BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 09/BC-BTP
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 01
năm 2018
|
BÁO CÁO
TỔNG KẾT THI HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Kính gửi:
Thủ tướng Chính phủ
Thực hiện chỉ đạo của Phó Thủ tướng
thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình tại Công văn số 1798/VPCP-PL ngày
28/02/2017: “Giao Bộ Tư pháp: Tiếp tục tổng hợp các vấn đề vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính; tiến hành tổng kết 04 năm thực hiện Luật, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết
định trong tháng 10 năm 2017”. Bộ Tư pháp đã phối hợp
các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (UBND
cấp tỉnh) tiến hành tổng kết thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật
XLVPHC). Trên cơ sở Báo cáo tổng kết của 63 địa phương, 21 Bộ, cơ quan ngang Bộ
và kết quả Hội nghị tổng kết thi hành Luật XLVPHC, Bộ Tư pháp xin báo cáo về
tình hình và kết quả thi hành Luật XLVPHC như sau:
I. KẾT QUẢ TRIỂN
KHAI THI HÀNH LUẬT XLVPHC
1. Tình hình triển
khai thi hành Luật XLVPHC
1.1. Công tác xây
dựng, hoàn thiện pháp luật về XL VPHC
- Việc ban hành các văn bản quy định
chi tiết Luật XLVPHC: Sau khi Quốc hội thông qua Luật
XLVPHC, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch triển khai và Danh mục nghị định
quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC ban hành kèm theo Quyết định số
1473/QĐ-TTg ngày 05/10/2012. Để Luật XLVPHC được thực thi,
Chính phủ đã ban hành các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật XLVPHC, đặc
biệt là hệ thống các nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước. Trên cơ sở các Nghị định do Chính phủ ban hành, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ cũng đã chủ động ban hành các Thông tư và Thông tư liên tịch hướng dẫn
cụ thể quy định của Nghị định trong lĩnh vực do mình quản lý (Chi tiết xem lại Phụ lục 01 và 02 kèm theo Báo cáo này)1.
Trải qua gần 5 năm triển khai thi
hành Luật, nhìn chung có thể thấy các văn bản hướng dẫn Luật đã được ban hành
và sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với sự thay đổi của
pháp luật chuyên ngành cũng như đòi hỏi của thực tiễn quản lý, tạo cơ sở pháp lý phòng chống các hành vi vi phạm, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
trong từng lĩnh vực chuyên ngành.
- Việc xây dựng, trình phê duyệt
và triển khai các Đề án: Theo Quyết định số
1473/QĐ-TTg, các Bộ, cơ quan ngang Bộ phải xây dựng, trình Chính phủ phê duyệt
các Đề án triển khai thi hành Luật XLVPHC: (i) Đề án xây dựng tổ chức, bộ máy, biên
chế triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi
hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) của Bộ Tư pháp và các cơ
quan tư pháp địa phương; (ii) Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC;
(iii) Đề án quản lý người chưa thành niên trong thời gian giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; tiếp nhận, nuôi dưỡng đối tượng sau khi hết hạn chấp hành BPXLHC tại
các cơ sở bảo trợ xã hội. Tính đến nay, chỉ còn Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc
gia về XLVPHC hiện đang trình Chính phủ xem xét, quyết định triển khai thực hiện.
- Tại các địa phương: về cơ bản, các địa phương không ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
(QPPL) về XLVPHC mà chủ yếu tổ chức triển khai thực hiện các văn bản do cơ quan
có thẩm quyền ở Trung ương ban hành. Tuy nhiên, một số địa phương2 cũng đã ban hành theo thẩm
quyền các văn bản QPPL về XLVPHC trên địa bàn. Các văn bản này là những văn bản
pháp luật quan trọng, tạo điều kiện để các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn địa
phương triển khai có hiệu quả các quy định cụ thể của pháp luật về XLVPHC tại địa
phương, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về XLVPHC.
