BỘ
TÀI CHÍNH
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
275-TC/PC
|
Hà
Nội, ngày 31 tháng 8 năm 1987
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC THỐNG NHẤT PHÁT HÀNH, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VÉ PHẠT
TIỀN, BIÊN LAI THU TIỀN PHẠT TRONG VIỆC XỬ PHẠT BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH CÁC
HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT
Căn
cứ Nghị định số 35-CP ngày 9-2-1981 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một số lĩnh vực
quản lý Nhà nước;
Để thi hành Nghị định số 46-HĐBT ngày 10-5-1983 của Hội đồng Bộ trưởng nhằm quản
lý nguồn thu từ việc xử phạt tiền bằng biện pháp hành chính các vi phạm pháp luật;
Theo đề nghị của đồng chí Vụ trưởng Vụ Pháp chế,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều
1. Nay ban hành kèm theo Quyết định này chế
độ thống nhất phát hành, quản lý và sử dụng vé phạt tiền, biên lai thu tiền phạt
trong việc xử phạt bằng biện pháp hành chính các hành vi vi phạm pháp luật.
Điều 2.
Uỷ nhiệm cho Sở Tài chính các tỉnh, thành phố, đặc
khu trực thuộc Trung ương tổ chức in, quản lý, cấp phát các loại vé phạt tiền,
biên lai thu tiền phạt cho các đơn vị có chức năng xử phạt hành chính tại địa
phương theo đúng mẫu và hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Điều 3.
Giám đốc Sở Tài chính, thủ trưởng các ngành, các cấp,
các đơn vị có chức năng xử phạt hành chính chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này.
Điều 4.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1
tháng 9 năm 1987. Những văn bản ban hành trái với Quyết định này đều bãi bỏ. Những
loại vé phạt tiền, biên lai thu tiền phạt không thuộc ngành Tài chính phát hành
đều không có giá trị sử dụng kể từ ngày Sở Tài chính công bố thống nhất quản lý
vé phạt tiền, biên lai thu tiền phạt trong địa phương.
QUY
ĐỊNH
VIỆC THỐNG NHẤT PHÁT HÀNH, QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VÉ PHẠT TIỀN,
BIÊN LAI THU TIỀN PHẠT TRONG VIỆC XỬ PHẠT BẰNG BIỆN PHÁP HÀNH CHÍNH CÁC HÀNH VI
VI PHẠM PHÁP LUẬT
(Kèm theo Quyết định số 275-TC/PC ngày 31-8-1987 của Bộ Tài chính)
I.
NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Bộ uỷ nhiệm cho
Giám đốc Sở Tài chính các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương tổ chức
in các loại vé phạt tiền, biên lai thu tiền phạt các vi phạm hành chính (sau
đây gọi tắt là biên lai, vé phạt tiền) và chịu trách nhiệm về việc thống nhất
phát hành, quản lý, hướng dẫn sử dụng biên lai, vé phạt tiền theo đúng quy định
của Bộ Tài chính trong phạm vi địa phương mình.
2. Biên lai, vé phạt chỉ cấp cho
các ngành, các cơ quan, đơn vị (sau đây gọi tắt là đơn vị) có chức năng xử phạt
hành chính đã được Nhà nước quy định tại các văn bản hiện hành.
3. Mọi việc phạt tiền và thu tiền
phạt về vi phạm hành chính đều phải sử dụng biên lai, vé phạt tiền do Sở Tài
chính phát hành. Tất cả các đơn vị có nhu cầu sử dụng biên lai, vé phạt tiền tại
cơ quan tài chính cùng cấp. Các cơ quan Trung ương đóng tại địa phương nào thì
nhận biên lai, vé phạt tiền tại Sở Tài chính địa phương đó. Riêng đối với ngành
thuế công thương nghiệp được sử dụng biên lai phạt về thuế do Cục thuế công
thương nghiệp - Bộ Tài chính phát hành.
Cơ quan tài chính phải đáp ứng đầy
đủ và kịp thời các loại biên lai, vé phạt tiền cho các đơn vị sử dụng.
4. Các đơn vị sử dụng biên lai,
vé phạt tiền phải chịu sự kiểm tra, hướng dẫn của cơ quan tài chính, phải thực
hiện quyết toán việc sử dụng biên lai, vé phạt tiền cũng như số tiền phạt với
cơ quan tài chính.
II.
