HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 166-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 15
tháng 12 năm 1984
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 166-HĐBT NGÀY 15-12-1984 VỀ CẢI TIẾN QUẢN LÝ XÂY DỰNG CƠ
BẢN
Để thực hiện nghị quyết Hội nghị
lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), Hội đồng Bộ trưởng quyết
định một số vấn đề về cải tiến quản lý xây dựng cơ bản như sau:
I- SẮP XẾP
LẠI LỰC LƯỢNG VÀ TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT TRONG XÂY DỰNG CƠ BẢN
A. SẮP XẾP LẠI
LỰC LƯỢNG XÂY DỰNG
1. Sắp xếp lại lực lượng xây dựng
là để phát triển đồng bộ và ổn định năng lực xây dựng, bảo đảm cân đối nhu cầu
với năng lực xây dựng trong các khu vực kinh tế, các ngành kinh tế, ưu tiên cho
các công trình trọng điểm của Nhà nước và các địa bàn trọng điểm.
2. Việc sắp xếp lại lực lượng
xây dựng phải nhằm:
a) Thực hiện một bước tập trung
hoá và chuyên môn hoá công tác xây lắp, kiện toàn các chuyên ngành xây dựng trọng
yếu thuộc Tổng cục và các Bộ Xây dựng, Giao thông vận tải, Bưu điện, Thuỷ lợi,
Mỏ và than, Điện lực, Dầu khí, Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Quốc Phòng. Các Bộ và
Tổng cục khác chỉ giữ lại một lực lượng đủ đảm nhận việc xây dựng nhỏ, sửa chữa,
và một số nhu cầu đặc biệt của ngành mình. Ngoài ra, Bộ và Tổng cục nào thấy cần
thiết tổ chức thêm lực lượng xây dựng chuyên ngành thì phải được phép của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng. Các Bộ, Tổng cục và các tỉnh, thành phố tiến hành sắp xếp cụ
thể lực lượng xây dựng của chuyên ngành và địa phương. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
và Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn và tham gia với các
ngành, các địa phương làm việc này.
b) Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch
phát triển đô thị và nông thôn, theo sự chỉ đạo của các Bộ, Tổng cục quản lý
xây dựng chuyên ngành, các tỉnh, thành phố đảm nhiệm việc xây dựng nhà ở, các
loại công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi, nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp và các công trình kết cấu hạ tầng của địa phương và của các
cơ quan Trung ương uỷ thác.
Phát triển đúng mức lực lượng
xây lắp quốc doanh của tỉnh và huyện, chú trọng các địa bàn đang có nhu cầu lớn
nhưng thiếu lực lượng.
3. Sắp xếp lại lực lượng xây dựng
trong khu vực kinh tế tập thể, kết hợp với cải tạo xã hội chủ nghĩa lực lượng
xây dựng tư doanh, củng cố vai trò chủ đạo của lực lượng xây lắp quốc doanh.
B. TỔ CHỨC LẠI
SẢN XUẤT
1. Việc tổ chức
lại sản xuất phải đáp ứng các yêu cầu:
a) Phát huy vai trò của cơ sở và
của các tập thể lao động trong việc quản lý và sử dụng có hiệu quả cao tài sản
được giao, không ngừng cải tiến kỹ thuật và tổ chức sản xuất, thực hiện đầy đủ
các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh, tăng năng suất lao động, giảm giá thành xây lắp,
nâng cao chất lượng, và đưa công trình vào khai thác đúng thời hạn.
b) Xác định quy mô hợp lý của từng
đơn vị xây lắp thuộc chuyên ngành và địa phương. Củng cố và phát triển một số tổ
chức chuyên đảm nhận công tác xây lắp đặc biệt. Kiện toàn các tổ chức xây lắp
thành những đơn vị sản xuất - kinh doanh xã hội chủ nghĩa vững mạnh.
c) Giảm đầu mối trung gian, thực
hiện tổ chức quản lý theo 2 hoặc 3 cấp, mở rộng mối quan hệ hợp tác, liên kết
trực tiếp giữa các đơn vị cơ sở. d) Trên cơ sở quy hoạch vùng xây dựng, ổn định
địa bàn hoạt động, ổn định tổ chức và ổn định đời sống công nhân, viên chức của
đơn vị xây lắp.
2. Các hình thức
tổ chức sản xuất trong ngành xây dựng.
a) Trong khu vực Nhà nước, đơn vị
cơ sở là những tổ chức kinh tế quốc doanh và công tư hợp doanh có tư cách pháp
nhân và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế bao gồm:
- Xí nghiệp, công ty khảo sát
xây dựng.
- Xí nghiệp, viện thiết kế quy
hoạch xây dựng.
- Xí nghiệp, viện thiết kế công
trình xây dựng.
- Xí nghiệp, công ty, xí nghiệp
liên hợp xây lắp.
- Xí nghiệp, công ty cung ứng và
vận tải chuyên dùng cho xây dựng.
Đối với công tác xây lắp có thể
tổ chức liên hiệp các xí nghiệp.
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
phối hợp với các ngành có liên quan cùng các Bộ chủ quản nghiên cứu loại hình tổ
chức và cơ chế quản lý các hình thức tự tổ chức thi công đối với các đơn vị vừa
sản xuất vừa làm nhiệm vụ xây dựng cơ bản thuộc Thuộc cục Cao su, Bộ Lâm nghiệp,
Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Nông nghiệp...
b) Trong khu vực kinh tế tập thể,
đơn vị cơ sở là hợp tác xã xây dựng được đăng ký hành nghề.
3. Kiện toàn
các cơ sở xây dựng.
a) Tổ chức xây lắp.
- Trong những năm trước mắt, phải
kiện toàn tổ chức và bổ sung trang bị kỹ thuật để đồng bộ hoá năng lực của các
đơn vị xây lắp chuyên ngành trọng yếu sau đây: công nghiệp và dân dụng, giao
thông, thuỷ lợi, mỏ và than, đường dây và trạm biến thế điện, dầu khí, bưu điện
truyền thanh, nông nghiệp, lâm nghiệp.
- Phát triển các mối quan hệ
kinh tế trực tiếp giữa các cơ sở bằng các hình thức liên kết và hợp tác xây dựng
trên từng khu vực thông qua hợp đồng kinh tế. Tiến tới hình thành các tổ hợp khảo
sát, thiết kế, xây lắp, cung ứng, vận tải phục vụ xây dựng trên các khu vực có
nhu cầu xây dựng lớn.
