâu thuẫn với nhau chưa được quy
định cụ thể trong Luật Quy hoạch. Các quy định
pháp luật có liên quan đến quy hoạch trong một số văn bản luật
còn mâu thuẫn, chồng chéo và khó triển khai trên thực tiễn.
Tiến độ lập quy hoạch thời
kỳ 2021 - 2030 rất chậm so với yêu cầu, đến nay vẫn còn 104/111
quy hoạch chưa hoàn thành việc lập, phê duyệt, ảnh hưởng đến thực hiện các mục
tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025. Mặt
khác, do tiến độ lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch
chậm nên phải tiếp tục kéo dài thời hạn và điều chỉnh các quy hoạch
hiện hành thời kỳ 2011 - 2020, vì vậy đang tồn tại song hành, đồng thời áp dụng
hai loại quy hoạch. Việc quản lý đầu tư, kinh doanh đối với một số ngành
sản xuất sản phẩm gặp khó khăn do chưa có chính sách thay thế các quy hoạch
ngành, sản phẩm đã hết hiệu lực hoặc chưa được hướng dẫn cụ thể; bên cạnh
đó, chưa đánh giá đầy đủ tác động của việc bãi bỏ các quy hoạch đối
với một số ngành cụ thể theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 59
của Luật Quy hoạch đến sự phát triển của nền kinh tế; việc bỏ quy hoạch sản
phẩm, nhất là một số sản phẩm chủ lực của nền kinh tế là chưa hợp lý, gây bị động,
lúng túng trong phát triển các sản phẩm. Việc lập đồng
thời rất nhiều quy hoạch có nội dung đa ngành trong cùng một bản quy hoạch theo
phương pháp mới và cùng một thời điểm gây khó khăn cho công tác tuyển chọn tư vấn
và thẩm định, trong khi số lượng, chất lượng các tổ chức tư vấn còn hạn chế,
công tác đấu thầu lựa chọn tư vấn theo quy định của Luật Đấu thầu gặp nhiều khó khăn, vướng mắc; số
lượng cán bộ, chuyên gia có trình độ chuyên môn về quy hoạch để tham gia xây dựng
quy hoạch và hội đồng thẩm định còn thiếu; chưa có đầy đủ hệ thống thông tin,
cơ sở dữ liệu lập quy hoạch, hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chưa cao; quy
trình, cách thức tổ chức lấy ý kiến cộng đồng dân cư còn hạn chế, bất cập...
nên ảnh hưởng nhiều đến tiến độ, chất lượng lập, quyết định hoặc phê duyệt các
quy hoạch. Quy trình, thủ tục điều chỉnh các quy hoạch được thực hiện như đối với
việc lập mới quy hoạch dẫn đến quy hoạch thấp hơn được phê duyệt trước phải điều
chỉnh để bảo đảm phù hợp với quy hoạch cao hơn được phê duyệt sẽ mất rất nhiều
thời gian. Một số quy hoạch được phê duyệt đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế.
Những tồn tại, hạn chế
nêu trên do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan. Bên cạnh
nguyên nhân do quy định pháp luật về quy hoạch còn bất cập, việc tổ chức thực
hiện công tác quy hoạch ở các cấp, các ngành, các địa phương còn nhiều hạn chế,
chưa làm hết trách nhiệm được giao, nhất là chưa chỉ đạo, đôn đốc quyết liệt trong
giai đoạn đầu.
Điều
2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
1. Cho
phép Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia
lập quy hoạch được thực hiện ngay các giải pháp sau để kịp thời tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập các quy hoạch và bảo đảm chất lượng
công tác quy hoạch:
a) Chính phủ quy định chi tiết quy trình lập quy hoạch cấp quốc gia,
quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh theo quy định tại Điều 16 của Luật Quy hoạch; quy
định các loại sơ đồ, bản đồ quy hoạch cần kèm theo hồ sơ khi quyết
định hoặc phê duyệt quy hoạch; quy định chi tiết Điều 45
của Luật Quy hoạch về trình
tự, thủ tục ban hành kế hoạch thực hiện quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt,
trong đó quy định định hướng việc phân kỳ đầu tư triển khai các công trình, dự
án;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, quyết định áp dụng hình thức chỉ
định thầu đối với các gói thầu tư vấn để lập các quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch
vùng, quy hoạch tỉnh mà đến thời điểm Nghị quyết này có hiệu lực thi hành chưa
lựa chọn được nhà thầu. Trình tự, thủ tục chỉ định thầu được thực hiện theo quy
định của pháp luật về đấu thầu.