1.2. Công tác tuyên truyền, phổ
biến, bồi dưỡng, tập huấn, hướng dẫn kỹ năng, nghiệp vụ
- Đối với Bộ Tư pháp: Để triển khai nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp đã chủ
trì, phối hợp với các Bộ, ngành tổ chức biên soạn tài liệu, biên soạn sách, mở
chuyên mục về XLVPHC trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; mở các chuyên
trang, chuyên mục đăng bài viết, đưa tin trên một số báo, tạp chí, đài phát
thanh, truyền hình; giải đáp vướng mắc, kịp thời cung cấp thông tin về tình
hình triển khai thi hành Luật XLVPHC;...
Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng chú trọng
công tác tập huấn, đào tạo bồi dưỡng kiến thức, pháp luật về XLVPHC, tính đến
nay, Bộ Tư pháp đã tổ chức khoảng 30 đợt tập huấn3. Đồng thời, Cục QLXLVPHC&TDTHPL (Bộ Tư pháp)
cũng đã kịp thời có các văn bản hướng dẫn về kỹ năng, nghiệp vụ áp dụng pháp luật
về XLVPHC theo yêu cầu của các Bộ, ngành và địa phương4.
- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật XLVPHC và các văn bản quy định
chi tiết Luật chủ yếu được thực hiện thông qua hội nghị triển khai, hội nghị tập
huấn, hội nghị trực tuyến hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài
ra, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực, các Bộ cũng tiến
hành tổ chức các hội nghị tập huấn về kỹ năng và nghiệp vụ cho các chức danh có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và địa
phương, điển hình là các Bộ: Quốc phòng; Tài chính; Công
Thương; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
Thông tin và Truyền thông; Kế hoạch và Đầu tư; Giao thông vận tải.
- Tại các địa phương: Công tác phổ biến, tuyên truyền được các UBND các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quan tâm chỉ đạo, giao Sở Tư pháp, Hội đồng phối hợp phổ biến,
giáo dục pháp luật tỉnh, phối hợp với các Sở, ban, ngành, đoàn thể tỉnh và UBND
cấp huyện tổ chức hội nghị triển khai Luật XLVPHC kịp thời đến cán bộ, công chức,
viên chức và nhân dân bằng nhiều hình thức như: biên soạn chuyên mục hỏi đáp về
Luật XLVPHC phát trên đài truyền thanh, truyền hình; mở các chuyên trang,
chuyên đề và tăng thời lượng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về XLVPHC; phát tờ
rơi, tờ gấp; tổ chức cuộc thi tìm hiểu về Luật XLVPHC nhằm nâng cao ý thức tôn
trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đối với các quy định của Luật
XLVPHC5.v.v.
Về công tác bồi dưỡng, tập huấn pháp
luật về XLVPHC và công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC: hầu hết các địa
phương đã cử cán bộ tham dự các đợt bồi dưỡng, tập huấn pháp luật về XLVPHC và
công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC do Bộ Tư pháp tổ chức. Bên cạnh
đó, các sở, ban, ngành (như Cục Thuế, Sở Giao thông vận tải, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Sở Công Thương...) cũng đã cử các cán bộ, công chức thuộc
ngành mình quản lý tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn XLVPHC do các Bộ, ngành
chủ quản tổ chức cũng như tổ chức tập huấn cho toàn thể cán
bộ, công chức trong ngành về XLVPHC. Ngoài ra, có địa phương cũng đã chủ động tổ
chức các hội nghị triển khai, các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu về XLVPHC
trên địa bàn các tỉnh, thành phố với sự tham gia của các Báo cáo viên của Bộ Tư
pháp.
1.3. Công tác kiểm tra, phối hợp
thanh tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC tại các Bộ, ngành, địa phương
- Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ: Sau khi Luật XLVPHC được ban hành và có hiệu lực, hầu hết việc kiểm
tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ được tổ chức
thực hiện dưới hình thức lồng ghép với các chuyên đề theo dõi thi hành pháp luật
về XLVPHC trong từng lĩnh vực cụ thể hoặc các cuộc thanh tra hành chính. Tuy
nhiên, cũng có một số Bộ đã xây dựng Kế hoạch kiểm tra riêng về việc thi hành
pháp luật về XLVPHC6.