- Trên địa bàn tỉnh, thành phố
có thể thành lập các công ty xây lắp theo các chuyên ngành chủ yếu; không để
phân tán nhiều ngành. Đối với các thành phố và khu vực xây dựng tập trung, nên
tổ chức các công ty hoặc xí nghiệp liên hợp xây dựng nhà ở xí nghiệp hoặc công
ty san nền, công ty hoặc xí nghiệp liên hợp xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng.
- Trên địa bàn huyện, tuỳ theo
điều kiện cụ thể, có thể tổ chức xí nghiệp xây lắp hoàn chỉnh hoặc không hoàn
chỉnh (chỉ có bộ khung quản lý với một số ít công nhân có tay nghề giỏi làm
nòng cốt để sử dụng lực lượng hợp tác xã và lao động hợp đồng tại chỗ)
- Sắp xếp lại các tổ chức xây lắp
thuộc Bộ Quốc Phòng để đủ khả năng đảm nhận các công trình quốc phòng và tham
gia xây lắp các công trình kinh tế theo phương thức nhận thầu.
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương phối hợp với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước cùng Bộ chủ quản xây lắp
tổng kết và xây dựng mô hình tổ chức đơn vị cơ sở chuẩn để vận dụng trong các
ngành khác nhau; nghiên cứu làm thử hình thức liên hiệp khoa học - sản xuất
trong xây dựng cơ bản.
b) Tổ chức và quản lý công tác
khảo sát xây dựng:
- Kiện toàn các công ty, xí nghiệp
khảo sát của các Bộ Xây dựng, Giao thông vận tải, Thuỷ lợi. Lực lượng khảo sát
của ba Bộ này cần được phân công hợp tác và liên kết hoạt động trên từng khu vực
để không chồng chéo, trùng lắp; tận dụng khả năng để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật,
sử dụng cơ sở thí nghiệm chung đáp ứng nhu cầu khảo sát xây dựng cho các ngành và
địa phương trên khu vực đó.
- Củng cố và phát triển đúng mức
lực lượng khảo sát của các ngành quốc phòng, nông nghiệp, điện, than, dầu và
khí, luyện kim để kết hợp khảo sát xây dựng và khảo sát phục vụ sản xuất.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
ra quy chế về quản lý lực lượng khảo sát nước ngoài làm việc trên lãnh thổ Việt
Nam.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
thực hiện thống nhất quản lý công tác khảo sát và tài liệu khảo sát; cùng với
các ngành có liên quan sớm lập được các bản đồ địa hình, địa chất công trình
thuỷ văn, khí hậu và xây dựng.
c) Tổ chức và quản lý công tác
thiết kế công trình:
- Kiện toàn các viện thiết kế
thuộc các Bộ sản xuất và Bộ Quốc phòng để các viện này đủ sức tự thiết kế phần
lớn những công trình xây dựng thuộc chuyên ngành.
Tập trung công tác thiết kế và
quản lý công tác thiết kế công trình giao thông vận tải vào Bộ Giao thông vận tải,
thiết kế công trình thuỷ lợi vào Bộ Thuỷ lợi, thiết kế công trình dân dụng và
nhà ở vào Bộ Xây dựng.
- Các Bộ sự nghiệp kinh tế, văn
hoá, xã hội được giữ lực lượng thiết kế dân dụng cần thiết cho công tác thiết kế
sửa chữa, trung tu, phục chế; làm công tác giao thầu thiết kế, giám định thiết
kế với sự thoả thuận của Bộ Xây dựng.
- Các cơ quan Nhà nước, các đoàn
thể không có tư cách pháp nhân thiết kế không được nhận thầu thiết kế. Các cơ
quan khoa học, kỹ thuật chỉ được làm dịch vụ thiết kế khi có đăng ký đúng ngành
chuyên môn và có tổ chức bảo đảm trách nhiệm.
- ở mỗi tỉnh, thành phố tuỳ điều
kiện cụ thể có thể tổ chức viện hay xí nghiệp thiết kế theo các chuyên ngành chủ
yếu (công nghiệp, dân dụng, giao thông vận tải, thuỷ lợi). Các tổ chức thiết kế
này chịu trách nhiệm về thiết kế các loại công trình xây dựng chuyên ngành của
địa phương và chịu sự quản lý của Bộ chủ quản chuyên ngành.
Sử dụng tốt và quản lý chặt chẽ
lực lượng thiết kế tư ở miền Nam, thu hút dần họ vào các tổ chức thiết kế quốc
doanh.
- Đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn
hoá, ban hành thiết kế điển hình, thiết kế mẫu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ
thuật vào lĩnh vực thiết kế. Đối với thiết kế cá biệt, phải được thẩm tra xét
duyệt đúng thủ tục. Đối với những công trình đã có thiết kế mẫu và phải dùng
thiết kế mẫu, sẽ được ghi vào luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt.
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
nghiên cứu quy chế về công tác thiết kế, chế độ thẩm tra và quản lý thiết kế
trình thường vụ Hội đồng Bộ trưởng ban hành trong thời gian ngắn nhất.
d. Sắp xếp lại lực lượng cơ khí
xây dựng, xe, máy, thiết bị thi công và cơ sở công nghiệp xây dựng
- Sắp xếp lại lực lượng và tổ chức
quản lý xe, máy, thiết bị thi công ở các Bộ có lực lượng lớn như Bộ Xây dựng, Bộ
Thuỷ Lợi, Bộ Giao thông vận tải trên từng khu vực; tổ chức tốt hợp tác và liên
kết giữa các lực lượng này trên từng khu vực. Tổ chức mạng lưới bảo dưỡng, sửa
chữa, sản xuất phụ tùng để sử dụng cao nhất năng lực trang bị hiện có. Tăng cường
bộ phận quản lý xe, máy, thiết bị thi công ở các Bộ và các tỉnh, thành phố có lực
lượng xe, máy, thiết bị tương đối lớn.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
chủ trì phối hợp giữa các chuyên ngành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các tiêu
chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật sử dụng máy, phương thức và giá cho thuê máy,
khắc phục tình trạng giữ máy không hoạt động trong khi đơn vị khác cần máy xây
dựng.
- Trên cơ sở phân công xây lắp,
các Bộ và địa phương lập kế hoạch trang bị xe, máy, thiết bị và công cụ thi
công của Bộ và địa phương theo hướng kết hợp cơ giới với thủ công, tận dụng lực
lượng lao động tại chỗ, hết sức coi trọng cơ giới nhỏ, công cụ cải tiến và công
cụ thông thường.
- Việc phát triển các cơ sở công
nghiệp xây dựng phải theo quy hoạch xây dựng và có cơ cấu phù hợp với trình độ
kỹ thuật thi công và yêu cầu xây lắp có khối lượng lớn.