NHỮNG QUY ĐỊNH CỤ THỂ
1. Biên lai, vé phạt
tiền được cấp cho các đơn vị có chức năng xử phạt hành chính như quản lý thị
trường, công an, vật giá, kiểm lâm nhân dân, thú y, xây dựng cơ bản, thuỷ sản,
ngân hàng, hải quan, trọng tài kinh tế, văn hoá... dùng để thu tiền phạt các vi
phạm hành chính như đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, vi phạm
quy tắc trật tự an toàn giao thông; vi phạm chính sách giá cả, vi phạm quy tắc
vệ sinh kiểm dịch; xây dựng nhà cửa, lều quán trái phép; vi phạm chế độ trồng,
bảo vệ và khai thác rừng, vận chuyển trái phép tài nguyên rừng; vi phạm chế độ
bảo vệ nguồn thuỷ sản; vi phạm các quy định về quản lý vàng bạc, kim khí, đá
quý, ngoại tệ, vi phạm chế độ vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới và
các cửa khẩu, vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế; và các vi phạm hành chính khác
theo quyết định của các cơ quan có thẩm quyền.
2. Vé phạt tiền có các loại: 50
đồng, 100 đồng và 500 đồng.
Biên lai thu tiền phạt có 2
liên.
Biên lai, vé phạt tiền được đóng
thành quyển, mỗi quyển có 100 (một trăm) số.
Các loại vé phạt tiền chỉ dùng xử
phạt các vụ vi phạm có mức xử phạt từ 50 đồng đến 500 đồng (năm trăm đồng).
Biên lai thu tiền phạt dùng để
thu tiền phạt các vi phạm có mức xử phạt trên 500 đồng (năm trăm đồng).
3. Quản lý biên lai, vé phạt tiền:
a) Những đơn vị có nhu cầu sử dụng
biên lai, vé phạt tiền như đã quy định ở điểm 2, mục I và điểm 1, mục II, phải
làm dự trù số lượng từng loại biên lai, vé phạt tiền trước 1 tháng với cơ quan
tài chính.
Các phòng tài chính quận, huyện,
thị xã tổng hợp dự trù số lượng cần dùng của cấp mình gửi cho Sở Tài chính.
Sở Tài chính tổng hợp nhu cầu
chung trong địa phương tổ chức in ấn cấp phát bảo đảm đúng, đủ, kịp thời cho
các đơn vị sử dụng.
Khi giao nhận biên lai, vé phạt
tiền giữa các cơ quan tài chính cũng như giữa cơ quan tài chính với đơn vị sử dụng
phải được quản lý chặt chẽ như giao nhận tiền và tài sản. Người đi nhận phải
đăng ký họ tên, chữ ký trước với cơ quan tài chính nơi cấp phát và khi đến nhận
phải xuất trình giấy giới thiệu của đơn vị. Việc giao nhận phải kiểm đếm từng
loại và làm thủ tục xuất, phải ký nhận vào sổ sách chứng từ đúng quy định.
Khi lĩnh về đến đơn vị phải làm
thủ tục nhập kho và phải tổ chức bảo quản kho nghiêm ngặt. Khi xuất kho để giao
cho từng cá nhân sử dụng phải làm thủ tục xuất kho và phải ký nhận từng loại
biên lai, vé phạt tiền vào sổ cấp phát, phải có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm
khi xảy ra mất mát.
b) Trước khi giao biên lai, vé
phạt tiền cho các đơn vị sử dụng, cơ quan tài chính phải đóng dấu vào góc trên
bên trái của biên lai, vé phạt tiền.
Khi đơn vị sử dụng lĩnh biên
lai, vé phạt tiền về, trước khi đưa ra sử dụng phải đóng dấu của đơn vị mình
vào góc dưới bên phải.
Cán bộ thu tiền phạt phải ghi đầy
đủ các mục đã in sẵn, ghi rõ họ tên, chức vụ, chữ ký và phải viết trước mặt
đương sự.
Biên lai phải dùng giấy than viết
một lần cho 2 liên: liên số 1 để lưu, liên số 2 giao đương sự.
Vé phạt tiền viết cả phần cuống,
phần cuống để lưu, phần vé phạt giao cho đương sự.
c) Hàng tháng, quý, năm hoặc từng
đợt đơn vị sử dụng biên lai, vé phạt tiền phải quyết toán số lượng đã nhận, đã
sử dụng, số lượng còn lại của từng loại biên lai, vé phạt tiền với cơ quan tài
chính phục vụ mình.
Cơ quan tài chính phải kiểm tra
việc sử dụng và quyết toán biên lai, vé phạt tiền của từng đơn vị, có nhận xét
báo cáo Uỷ ban Nhân dân cùng cấp.
d) Trường hợp xảy ra hư hỏng (do
bị rách, viết nhầm lẫn) thì phải để nguyên hiện trạng để làm cơ sở thanh toán với
cơ quan cấp phát.