Công tác phối hợp giữa các Bộ trong
việc kiểm tra cũng được một số Bộ thực hiện thường xuyên, cụ thể: Hằng năm, Bộ Tư pháp đều tổ chức các cuộc Kiểm tra
liên ngành về tình hình thi hành pháp luật về XLVPHC cũng như trong các lĩnh vực
cụ thể, cùng với đó, các Bộ cũng tích cực cử cán bộ tham gia các Đoàn kiểm tra
liên ngành do Bộ Tư pháp chủ trì7.
- Tại các địa phương: Các địa phương quan tâm thực hiện, thường xuyên đôn đốc làm tốt chức
năng hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật. Qua các Báo
cáo tổng kết thi hành Luật XLVPHC cho thấy, hầu hết các địa phương đều ban hành
các Kế hoạch kiểm tra thi hành pháp luật về XLVPHC và tình hình XPVPHC trong từng
lĩnh vực cụ thể; Cùng với đó, nhiều đoàn kiểm tra, tổ công tác liên ngành đã được
thành lập để kiểm tra việc thực hiện công tác giải quyết khiếu nại có liên quan
đến công tác XLVPHC, áp dụng pháp luật về các BPXLHC; tình hình ban hành các
văn bản QPPL, các quyết định về XLVPHC... trong một số lĩnh vực trọng tâm.
Qua công tác theo dõi, quản lý chung
về XLVPHC cũng như tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, có thể thấy,
so với những năm trước đây (2014 và 2015), các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động
hơn trong công tác kiểm tra, kiểm tra liên ngành về XLVPHC. Sau kiểm tra, các
đoàn kiểm tra đều có báo cáo kết quả kiểm tra gửi người đã ra quyết định thành
lập đoàn kiểm tra và cơ quan, đơn vị được kiểm tra theo quy định. Qua kiểm tra,
các đoàn kiểm tra đã kịp thời phát hiện và xử lý, kiến nghị xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm trong quá trình áp dụng pháp luật về XLVPHC.
1.4. Công tác kiện toàn tổ
chức bộ máy, biên chế thực hiện nhiệm vụ quản lý
nhà nước về công tác XLVPHC
1.4.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà
nước về công tác XLVPHC tại các Bộ, cơ quan ngang Bộ
Ngày 15/5/2014, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 717/QĐ-TTg về việc thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm
hành chính và theo dõi thi hành pháp luật (QLXLVPHC&TDTHPL). Từ khi thành lập đến nay, Cục QLXLVPHC&TDTHPL đã từng bước được kiện
toàn về tổ chức bộ máy với 24 biên chế quản lý hành chính được giao (thực đã
tuyển dụng 22 biên chế), 07 biên chế sự nghiệp, 01 lao động theo hợp đồng, được
bố trí tại 05 đơn vị trực thuộc gồm: Văn phòng, 03 Phòng chuyên môn, nghiệp vụ
và 01 Trung tâm. Việc kịp thời kiện toàn tổ chức, hoạt động của Cục đã tạo tiền
đề quan trọng để Bộ Tư pháp làm tốt vai trò của mình trong việc thực hiện công
tác quản lý XLVPHC một cách hiệu quả trên mọi mặt.
Thực hiện quy định của Luật XLVPHC,
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP và Quyết định số 1950/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án "Xây dựng tổ chức bộ máy, biên chế triển khai thực hiện quản
lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư
pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ và các cơ quan tư pháp địa phương (Quyết định
1950/QĐ-TTg), các Bộ, cơ quan ngang Bộ về cơ bản đã giao cho Vụ Pháp chế là đơn
vị đầu mối và cử từ 01 đến 03 cán bộ thực hiện công tác này8. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ quản
lý XLVPHC còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều công việc. Do đó, khi thực hiện
nhiệm vụ liên quan đến công tác quản lý XLVPHC còn có những khó khăn, vướng mắc
nhất định, đặc biệt là đối với những việc tham mưu, xử lý những vụ việc liên
quan đến nghiệp vụ chuyên sâu.
1.4.2. Kiện toàn, tổ chức bộ máy,
biên chế thực hiện công tác quản lý XLVPHC tại các cơ quan tư pháp địa phương
Thực hiện Quyết định số 1950/QĐ-TTg,
Quyết định số 2736/QĐ-BTP ngày 15/11/2013 như đã nêu trên, ban đầu mới chỉ có
03 tỉnh, thành phố thành lập được Phòng chuyên môn trực thuộc Sở Tư pháp để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định: Hải Phòng; Đắk Lắk;
Hà Nam. Đến nay, con số này đã tăng lên 60/63 tỉnh, thành
phố thành lập phòng chuyên môn trực thuộc Sở Tư pháp9.