Trong kế hoạch 5 năm 1986 -
1990, hoàn chỉnh và phát triển các cụm công nghiệp xây dựng tại các khu vực có
điều kiện phát triển và có nhu cầu lớn. Trước mắt chú trọng những khu vực đã có
cơ sở công nghiệp xây dựng tương đối phát triển và có nhu cầu lớn về xây dựng
nhà ở và dịch vụ sản xuất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng
Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Nai, Vũng Tàu.
d. Cải tiến tổ chức và quản lý
cung ứng thiết bị, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng.
- Các Bộ có nhiệm vụ cung ứng
thiết bị, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng cho xây dựng cơ bản chịu trách
nhiệm tạo nguồn hàng bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu cung ứng được giao theo kế
hoạch pháp lệnh, trước hết là cho các công trình trọng điểm của Nhà nước; đồng
thời có lực lượng vật tư, vật liệu xây dựng đáp ứng cho nhu cầu xây dựng của
khu vực tập thể và của nhân dân.
- Khuyến khích các tổ chức xây lắp
sản xuất và tiết kiệm vật tư, vật liệu xây dựng để tham gia cân đối kế hoạch
xây lắp; phần vật tư, vật liệu tự kiếm được thanh toán theo khung giá Nhà nước.
- Thông qua hợp đồng kinh tế,
các tổ chức cung ứng chịu trách nhiệm cung cấp cho các hộ tiêu thụ các loại thiết
bị, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng đúng số lượng, quy cách, chất lượng,
thời gian, theo giá cả Nhà nước tại các địa điểm do các Bộ cung ứng quy định
cho từng khu vực nhằm giảm bớt chi phí vận tải. Thực hiện cân, đong, đo, đếm
trong các khâu giao nhận.
- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước phối
hợp với các Bộ cung ứng nghiên cứu chính sách dự trữ hợp lý về các loại vật tư,
vật liệu xây dựng cho các tổ chức xây dựng.
Bộ Vật tư phối hợp với Bộ Xây dựng
và các Bộ có liên quan nghiên cứu việc liên kết giữa các tổ chức cung ứng, tổ
chức các trung tâm cung ứng theo khu vực. Trong năm 1985, áp dụng thí điểm
phương thức cung ứng đồng bộ đến chân công trình cho một số công trình để rút
kinh nghiệm mở rộng dần cho các công trình xây dựng khác.
- Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương và Giám đốc các tổ chức
xây lắp được điều động thiết bị thi công, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng
giữa các công trình do mình thi công, nhưng không được làm ảnh hưởng đến mục
tiêu tiến độ trong năm kế hoạch và phải thông báo cho ngân hàng đầu tư và xây dựng.
Việc điều động các thiết bị thi công, vật tư kỹ thuật, vật liệu xây dựng nhập
theo thiết bị toàn bộ phải có sự thoả thuận của chủ đầu tư và được Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng cho phép.
- Các tổ chức cung ứng thường
xuyên thông báo cho các cơ sở trong ngành xây dựng tình hình chủng loại, quy
cách, số lượng và giá cả vật tư, vật liệu hiện có.
- Thực hiện quyết toán vật tư, vật
liệu xây dựng hàng năm và từng công trình.
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương chủ trì cùng Bộ Vật tư và Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu cải tiến
phương thức và tổ chức cung ứng thiết bị, vật tư kỹ thuật, vật liệu xây dựng, bớt
khâu trung gian, chồng chéo, trùng lắp để phục vụ tốt cho xây dựng.
e. Sắp xếp lại và tăng cường quản
lý hợp tác xã xây dựng.
- Trong những năm gần đây lực lượng
xây dựng trong khu vực kinh tế tập thể đã phát triển nhanh nhưng chưa được quản
lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý. Các Uỷ ban nhân dân địa phương cần chấn chỉnh tổ
chức và tăng cường quản lý các hợp tác xã xây dựng, xoá bỏ hợp tác xã trá hình
và "cai đầu dài" đi đôi với cải tạo nhà thầu xây dựng.
Những hợp tác xã xây dựng chuyên
nghiệp có đủ điều kiện quy định là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được
phép trực tiếp nhận thầu xây dựng các loại công trình đơn giản với chủ đầu tư,
nhận thầu lại từng bộ phận công trình hoặc hạng mục công trình do tổ chức xây lắp
quốc doanh làm thầu chính.
- Với việc hướng dẫn hoạt động đối
với từng loại hợp tác xã xây dựng và cải tạo, sử dụng nhà thầu tư nhân do Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố phụ trách theo sự quản lý thống nhất của Bộ chủ quản
chuyên ngành trên cơ sở các quy định chung của Nhà nước.
II. CẢI TIẾN
CHẾ ĐỘ GIAO THẦU VÀ NHẬN THẦU XÂY LẮP
1. Việc thi công các công trình
xây dựng phải thông qua giao thầu và nhận xây lắp.
Bên giao thầu là chủ đầu tư công
trình xây dựng, bên nhận thầu là các tổ chức xây lắp có tư cách pháp nhân và thực
hiện chế độ hạch toán kinh tế. Tuỳ theo đặc điểm kỹ thuật và quy mô công trình,
có thể áp dụng hình thức đấu thầu.
Chủ đầu tư và bên nhận thầu có
thể lựa chọn thoả thuận áp dụng hình thức giao thầu và nhận thầu thích hợp,
khuyến khích áp dụng hình thức tổng thầu xây lắp đối với công trình sản xuất và
tổng thầu xây dựng đối với công trình dân dụng, nhà ở. Chủ đầu tư có thể khoán
toàn bộ chi phí xây dựng công trình hoặc hạng mục công trình cho tổ chức xây lắp;
tổng thầu xây lắp có thể khoán gọn hạng mục công trình cho đơn vị nhận thầu lại.
2. Các tổng thầu có thể giao thầu
lại cho các tổ chức xây lắp chuyên ngành. Chi phí quản lý của tổng thầu do Uỷ
ban Xây dựng cơ bản Nhà nước quy định cụ thể.
3. Đối với những công trình quan
trọng, khi lập và duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật phải tính đến tổ chức tổng
thầu xây lắp thoả thuận trước những vấn đề liên quan đến chuẩn bị xây dựng, mua
sắm vật tư, thiết bị thi công.