Trường hợp mất biên lai, vé phạt
tiền phải truy cứu trách nhiệm vật chất, hành chính hoặc hình sự. Người để mất
vé phạt tiền phải đền bù bằng số tiền ghi trên từng vé phạt đã bị mất, đối với
biên lai thì mỗi số biên lại bị mất phải đền bù một số tiền bằng số tiền ghi ở
biên lai có số tiền phạt cao nhất trong số biên lai đã thu tiền phạt của đơn vị,
trong khoảng 30 ngày kể từ ngày số biên lai bị mất trở về trước.
Trường hợp có nghi vấn là tham
ô, tiêu huỷ để phi tang hoặc có hành vi gian lận khác các loại biên lai, vé phạt
tiền cần phải được tiến hành điều tra, xác minh ngay cho rõ sự thật của sự việc.
Việc xác minh này do các đơn vị quản lý người bị nghi vấn phải chịu trách nhiệm
xem xét, kết luận cụ thể, bằng văn bản báo cáo với Uỷ ban Nhân dân và cơ quan
tài chính cùng cấp.
Nếu sự việc có tính chất nghiêm
trọng thì đơn vị đó và cơ quan tài chính cùng cấp phải báo cho Viện kiểm sát
nhân dân để xử lý về hình sự.
d) Các loại sổ sách theo dõi gồm
có:
- Báo cáo tình hình phát hành
biên lai, vé phạt áp dụng đối với Phòng Tài chính, Sở Tài chính để báo cáo lên
cấp trên. Sở Tài chính báo cáo Bộ Tài chính (Vụ Ngân sách Nhà nước).
- Sổ theo dõi cấp phát... dùng
cho các Phòng Tài chính, Sở Tài chính.
- Sổ lĩnh và thanh toán biên
lai, vé phạt dùng cho các Phòng Tài chính,
các đơn vị sử dụng và cá nhân
cán bộ để theo dõi tình hình sử dụng và thanh toán.
4. Quản lý số tiền phạt đã thu
được:
Tất cả các trường hợp phạt tiền,
người được quyền xử phạt phải viết biên lai, vé phạt tiền và thu đúng số tiền
ghi trên biên lai, vé phạt; đồng thời phải giao một biên lai hoặc vé phạt cho
người bị phạt. Từng ngày người đi phạt phải nộp đầy đủ số tiền phạt đã thu được
cho thủ quỹ của đơn vị.
Đơn vị phải nộp toàn bộ hoặc một
phần số tiền phạt đã thu được (sau khi trừ phần được trích thưởng theo chế độ
hiện hành cho phép) vào ngân sách Nhà nước theo định kỳ (theo thoả thuận giữa
cơ quan tài chính với đơn vị sử dụng biên lai, vé phạt trên cơ sở số tiền phạt
thu được nhiều hay ít) vào loại IV, khoản 81, các hạng mục thích hợp theo mục lục
ngân sách Nhà nước hiện hành.
- Đối với cấp quận, huyện, thị
xã nộp vào TK 750.
- Đối với cấp tỉnh, thành phố nộp
vào TK 730.
- Đối với cấp Trung ương nộp vào
TK 710.
Cuối tháng, cuối quý đơn vị phải
báo cáo quyết toán số tiền phạt đã thu được, số tiền được trích thưởng (theo chế
độ), số tiền đã nộp ngân sách, số tiền còn thiếu... với cơ quan Tài chính nơi
đơn vị giao dịch nhận biên lai, vé phạt.
Cơ quan Tài chính phải thường
xuyên kiểm tra và đối chiếu với số thực nộp vào tài khoản của ngân sách và có
nhận xét quyết toán của đơn vị.
III.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
- Sở Tài chính có
trách nhiệm báo cáo Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu quyết định kế hoạch
triển khai thực hiện quy định này trong địa phương.
- Các Sở Tài chính, Phòng Tài
chính thống nhất với các cơ quan có liên quan hướng dẫn những thủ tục cần thiết
cho các đơn vị có chức năng xử phạt hành chính bảo đảm việc thực hiện quy định
này được đúng đắn, kịp thời.
- Chậm nhất 60 ngày sau quyết định
của Bộ, Sở Tài chính phải hoàn thành thống nhất quản lý vé phạt tiền, biên lai
thu tiền phạt trong địa phương.
- Trong quá trình thực hiện nếu
có những khó khăn vướng mắc gì, các địa phương, các đơn vị cơ sở báo cáo Bộ Tài
chính biết để kịp thời giải quyết.