1.4.3. Đánh giá thực trạng đội ngũ công chức làm công tác XLVPHC
Bộ Tư pháp đã chủ động, quyết liệt
trong việc xây dựng, tổ chức bộ máy và kiện toàn biên chế thực hiện công tác quản
lý XLVPHC tại Bộ Tư pháp và tại các Bộ, ngành, địa phương. Đến nay, hầu hết các Bộ, ngành và địa phương đã phân công đơn vị đầu mối
thực hiện quản lý nhà nước về công tác XLVPHC, đồng thời, bố trí công chức
chuyên trách hoặc kiêm nhiệm thực hiện việc tham mưu, giúp lãnh đạo các Bộ,
ngành, địa phương quản lý nhà nước về công tác XLVPHC. Đội ngũ công chức được
giao nhiệm vụ tham mưu về công tác quản lý XLVPHC đa số đều có trình độ đại học,
chủ yếu là chuyên ngành luật, vì vậy, về cơ bản đội ngũ này đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ được giao.
1.5. Công tác phối hợp quản lý nhà
nước về XLVPHC
Thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ
trong công tác quản lý XLVPHC, hàng năm, Bộ Tư pháp tổ chức nhiều hoạt động
quan trọng như: Kiểm tra liên ngành, họp tổ công tác liên ngành, tổ chức các hội
nghị, tọa đàm và hội thảo giữa Bộ với các cơ quan liên quan để trao đổi tình hình hoạt động trong công tác quản lý và XLVPHC, nhận diện,
đánh giá những khó khăn, vướng mắc, tìm ra các giải pháp để cùng các cơ quan đẩy mạnh công tác quản lý XLVPHC. Thông qua hoạt động
phối hợp, công tác xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
XLVPHC, hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng XLVPHC cho lực lượng có thẩm quyền
XPVPHC; theo dõi, đôn đốc và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp liên quan đến
nhiều ngành, lĩnh vực cũng thường xuyên được thực hiện.
Tại các địa phương, để thực hiện có
hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về XLVPHC, Sở Tư pháp đã phối hợp với các sở,
ngành, địa phương trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
XLVPHC như: cung cấp tài liệu, đề cương tuyên truyền, cử Báo cáo viên và hướng dẫn thi hành cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhân dân; phối hợp trong
việc theo dõi, thực hiện báo cáo công tác XLVPHC tại các cơ quan chuyên môn của
tỉnh, thuộc các sở, ngành ở địa phương để báo cáo cho UBND tỉnh, Bộ Tư pháp
theo định kỳ hoặc theo yêu cầu.
Nhằm góp phần từng bước hoàn thiện
pháp luật XLVPHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành Luật XLVPHC, từ năm 2013
đến nay, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Viện KONRAD - ADENAUER tại Việt
Nam,... tổ chức nhiều hội nghị, lớp tập huấn nhằm bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ cho
đội ngũ công chức làm công tác XLVPHC, từ đó đã góp phần không nhỏ vào các hoạt
động triển khai thi hành Luật cũng như hoàn thiện pháp luật về XLVPHC.