4. Tổng thầu (hoặc thầu chính)
xây lắp thông qua uỷ thác của chủ đầu tư đảm nhiệm việc tiếp nhận và chuyên chở
các thiết bị, vật tư nhập theo công trình thiết bị toàn bộ từ cảng đến công
trình. Trách nhiệm cụ thể của chủ đầu tư và tổng thầu (hoặc thầu chính) xây lắp
đối với vật tư, thiết bị cho thi công cũng như đối với vật tư thiết bị công nghệ,
thiết bị lẻ cho sản xuất được quy định cụ thể trong quy chế giao thầu và nhận
thầu xây lắp.
5. Việc xây lắp công trình chỉ
được bắt đầu sau khi hợp đồng giao thầu và nhận thầu xây lắp được ký giữa chủ đầu
tư và tổ chức nhận thầu xây lắp trên cơ sở kế hoạch của Nhà nước.
6. Tổ chức nhận thầu xây lắp có
quyền từ chối không ký hợp đồng xây lắp nếu chủ đầu tư chưa có các điều kiện bảo
đảm. Trường hợp chưa đủ điều kiện mà phải ký hợp đồng và tiến hành thi công thì
chủ đầu tư phải thanh toán những chi phí do thiếu các điều kiện gây nên.
7. Trách nhiệm vật chất, nghĩa vụ
và quyền hạn của các bên giao thầu và nhận thầu được quy định cụ thể trong quy
chế giao thầu và nhận thầu xây lắp.
III. CẢI
TIẾN KẾ HOẠCH HOÁ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1. Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản
của Nhà nước bao gồm đầu tư bằng vốn ngân sách Trung ương, đầu tư bằng vốn ngân
sách địa phương và vốn tự có của các cơ sở. Tất cả các nguồn vốn đầu tư xây dựng
cơ bản phải được cân đối và phản ảnh vào kế hoạch xây dựng cơ bản của địa
phương, của ngành và toàn bộ nền kinh tế. Các chỉ tiêu pháp lệnh của kế hoạch
Nhà nước mang tính pháp lệnh đối với tất cả các bên của đầu tư, các tổ chức nhận
thầu khảo sát, thiết kế, xây lắp và cung ứng vật tư, vận tải. Những chỉ tiêu
pháp lệnh đó là căn cứ để ký kết hợp đồng giao thầu và nhận thầu xây lắp. Chỉ
ghi vào kế hoạch xây lắp năm những công trình đã có thiết kế dự toán được duyệt
hoặc dự toán theo bản vẽ thi công thuộc khối lượng xây dựng trong năm.
Các công trình trọng điểm của
Nhà nước phải được sắp xếp theo mục tiêu kinh tế xã hội; Uỷ ban kế hoạch Nhà nước
trực tiếp cân đối cho các công trình trọng điểm. Các công trình của địa phương
đầu tư bằng ngân sách địa phương và vốn huy động của nhân dân phải đăng ký với
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ chủ quản về mục tiêu đầu tư, đồng thời thông báo
cho cơ quan tài chính và ngân hàng cùng cấp.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước sẽ xét
thứ tự ưu tiên để cân đối các công trình thuộc ngân sách địa phương.
2. Chủ đầu tư phải chịu trách
nhiệm về hiệu quả đầu tư. Chỉ đầu tư xây dựng công trình mới và đầu tư mở rộng
khi công suất của cơ sở hiện có đã được sử dụng hợp lý. Kế hoạch đầu tư phải
cân đối và đồng bộ, bảo đảm tiến độ thi công, nhanh chóng đưa công trình vào
khai thác và phát huy công suất thiết kế.
3. Thực hiện sự liên kết chặt chẽ
giữa các lực lượng xây dựng trên từng địa bàn và từng công trình lớn. Tất cả
các hoạt động liên kết phải ghi trong kế hoạch của các bên tham gia và đưa vào
hợp đồng kinh tế.
4. Kế hoạch xây lắp phải được
xây dựng từ cơ sở lên, được cân đối giữa lực lượng lao động, vật tư, vận tải với
khối lượng xây lắp theo thiết kế trên cơ sở triệt để khai thác bốn nguồn khả
năng; kế hoạch phải được tính toán cân đối cả về mặt hiện vật và về mặt tài
chính.
5. Cơ quan quản lý cấp trên trực
tiếp của cơ sở xây lắp thông báo cho cơ sở số hướng dẫn trong quý II năm trước;
dựa vào thông báo đó, trong quý III năm trước các cơ sở tính toán các nguồn khả
năng có thể khai thác và chuẩn bị ký hợp đồng, lập dự thảo kế hoạch cho năm
sau. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp xét duyệt và chính thức giao các chỉ
tiêu pháp lệnh cho cơ sở chậm nhất là tháng 12 năm trước.
Trong quá trình thực hiện, đơn vị
cơ sở có thể bổ sung thêm kế hoạch và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên trực
tiếp. Trường hợp vì lý do khách quan, sau khi đã tìm mọi biện pháp khắc phục mà
vẫn không có khả năng thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh thì đơn vị cơ sở báo cáo
lên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp để xin điều chỉnh vào đầu quý III của
năm kế hoạch. Sau khi đã giao kế hoạch, nếu cơ quan giao kế hoạch muốn thay đổi
kế hoạch thì phải bàn với đơn vị cơ sở và phải bảo đảm điều kiện vật chất cần
thiết cho việc thực hiện.
Bộ chủ quản đầu tư cũng giao kế
hoạch cho chủ đầu tư theo thời gian tương ứng.
6. Kế hoạch xây dựng cơ bản phải
được lập đồng bộ trên bốn khâu khảo sát, thiết kế, xây lắp và cung ứng vật tư,
vật liệu xây dựng. Phải bảo đảm kế hoạch chuẩn bị đầu tư (bao gồm quy hoạch xây
dựng, khảo sát xây dựng, lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật, và thiết kế công
trình) đi trước công tác xây lắp; chấm dứt việc thi công không có luận chứng
kinh tế - kỹ thuật và thiết kế dự toán. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước quy định cụ thể
chế độ lập và giao kế hoạch xây lắp hàng năm để thực hiện thi công liên tục
trong mùa khô.
7. Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh:
a) Giao cho chủ đầu tư:
- Tổng mức vốn đầu tư thực hiện
(có phân theo vốn thiết bị, vốn xây lắp).
- Năng lực sản xuất mới huy động
và giá trị tài sản cố định mới tăng (trong đó có năng lực mới huy động của công
trình trọng điểm).
b) Giao cho tổ chức xây lắp quốc
doanh và công tư hợp doanh:
- Giá trị sản lượng xây lắp thực
hiện được thanh toán, trong đó giá trị sản lượng xây lắp các công trình, hạng mục
công trình hoàn thành được bàn giao.