Người có thẩm
quyền quyết định lựa chọn nhà thầu phải chịu trách nhiệm về quyết định của
mình, bảo đảm công khai, minh bạch, chất lượng, hiệu quả và phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực trong công tác quy hoạch;
c) Lập đồng thời các quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch và các luật, pháp lệnh khác có quy định về quy hoạch; tập
trung ưu tiên lập quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng. Quy hoạch được lập,
thẩm định xong trước thì được quyết định hoặc phê duyệt trước.
Khi quy hoạch
được quyết định hoặc phê duyệt, nếu có mâu thuẫn giữa quy hoạch thấp hơn với
quy hoạch cao hơn thì quy hoạch thấp hơn phải điều chỉnh theo quy hoạch cao
hơn. Trường hợp có mâu thuẫn giữa các quy hoạch cùng cấp, căn cứ vào Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, các văn kiện của Đảng, chiến lược
phát triển ngành và từ yêu cầu thực tiễn, cấp có thẩm quyền quyết định hoặc phê
duyệt quy hoạch quyết định điều chỉnh quy hoạch, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ,
kế thừa, ổn định và hệ thống giữa các quy hoạch.
Việc
điều chỉnh quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021
- 2030 trong trường hợp có mâu thuẫn được thực hiện như sau:
- Cơ quan tổ
chức lập quy hoạch rà soát nội dung mâu thuẫn cần điều chỉnh; lập báo cáo điều
chỉnh quy hoạch kèm theo dự thảo văn bản quyết định hoặc phê duyệt điều chỉnh
quy hoạch gửi xin ý kiến của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có liên quan;
- Cơ quan tổ
chức lập quy hoạch cần điều chỉnh có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan có liên quan, hoàn thiện hồ sơ điều chỉnh quy
hoạch và chịu trách nhiệm về nội dung điều chỉnh; trình cấp có thẩm quyền xem
xét, quyết định hoặc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch; công bố điều chỉnh quy hoạch
theo quy định của Luật Quy hoạch;
d) Quy hoạch quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 59 của Luật Quy hoạch đã được quyết
định hoặc phê duyệt trước ngày 01 tháng 01 năm 2019 được tiếp tục thực hiện,
kéo dài thời kỳ và điều chỉnh nội dung theo quy định của pháp luật có liên quan
trước ngày Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành cho đến khi quy hoạch cấp quốc
gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030 theo Luật Quy hoạch được quyết định hoặc phê duyệt;
đ) Sử dụng kinh phí chi thường xuyên theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nước để lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, điều
chỉnh quy hoạch mà đến thời điểm Nghị quyết này có hiệu lực thi hành chưa được
bố trí vốn.
2. Giao
Chính phủ thực hiện ngay các nhiệm vụ sau đây:
a) Chỉ đạo
các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cơ quan hữu quan nghiêm túc kiểm điểm, rút kinh
nghiệm và khẩn trương có giải pháp đồng bộ để khắc phục hạn chế, yếu kém đã được
chỉ ra trong Báo cáo kết quả giám sát số 166/BC-ĐGS ngày 27 tháng 5 năm 2022 của
Đoàn giám sát; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, tập trung cao độ chỉ đạo để thực
hiện tốt công tác quy hoạch. Thực hiện nghiêm việc lấy ý kiến cộng đồng dân cư;
khắc phục căn bản tình trạng các dự án treo do quy hoạch có nguyên nhân chủ
quan; xử lý các tồn tại, bất cập do ảnh hưởng của quy hoạch treo, bảo đảm các
quyền lợi của người dân về đất đai, tài sản và an sinh xã hội, không để xảy ra
tình trạng khiếu nại kéo dài;
b) Xây dựng kế hoạch, lộ trình lập các quy hoạch thời kỳ 2021 - 2030
theo Luật Quy hoạch
bảo đảm khả thi và chất lượng. Chỉ đạo khẩn trương
hoàn thành việc lập, quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch cấp quốc gia, quy
hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; ưu tiên tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ lập,
thẩm định và quyết định hoặc phê duyệt các quy hoạch cấp quốc gia mang tính cấp
bách nhằm kịp thời thực hiện Chiến lược và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; hoàn thành Quy hoạch tổng thể quốc gia và các quy hoạch ngành hạ