2. Tình hình xử
lý vi phạm hành chính
2.1. Tình hình xử phạt vi phạm
hành chính
Số vụ VPHC đã phát hiện là: 36.789.227
vụ việc, tổng số vụ việc đã xử phạt là 28.493.927 vụ việc (chiếm
77.45% số vụ vi phạm), số liệu cụ thể qua các năm được thể hiện cụ thể qua bảng
sau10:
Năm
|
Số vụ đã phát hiện
|
Số vụ đã xử phạt
|
Số QĐ đã ban hành
|
Số QĐ đã thi hành
|
Số QĐ chưa thi hành xong
|
Số QĐ bị cưỡng chế thi hành
|
Số QĐ bị khiếu nại, khởi
kiện
|
Tiền thu được từ bán thanh lý TV, PT bị tịch thu
|
Tiền phạt thu được
|
2014
|
13.473.118
|
8.893.639
|
8.893.639
|
6.615.982
|
466270
|
6.407
|
750
|
383.744281.055
|
11.883.944.685.169
|
2015
|
9.530382
|
6347.778
|
6.532.810
|
6214.575
|
318235
|
3.172
|
1.776
|
533.025.143.498
|
8.515.914.534.928
|
2016
|
9.845.031
|
9.526.991
|
9.566.765
|
9200.951
|
365.814
|
4.002
|
778
|
532.142.482.026
|
12.674.747.484.808
|
2017 (6 tháng)
|
3.940.696
|
3.725.519
|
3.902.620
|
3.577314
|
352306
|
1328
|
293
|
209.800.185.018
|
5.468.823.353.797
|
Tổng
|
36.789227
|
28.493.927
|
28.895.834
|
25.608.822
|
1.502.625
|
14.909
|
3.597
|
1.658.712.091.597
|
38.543.430.058.702
|
2.1.1. Nhận xét, đánh giá về tình hình XPVPHC
Nhìn chung, các vụ việc vi phạm xảy
ra cơ bản đã được phát hiện và xử lý kịp thời, đúng thẩm quyền và trình tự, thủ
tục theo quy định, góp phần quan trọng trong bảo đảm an ninh trật tự các địa
bàn trên cả nước. Tỷ lệ số vụ việc đã bị xử phạt so với tổng số vụ việc đã bị
phát hiện ngày càng tăng (từ 66% vào năm 2014 lên đến 95% vào năm 2017). Đa số
đối tượng vi phạm đều nhận thức được hành vi vi phạm của mình, có ý thức chấp
hành nghiêm các quyết định XPVPHC. Tỷ lệ chấp hành các quyết định xử phạt trong
các năm tương đối cao (khoảng 95%)11. Đối với các quyết định chưa thi hành, nguyên nhân chủ yếu là
các đối tượng không có nơi cư trú ổn định, người lao động
có hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp, không có khả năng nộp phạt.
Qua tổng hợp báo cáo của các cơ quan,
qua 05 năm triển khai thi hành Luật XLVPHC, công tác XPVPHC đã được phát huy hiệu
quả vượt bậc so với các Pháp lệnh trước đây, thể hiện như sau: Kịp thời phát hiện
và xử lý những hành vi VPHC theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, mức
độ tuân thủ pháp luật và thi hành quyết định xử phạt tương đối cao; ý thức chấp
hành pháp luật của người dân cũng như cơ quan, người có thẩm quyền đã được nâng
lên. Tuy nhiên, tình hình VPHC lại diễn ra ngày càng phức tạp với nhiều thủ đoạn
tinh vi hơn trên các lĩnh vực đời sống xã hội, trong đó, xảy ra chủ yếu ở các lĩnh vực như giao thông đường bộ; an toàn trật tự,
an toàn xã hội; bảo vệ môi trường; an toàn thực phẩm; kinh doanh; đất đai; xây
dựng. Nguyên nhân của tình hình vi phạm chủ yếu là do ý thức
tuân thủ, hiểu biết về pháp luật của một bộ phận người dân còn hạn chế. Do người
vi phạm không có việc ổn định, sự xuống cấp về đạo đức của một số bộ phận thanh
thiếu niên, cùng với sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường hay một
số đối tượng vi phạm vì mục đích lợi nhuận.
2.1.2. Nhận xét, đánh giá việc thực
hiện các quy định của Luật XLVPHC về hình thức xử phạt, thẩm quyền, thủ tục xử
phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
- Về mức phạt tiền tối đa trong các
lĩnh vực: Trên cơ sở mức phạt tối đa được quy định tại Điều 24 Luật XLVPHC, mức
phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực và mức phạt tiền cụ thể đối với các hành vi
vi phạm cơ bản đã phù hợp với tình hình đời sống kinh tế - xã hội hiện nay.
Nhưng thực tế áp dụng thời gian qua cho thấy, trong một số lĩnh vực thì mức phạt
tiền đối với từng hành vi còn chưa tương xứng tính chất, mức độ hậu quả vi phạm
như: lĩnh vực an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, khoáng sản,...