- Danh mục công trình và hạng mục
công trình hoàn thành bàn giao theo chỉ tiêu chất lượng quy định trong thiết kế.
- Mức giảm giá thành trên 1000 đồng
giá trị sản lượng xây lắp thực hiện được thanh toán.
- Lợi nhuận và các khoản nộp
ngân sách.
- Những vật tư chủ yếu do Nhà nước
cung ứng.
c) Khuyến khích các tổ chức xây
dựng, ngoài việc bảo đảm kế hoạch pháp lệnh, được tận dụng năng lực của mình để
làm thêm các công việc xây dựng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh bằng nguồn vật tư tự
kiếm hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế với chủ đầu tư. Đối với các công việc
xây dựng này, các chỉ tiêu kể trên là những chỉ tiêu hướng dẫn.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý cấp
trên trực tiếp giao thêm các chỉ tiêu hướng dẫn như ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật; mức tăng năng suất lao động; mức giảm tiêu hao vật tư, chất lượng công
trình...
Tổng cục Thống kê hướng dẫn
phương pháp tính năng suất lao động trong xây lắp.
d) Các việc bảo vệ và nhận kế hoạch;
xét duyệt hoàn thành và quyết toán kế hoạch; bảo đảm hiệu lực của kế hoạch giao
cho đơn vị cơ sở, được áp dụng theo Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984 của
Hội đồng Bộ trưởng về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh.
8. Lập kế hoạch phát triển năng
lực xây lắp và các cơ sở vật chất - kỹ thuật ngành xây dựng theo phương châm kết
hợp cơ giới với thủ công, sử dụng hết lực lượng lao động và thiết bị hiện có, tổ
chức tốt việc sản xuất phụ tùng và bảo dưỡng sửa chữa. Trên có sở đó, có kế hoạch
nhập thêm máy xây dựng, nhằm bổ sung và đồng bộ hoá năng lực máy xây dựng,
tranh thủ kỹ thuật mới.
IV. THỰC
HIỆN CHẾ ĐỘ HẠCH TOÁN KINH TẾ
A. NHỮNG
YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC HẠCH TOÁN KINH TẾ
Hạch toán kinh tế trong xây dựng
cơ bản đang là một khâu rất yếu, còn mang nặng tính hình thức; nhiều công trình
không tính được giá thành chính xác và không quyết toán được.
Yêu cầu cấp bách là phải nhanh
chóng đưa công tác hạch toán kinh tế ở những đơn vị cơ sở trong xây dựng cơ bản
vào nề nếp nhằm:
1. Bảo đảm quyền tự chủ tài
chính của xí nghiệp dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước; bảo đảm doanh thu
bù đắp mọi chi phí sản xuất và có lãi; được khuyến khích bằng lợi ích vật chất
và phải chịu trách nhiệm vật chất về kết quả hoạt động của mình; chịu sự giám đốc
bằng đồng tiền đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Từng bước hạch toán đủ các
chi phí sản xuất vào giá thành xây dựng.
3. Thực hiện nghiêm chỉnh các định
mức kinh tế - kỹ thuật của Nhà nước, các chế độ kế toán Nhà nước, chế độ ghi
chép ban đầu, chế độ thanh tra, kiểm tra Nhà nước và chế độ quyết toán về tài
chính và vật tư.
4. Đẩy mạnh hạch toán ở đội, bao
gồm hạch toán vật tư, xe, máy, lao động, tiền lương và các khoản chi phí khác;
thực hiện hạch toán đối với từng nhóm, từng người lao động, bao gồm hạch toán
theo kết quả thực hiện các định mức, khoán sản phẩm hay khoán việc.
5. Thường xuyên phân tích hoạt động
kinh tế ở đơn vị cơ sở, đội, đối chiếu với các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức
kinh tế kỹ thuật, các chế độ, thể lệ quản lý kinh tế - tài chính, chú ý cả ba mặt
năng suất, chất lượng, hiệu quả.
B. ĐỂ BẢO ĐẢM
THỰC HIỆN NHỮNG YÊU CẦU NÓI TRÊN, PHẢI LÀM TỐT CÁC VIỆC SAU ĐÂY.
1. Xác định các định mức kinh tế
- kỹ thuật trung bình tiên tiến trong xây dựng cơ bản. Giao cho Uỷ ban Xây dựng
cơ bản Nhà nước cùng các cơ quan liên quan sửa đổi, bổ sung, ban hành hệ thống
định mức kinh tế - kỹ thuật tổng hợp trong xây dựng cơ bản trong năm 1985 theo
hệ thống tiêu chuẩn thống nhất của Nhà nước.
Các Bộ chủ quản phải làm tốt các
định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành trên cơ sở hợp lý hoá tổ chức sản xuất,
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và sử dụng tiết kiệm triệt để máy móc, thiết bị, vật
tư và sức lao động.
2. Từng bước tính đủ các chi phí
sản xuất vào giá thành dự toán xây lắp.
a) Về khấu hao tài sản cố định của
tổ chức xây dựng.
- Trong năm 1985, Bộ Tài chính
và các ngành có liên quan cùng các Bộ chủ quản xây lắp khẩn trương tiến hành kiểm
kê, đánh giá lại tài sản cố định của các tổ chức xây dựng.
- Trên cơ sở xác định quy mô hợp
lý của các tổ chức xây dựng mà xác định lại mức tài sản cố định ban đầu của cơ
sở.
- Bộ Tài chính và các ngành có
liên quan nghiên cứu sửa lại chế độ trích khấu hao (bao gồm khấu hao cơ bản và
khấu hao sửa chữa lớn) để đưa vào giá thành dự toán xây lắp.
- Trước mắt cần khẩn trương tiến
hành việc chuyển các xe, máy, thiết bị thi công, công xưởng phụ trợ nhập theo
thiết bị toàn bộ tài sản cố định của tổ chức xây lắp; hạch toán và thanh toán đối
với xe, máy, thiết bị thi công đã điều động cho đơn vị khác.
b) Đơn giá vật tư, vật liệu xây
dựng để tính vào giá thành dự toán được xác định theo nguồn cung ứng như sau:
- Vật tư, vật liệu do Nhà nước
cung ứng thì tính theo giá chỉ đạo do các cơ quan quản lý giá có thẩm quyền quyết
định. Trường hợp chưa có giá chỉ đạo thì được tạm tính của cơ quan cung ứng vật
tư, vật liệu theo Điều lệ quản lý giá.