tầng quan trọng trong năm 2022; phấn đấu cơ bản hoàn thành các quy hoạch ngành
quốc gia còn lại, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh trong năm 2022 trên cơ sở bảo
đảm chất lượng các quy hoạch;
c) Chỉ đạo
rà soát, điều chỉnh kịp thời các quy hoạch đã được quyết định hoặc phê duyệt
theo trình tự, thủ tục quy định tại điểm c khoản 1 Điều này, bảo đảm mối quan hệ
giữa các loại quy hoạch theo quy định tại Điều 6 của Luật Quy hoạch;
d) Chỉ đạo rà soát sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành về công tác quy hoạch, bảo đảm
đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật;
đ) Quy định
chi tiết việc huy động và sử dụng nguồn lực của các tổ chức, cá nhân hỗ trợ cho
hoạt động quy hoạch, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch và tuân thủ quy định
của Luật Quy hoạch về trình tự, thủ tục lập,
thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, công bố, điều chỉnh quy hoạch và quy định
khác của pháp luật có liên quan;
e) Chỉ đạo
các Bộ, ngành có liên quan khẩn trương ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp
có thẩm quyền ban hành văn bản quy định về điều kiện, quy chuẩn kỹ thuật,
chuyên ngành về quy hoạch;
g) Đánh giá
toàn diện tác động của việc bãi bỏ các quy hoạch về đầu tư phát triển hàng hóa,
dịch vụ, sản phẩm cụ thể, ấn định khối lượng, số lượng hàng hóa, dịch vụ, sản
phẩm được sản xuất, tiêu thụ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều
59 của Luật Quy hoạch; nghiên cứu rà soát các quy hoạch này để bảo đảm yêu
cầu của Luật Quy hoạch, yêu cầu quản lý
nhà nước và phù hợp với cam kết trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
h) Chỉ đạo
các Bộ, ngành và địa phương tăng cường ứng dụng công nghệ trong lập quy hoạch
và phối hợp đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nâng cấp đồng bộ hóa hệ thống
thông tin và cơ sở dữ liệu quy hoạch quốc gia, thống nhất công nghệ, định dạng
dữ liệu về quy hoạch; cập nhật, chia sẻ thông tin; đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu, cá thể hóa trách nhiệm; bảo đảm tính công khai, minh bạch; đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính; tổ chức thanh tra, kiểm tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời,
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về quy hoạch;
i) Nghiên cứu
hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm, thẩm quyền của các cơ quan lập,
thẩm định, phê duyệt quy hoạch, bảo đảm độc lập giữa các cơ quan, đề cao trách
nhiệm của từng cấp, phù hợp với quy định của Luật
Quy hoạch, các luật có liên quan đến quy hoạch, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương.
3. Quốc hội giao Chính phủ tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Luật Quy hoạch và các nội dung có liên quan đến quy hoạch trong các luật,
văn bản quy phạm pháp luật để khẩn trương trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch và
các luật có liên quan đến quy hoạch nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về
công tác quy hoạch, bảo đảm đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
Điều
3. Điều khoản thi hành
1. Nghị quyết này có hiệu
lực thi hành từ ngày 16 tháng 6 năm 2022.
2. Nghị quyết số 751/2019/UBTVQH14 ngày 16 tháng 8 năm 2019 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội Giải thích một số điều của Luật Quy hoạch hết hiệu lực kể từ ngày Nghị
quyết này có hiệu lực thi hành.
3. Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ
đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết này. Hằng năm,
Chính phủ tổng hợp, báo cáo Quốc hội tình hình triển khai công tác quy hoạch và
kết quả thực hiện Nghị quyết này tại kỳ họp cuối năm của Quốc hội.
4. Ủy ban Thường vụ Quốc hội,
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực
hiện Nghị quyết này.
Nghị quyết này được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 3 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2022.
|
CHỦ TỊCH QUỐC
HỘI
Vương Đình Huệ
|