- Về việc áp dụng các hình thức xử phạt:
Các hình thức XPVPHC hiện nay khá đầy đủ, phù hợp với tình hình thực tế, trong
đó, hình thức xử phạt được áp dụng chủ yếu là hình thức phạt tiền. Trong một số
trường hợp, hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện VPHC nặng hơn hình
thức xử phạt chính (phạt tiền), dẫn đến người vi phạm từ bỏ tài sản, không chấp
hành quyết định xử phạt. Đối với riêng lĩnh vực giao thông, tài nguyên, môi trường
khi áp dụng biện pháp tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm
lại không có đủ điều kiện, bến bãi, nhà kho, gây khó khăn trong quá trình áp dụng
và thi hành pháp luật.
- Về áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả: Các biện pháp khắc phục hậu quả thường xuyên được áp dụng là biện pháp
buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp do thực
hiện hành vi VPHC; buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có
giấy phép hoặc xây dựng không đúng giấy phép; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm
gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm
độc hại. Việc áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả góp phần tạo ra sức răn
đe, làm tăng ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng vi
phạm, đặc biệt trong trường hợp đã hết thời hiệu xử phạt
thì đối tượng vi phạm vẫn phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp này. Tuy
nhiên, công tác kiểm tra, theo dõi thi hành biện pháp khắc phục hậu quả chưa thực
sự hiệu quả do các cá nhân, tổ chức vi phạm thường không tự giác chấp hành cũng
như lực lượng thực thi công vụ còn mỏng chưa thực hiện đầy đủ việc theo dõi thi
hành các biện pháp đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
- Về thẩm quyền XPVPHC: Các chức danh
có thẩm quyền XPVPHC đối với từng lĩnh vực đã được quy định tương đối đầy đủ tại
Chương II Luật XLVPHC và được cụ thể hóa tại các nghị định xử phạt trong từng
lĩnh vực; việc quy định những chức danh này là phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của từng lực lượng cụ thể. Việc tăng thẩm
quyền xử phạt cho cấp cơ sở so với Pháp lệnh trước đây đã
góp phần cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người bị xử
phạt nhanh chóng thi hành quyết định, nâng cao tính kịp thời và hiệu quả của việc
XPVPHC, giảm tình trạng dồn việc xử phạt lên cấp trên.
Tuy nhiên, sau 05 năm triển khai thi
hành, một số quy định liên quan đến thẩm quyền của các chức danh gặp phải một số
vướng mắc, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn như: Thiếu một số chức danh
có thẩm quyền xử phạt do cơ cấu tổ chức của một số cơ quan có sự thay đổi hoặc
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Một số quy định về thẩm quyền xử phạt chưa
thực sự phù hợp như thẩm quyền xử phạt tiền của cấp cơ sở còn thấp trong khi mức
phạt đối với đa số hành vi VPHC tương đối cao hay thẩm quyền tịch thu tang vật,
VPHC bị giới hạn bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn vụ việc lên cấp
trên.
2.1.3.
Nhận xét, đánh giá việc thực hiện quy định của Luật XLVPHC về thi hành quyết định
xử phạt và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
Việc thi hành quyết định XPVPHC được
thực hiện đúng trình tự, thủ tục. Tuy nhiên thực tiễn thi hành các quyết định
này còn gặp nhiều khó khăn như: Số lượng quyết định XPVPHC quá nhiều gây tình
trạng quá tải cho các cơ quan chức năng, đối tượng vi phạm không có chỗ ở cố định
gây khó khăn trong quá trình giao, nhận quyết định XPVPHC,... Đối với công tác
cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC cũng gặp nhiều khó khăn do một số cơ quan,
đơn vị còn e ngại khi tổ chức cưỡng chế vì thủ tục cưỡng chế rất phức tạp, liên
quan đến nhiều cơ quan, đơn vị. Mặt khác, cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế thường
không hợp tác hoặc không đủ điều kiện, không có tài sản để kê biên, thậm chí có
vụ việc tài sản cưỡng chế không đủ để bù đắp chi phí tổ chức cưỡng chế.