- Đối với vật tư, vật liệu do
các đơn vị xây lắp tự kiếm thông qua các biện pháp liên doanh, lên kết, nếu là
những vật tư, vật liệu quan trọng do Nhà nước thống nhất quản lý mua theo giá
chỉ đạo của Nhà nước; đối với các loại khác mua bán theo giá thoả thuận thì
tính theo giá thực mua trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước nghiên cứu
việc xác định giá vật liệu đến chân công trình. Bộ Xây dựng và các Bộ chuyên
ngành khác nghiên cứu việc thống nhất cung ứng vật liệu xây dựng vào một tổ chức
đầu mối (công ty cung ứng vật liệu xây dựng) để tạo điều kiện thực hiện giá vật
liệu đến chân công trình.
c. Hạch toán đầy đủ tiền lương
vào giá thành dự toán xây lắp.
d. Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
ra quy định cụ thể về tỷ lệ phụ phí thi công, bảo đảm các chi phí cần thiết và
hợp lý theo tình hình giá cả còn biến động.
3. Làm tốt dự
toán xây lắp.
a. Căn cứ vào quy trình, quy phạm,
định mức, đơn giá thống nhất, các tổ chức thiết kế có trách nhiệm lập dự toán
công trình đúng khối lượng.
Nếu tổ chức xây lắp có sáng kiến
thay đổi thiết kế, thay thế vật liệu hiếm mà không ảnh hưởng đến yêu cầu kỹ thuật,
chất lượng công trình và tiến độ thi công, được cơ quan thiết kế và chủ đầu tư
chấp nhận thì được hưởng số tiền tiết kiệm được.
b. Tổ chức nhận thầu xây lắp được
quyền xem xét lại và thoả thuận với chủ đầu tư về dự toán theo thiết kế bản vẽ
thi công và thiết kế tổ chức xây dựng do cơ quan thiết kế lập trước khi ký hợp
đồng nhận thầu.
c. Chủ đầu tư có trách nhiệm
giao cho tổ chức nhận thầu xây lắp hai tháng trước khi tiến hành ký hợp đồng
giao nhận thầu xây lắp các tài liệu:
- Thiết kế và dự toán toàn bộ
công trình có thời gian xây dựng không quá một năm, hoặc thiết kế và dự toán
cho khối lượng xây lắp trong năm kế hoạch đối với công trình xây dựng nhiều
năm.
- Danh mục các loại vật tư, thiết
bị do chủ đầu tư đảm nhận cung ứng.
d. Giao các Bộ chủ quản xây lắp
có sự thoả thuận của Bộ Tài chính, Tổng cục thống kê và Ngân hàng Nhà nước
nghiên cứu ban hành tiêu chuẩn khối lượng xây lắp thực hiện được thanh toán đối
với công trình có dạng phức tạp và xây dựng nhiều năm.
đ. Chỉ cho phép bổ sung dự toán
xây lắp trong những điều kiện sau đây:
- Nhà nước thay đổi giá, thay đổi
tiền lương.
- Thay đổi nguồn cung cấp vật
tư, vật liệu (có giấy báo của tổ chức cung ứng và được cơ quan có thẩm quyền
xác nhận).
- Thay đổi khung giá phần vật
tư, vật liệu mua bằng giá thoả thuận.
- Bổ sung thiết kế.
e. Trong điều kiện sản xuất không
ổn định, nếu có những chi phí phát sinh do không lường trước được thì tổ chức
xây lắp cùng chủ đầu tư thoả thuận bổ sung dự toán trong phạm vi dự phòng của dự
toán xây lắp. Uỷ ban Vật giá Nhà nước phối hợp với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà
nước lập danh mục, phân loại vật tư, vật liệu xây dựng và chỉ định cơ quan có
thẩm quyền công bố giá các vật tư, vật liệu đó. Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
hướng dẫn thủ tục bổ sung dự toán và sử dụng vốn dự phòng đã ghi trong dự toán
xây lắp.
V. CẢI TIẾN
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KINH TẾ, TÀI CHÍNH
1. Tài chính:
Để bảo đảm quyền tự chủ tài
chính của các tổ chức xây lắp, Bộ Tài chính sửa đổi một số chế độ về vốn, cụ thể
là:
a) Vốn lưu động:
Các đơn vị cơ sở được Nhà nước cấp
50% vốn lưu động định mức; ngoài ra thì vay ngân hàng.
Các đơn vị cơ sở được trích một
phần quỹ phát triển sản xuất để bổ sung vốn lưu động.
b) Vốn tự có:
Đơn vị cơ sở được lập và mở rộng
vốn tự có từ các nguồn:
- Vốn do ngân sách cấp theo chế
độ hiện hành.
- Quỹ khuyến khích phát triển sản
xuất.
- Phần trích khấu hao cơ bản để
lại xí nghiệp (bao gồm cả phần trích khấu hao cơ bản những tài sản cố định đã
khấu hao hết nhưng vẫn còn tham gia sản xuất, những tài sản cố định đầu tư bằng
vốn tự có của đơn vị hoặc bằng vốn vay ngân hàng).
- Các nguồn thu khác do chế độ
Nhà nước quy định.
Vốn tự có năm trước được chuyển
sang năm sau không phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
c) Vốn tự
có dành cho đầu tư xây dựng cơ bản của đơn vị xây lắp bao gồm:
- Vốn khấu hao cơ bản để lại.
- Một phần quỹ khuyến khích phát
triển sản xuất.
- Một phần quỹ phúc lợi.
Vốn này phải gửi vào Ngân hàng đầu
tư và xây dựng; Ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở rút được vốn dễ
dàng.
2. Về tín dụng:
a) Về việc trả lãi vốn lưu động
vay vốn ngân hàng, nếu hoàn thành công trình đúng hạn, lãi vay vốn lưu động của
Ngân hàng được tính vào dự toán xây lắp; nếu vì xây dựng kéo dài mà phải vay
thêm vốn lưu động thì bên vi phạm hợp đồng phải trả lãi về số vốn vay thêm; nếu
công trình được hoàn thành đưa vào khai thác trước thời hạn thì đơn vị xây lắp
được hưởng phần lãi được giảm.
b) Đối với công trình nhập thiết
bị toàn bộ, nếu do vật tư về trước hoặc về chậm so với tiến độ thi công mà đơn
vị xây lắp phải vay thêm vốn lưu động để dùng vào các chi phí mới phát sinh,
thì lãi về số vốn vay thêm được thanh toán và bổ sung vào dự toán công trình.
c) Ngân hàng Nhà nước cho vay
ngoại tệ đối với các cơ sở có đủ điều kiện quy định (nhất là đối với các đơn vị
đưa lao động xây dựng đi làm việc ở nước ngoài, thi công công trình cho cơ quan
nước ngoài trên đất Việt Nam, sản xuất vật liệu xuất khẩu, các vật liệu thay thế
vật tư nhập khẩu). Cho phép những liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty có đủ
điều kiện được quyền vay vốn trực tiếp của nước ngoài với sự bảo lãnh của Ngân
hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với
Bộ Tài chính ra quy định cụ thể về cho vay và quyền sử dụng ngoại tệ theo cơ chế
chung của Nhà nước.
d) Cơ quan ngân hàng cải tiến thủ
tục cho vay và rút tiền mặt, quy định lại mức tiền mặt tồn quỹ hợp lý, đáp ứng
kịp thời yêu cầu thi công và khai thác vật tư, vật liệu xây dựng.
3. Lợi nhuận định
mức và phân phối lợi nhuận:
a) Tỷ lệ lợi
nhuận định mức cho các tổ chức khảo sát, thiết kế, xây lắp nay quy định từ 8% đến
12% trên giá thành dự toán xây lắp, khảo sát và giá thiết kế.
Bộ Tài chính cùng với Uỷ ban Vật
giá Nhà nước, Uỷ ban xây dựng cơ bản Nhà nước và Bộ chủ quản nghiên cứu quy định
tỷ lệ cụ thể cho từng ngành và hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện.
b) Phân phối lợi
nhuận:
- Đối với khối lượng xây lắp
theo chỉ tiêu pháp lệnh, lợi nhuận thực hiện của đơn vị cơ sở được phân phối
như sau:
Phần khối lượng xây lắp bằng vật
tư do Nhà nước cấp để lại cơ sở 50%, nộp ngân sách Nhà nước (Ngân sách trung
ương và Ngân sách địa phương) 50%. Phần khối lượng xây lắp bằng vật tư do đơn vị
tự tìm kiếm để lại cơ sở từ 60% đến 80%, nộp ngân sách Nhà nước (bao gồm ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương) từ 20% đến 40%. Bộ Tài chính cùng với
Bộ chủ quản quy định mức cụ thể do từng ngành xây lắp.
- Đối với khối
lượng xây lắp ngoài chỉ tiêu pháp lệnh thì sau khi làm đủ nghĩa vụ đối với Nhà
nước, phần lợi nhuận thu được dùng để lập ba quỹ của đơn vị cơ sở.
Lợi nhuận để lại đơn vị cơ sở
sau khi thanh toán các khoản nộp bắt buộc, còn lại (tính 100%) được phân phối
cho các quỹ theo tỷ lệ sau đây:
Trích cho quỹ khuyến khích phát
triển sản xuất và bổ sung vốn lưu động tuỳ theo ngành từ 35% trở lên và không hạn
chế mức cao nhất, trong đó dành từ 1% đến 3% để lập quỹ dự trữ tập trung ở cấp
liên hiệp các xí nghiệp (nếu có) và cấp Bộ, Sở.
Số còn lại, sau khi đã dành 1% để
lập quỹ Bộ trưởng (và Tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp, nếu có) là để lập
quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Giám đốc đơn vị cùng với công đoàn quyết định
tỷ lệ trích cho mỗi loại quỹ theo hướng dành khoảng 1/3 cho quỹ phúc lợi và 2/3
cho quỹ khen thưởng.
Toàn bộ quỹ phúc lợi để lại cho
xí nghiệp do công đoàn cơ sở cùng với giám đốc lập phương án sử dụng, đưa ra hội
nghị công nhân viên chức thảo luận và quyết định. Tổng công đoàn và Bộ Tài
chính hướng dẫn việc sử dụng quỹ phúc lợi của xí nghiệp.
Nếu quỹ khen thưởng vượt quá 30%
của quỹ lương cơ bản thì đơn vị phải nộp tỷ lệ phần trăm theo luỹ tiến từng phần
vào ngân sách Nhà nước theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính.
4. Mở rộng
khoán sản phẩm trong xây dựng.
a. Mở rộng làm khoán trong xây lắp
theo hướng áp dụng các hình thức khoán gắn với sản phẩm cuối cùng, thực hiện kết
hợp khoán cả tiền lương, tiền thưởng, chi phí vật liệu và chi phí quản lý.
Trong tổ chức xây lắp, người
giao khoán là giám đốc đơn vị; bên nhận khoán chủ yếu là đội nhận khoán xây lắp.
b. Các hình thức giao khoán, nhận
khoán, các chỉ tiêu, đơn giá, hợp đồng khoán, trách nhiệm và quyền hạn được quy
định cụ thể trong bản quy chế về khoán sản phẩm xây lắp các công trình xây dựng
của Nhà nước.
5. Một số
chính sách về lao động và tiền lương.
a. Định mức
lao động và đơn giá tiền lương.
Bộ Lao động phối hợp với Uỷ ban
Xây dựng cơ bản Nhà nước cùng các Bộ chuyên ngành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung định
mức lao động trong xây dựng cơ bản cho phù hợp với điều kiện hiện nay; khẩn
trương xây dựng định mức lao động tổng hợp làm cơ sở lập kế hoạch và dự toán
công trình.
Đơn giá tiền lương trong dự toán
xây lắp phải bao gồm tiền lương ổn định và tiền lương biến động được bảo đảm bằng
phụ cấp đắt đỏ theo chỉ số giá sinh hoạt trong từng thời gian theo khu vực do
cơ quan có thẩm quyền xác định.
Bộ Lao động cùng với Uỷ ban Xây
dựng cơ bản Nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn xây dựng và duyệt đơn
giá tiền lương cho đơn vị sản phẩm hay mức chi phí tiền lương cho 1000 đồng giá
trị sản lượng xây lắp phù hợp với từng loại công trình để làm căn cứ lập quỹ
lương.
b. Quỹ tiền
lương và hình thức trả lương, thưởng.
Quỹ tiền lương kế hoạch của đơn
vị xây lắp được xây dựng trên cơ sở đơn giá tiền lương và chỉ tiêu kế hoạch giá
trị sản lượng xây lắp thực hiện được giao. Trường hợp hoàn thành vượt mức kế hoạch
thì đơn vị được nhận thêm tiền lương tương ứng. Trường hợp thực hiện thấp hơn kế
hoạch thì bị giảm quỹ lương tương ứng. Nếu vì lý do chủ quan thì đơn vị phải
trích từ quỹ khen thưởng của mình hoặc phải vay của ngân hàng để trả ngân hàng
số tiền lương đã được ứng trước vượt mức.
Căn cứ vào quỹ lương kế hoạch,
hàng tháng ngân hàng ứng trước tiền lương cho đơn vị cơ sở, hàng quý thanh toán
và cuối năm quyết toán quỹ lương cả năm theo giá trị sản lượng thực hiện.
Giám đốc xí nghiệp được quyền áp
dụng những hình thức trả lương và thưởng thích hợp để gắn tiền lương, tiền thưởng
với kết quả sản xuất và lợi nhuận.
c. Một số chế
độ khác đối với lao động.
Bộ Lao động cùng với Uỷ ban Xây
dựng cơ bản Nhà nước nghiên cứu sửa đổi một số khoản phụ cấp đặc biệt đối với
lao động xây dựng như lưu động thường xuyên, làm việc ở miền núi, biên giới, hải
đảo và ở hai nước Lào và Cămpuchia.
Thực hiện chính sách đầu tư xây
dựng nhà ở cố định cho cán bộ, công nhân xây dựng. Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà
nước phối hợp với Bộ Tài chính cùng các Bộ chủ quản xây lắp nghiên cứu tỷ lệ
kinh phí xây dựng nhà ở tạm tại công trường để trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
ban hành.
d. Chế độ quản
lý lao động.
Giám đốc đơn vị xây lắp được quyền
tuyển dụng lao động theo yêu cầu của sản xuất xây dựng, cho thôi việc đối với
công nhân, viên chức không còn phù hợp với yêu cầu sản xuất.
Công nhân, viên chức được quyền
xin thôi việc và được hưởng các quyền lợi theo quy định của Nhà nước.
Khuyến khích cơ sở xây lắp sử dụng
lao động theo hợp đồng. Giám đốc đơn vị xây lắp được bố trí nhân viên gián tiếp
ít hơn định biên và bố trí lại lao động theo yêu cầu hợp lý hoá tổ chức sản xuất.
Giao Bộ Lao động cùng các ngành
liên quan và các địa phương nghiên cứu sửa đổi chế độ đăng ký hộ khẩu, cấp phát
tem phiếu cho phù hợp với đặc điểm của lao động trong ngành xây dựng.
VI. TĂNG CƯỜNG
BỘ MÁY QUẢN LÝ XÂY DỰNG CƠ BẢN VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG NHÂN
1. Các Bộ chủ quản đầu tư có khối
lượng đầu tư xây dựng cơ bản lớn cần kiện toàn vụ xây dựng cơ bản đủ khả năng
giúp Bộ trưởng quản lý công tác xây dựng cơ bản toàn ngành, làm tốt công tác quản
lý chuẩn bị đầu tư, trình duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật, thiết kế, dự
toán, quản lý công tác giao thầu, kiểm tra chất lượng công trình và chuẩn bị sản
suất. Kiện toàn các ban quản lý công trình; Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước hướng
dẫn việc tổ chức và nội dung hoạt động của ban quản lý công trình.
Các Bộ chuyên ngành xây lắp cần
sắp xếp lại cơ cấu tổ chức quản lý xây dựng cơ bản thuộc Bộ để đủ sức quản lý
công tác xây dựng của ngành và phục vụ tốt các đơn vị cơ sở.
Ban Tổ chức của Chính phủ phối hợp
với các ngành có liên quan phân định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các Uỷ ban
Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư, Ngân hàng Nhà nước đối với các Bộ chủ quản đầu
tư và chủ quản xây lắp.
2. Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành
phố có trách nhiệm thực hiện quản lý việc xây dựng trên lãnh thổ theo quy hoạch
được cấp có thẩm quyền duyệt; quản lý địa điểm và đất xây dựng; quản lý kiến
trúc và môi trường; quản lý khai thác công trình kỹ thuật và công trình phục vụ
công cộng; quản lý đơn giá dự toán khu vực; cung ứng vật liệu xây dựng tại chỗ
và công tác dịch vụ đời sống cho lao động xây dựng.
Ban Tổ chức của Chính phủ phối hợp
với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước và các ngành có liên quan cùng Uỷ ban Nhân
dân tỉnh, thành phố nghiên cứu cụ thể việc phân cấp và tổ chức quản lý xây dựng
cơ bản ở cấp huyện.
3. Tăng cường và nâng cao chất
lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật, nhất là cán bộ chủ chốt
ở các đơn vị cơ sở. Tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý tổng
hợp về kinh tế - kỹ thuật xây dựng cơ bản ở các ngành, các tỉnh các thành phố
và đặc khu trực thuộc Trung ương.
Thường xuyên bồi dưỡng cho các
cán bộ khoa học, kỹ thuật những kiến thức mới về tiến bộ khoa học - kỹ thuật
trong ngành và những hiểu biết phổ thông về kinh tế xây dựng cơ bản.
Chấn chỉnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng công nhân theo hướng kết hợp việc đào tạo công nhân tại trường với việc
kèm cặp, nâng cao tay nghề tại cơ sở sản xuất, đặc biệt chú ý đến những công
nhân bậc cao, có tay nghề giỏi.
VII. TỔ CHỨC
CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
1. Các Bộ, các ngành liên quan
căn cứ vào những quy định trên đây trong tháng 1 năm 1985 phải ra các văn bản
hướng dẫn thực hiện. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, các ngành để việc
hướng dẫn được thống nhất và đồng bộ. Các văn bản hướng dẫn phải gửi về Văn
phòng Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước góp ý kiến trước
khi ban hành.
2. Căn cứ vào Nghị quyết này,
các Bộ chủ quản, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung
ương lập phương án cụ thể để thực hiện trong ngành và địa phương. Uỷ ban Xây dựng
cơ bản Nhà nước cùng các cơ quan chức năng tổng hợp của Hội đồng Bộ trưởng giúp
đỡ các Bộ và địa phương làm các phương án cụ thể.
3. Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
cùng các cơ quan tổng hợp liên quan phối hợp với một số Bộ chủ quản xây lắp và
một số địa phương trọng điểm chỉ đạo áp dụng cơ chế mới này trong quý I năm
1985 tại một số cơ sở xây lắp và công trình trọng điểm từ đó rút kinh nghiệm và
hoàn thiện cơ chế quản lý xây dựng cơ bản.
4. Các đồng chí Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ
tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương có
trách nhiệm tổ chức thực hiện đầy đủ Nghị quyết này tạo ra chuyển biến mới
trong quản lý xây dựng cơ bản để các cơ sở trong ngành xây dựng vươn lên hoàn
thành mục tiêu đưa nhanh các công trình vào khai thác, bảo đảm chất lượng và
giá thành hợp lý.
Nghị quyết này có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1985. Những quy định trước đây trái với văn bản
này đều bãi bỏ.