3. Tình hình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính (BPXLHC)
- Tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề
nghị áp dụng các BPXLHC là 105.940 đối tượng, tổng số đối tượng bị áp dụng các BPXLHC là
89.991 đối tượng (chiếm khoảng 85% tổng số đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị),
số liệu qua các năm được thể hiện qua bảng:
Năm
|
Đối
tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC
|
Đối
tượng bị áp dụng các BPXLHC
|
Số
NCTN bị áp dụng biện pháp thay thế quản lý tại gia đình
|
Giáo
dục tại xã, phường, thị trấn (GDTXPTT)
|
Các
BPXLHC theo quyết định của TAND cấp huyện
|
Đối
tượng bị áp dụng BPGDTXPTT
|
Đối
tượng bị áp dụng BPXLHC theo QĐ của TAND
|
2014
|
8.725
|
3.235
|
7.191
|
1.543
|
1.184
|
2015
|
21.303
|
20.300
|
14.000
|
16.772
|
2.176
|
2016
|
15.742
|
14.987
|
14.856
|
14.903
|
1.751
|
6
tháng 2017
|
10.779
|
10.869
|
10.441
|
10.205
|
1.126
|
Tổng
|
56.549
|
49.391
|
46.488
|
43.423
|
6.637
|
Qua số liệu tổng hợp cho thấy, BPXLHC
được áp dụng phổ biến nhất là biện pháp GDTXPTT, góp phần phát huy tốt nhất vai
trò của gia đình, chính quyền địa phương trong việc giáo dục người vi phạm, đặc
biệt là người chưa thành niên. Riêng đối với các BPXLHC thuộc thẩm quyền quyết
định của TAND cấp huyện, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện được áp dụng nhiều
nhất. Nhìn chung, các BPXLHC phù hợp với từng loại đối tượng, đúng thủ tục theo
quy định của pháp luật, cơ bản phù hợp với thực tiễn và huy động được sự tham
gia của cộng đồng xã hội. Việc tiếp nhận đối tượng vào các cơ sở giáo dục bắt
buộc, trường giáo dưỡng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, những
đối tượng này được tạo điều kiện tham gia học văn hóa, học nghề để sau khi chấp hành xong quyết định sẽ sớm ổn định cuộc sống, tìm kiếm việc
làm.
Tuy nhiên, một số quy định của pháp
luật liên quan đến việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính còn chưa thống
nhất, chưa phù hợp với thực tiễn, không bảo đảm tính khả thi (Chi tiết được
nêu tại Phần II). Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
không thể đưa những người vi phạm pháp luật vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục
bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội.
- Về quản lý người nghiện ma túy
không có nơi cư trú ổn định tại cơ sở xã hội trong thời
gian lập hồ sơ để Tòa án nhân dân xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc12: Đã
có 11/63 tỉnh, thành phố quyết định thành lập cơ sở xã hội theo Nghị quyết số
98/NQ-CP ngày 26/12/2014 của Chính phủ về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống,
kiểm soát và cai nghiện ma túy trong tình hình mới (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội,
Đà Nẵng, Lào Cai, Nghệ An, An Giang, Khánh Hòa, Bà Rịa -
Vũng Tàu, Cà Mau, Quảng Ninh, Long An), có một số tỉnh không thành lập cơ sở xã
hội mà tiếp nhận người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào Trung tâm
công tác xã hội để quản lý trong thời gian lập hồ sơ đề
nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Các cơ sở xã hội đã tiếp nhận, quản lý 5.103 người, trong đó: 1.855 người sau
khi vào cơ sở đã xác định được nơi cư trú ổn định và đã đưa họ về địa phương để
lập hồ sơ quản lý, giáo dục theo Luật XLVPHC, 224 người không xác
định được tình trạng nghiện cũng đã được trả về địa phương; 2.096 người được
Tòa án xem xét, quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và hiện đang quản
lý tại cơ sở xã hội là 898 người.
- Tình hình thực hiện lập hồ sơ áp dụng
biện pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc13: Đến
nay, đã có 23/63 tỉnh, thành phố triển khai thực hiện việc lập hồ sơ áp dụng biện
pháp đưa người nghiện ma túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại
Nghị định số 221/2013/NĐ-CP của Chính phủ và đã đưa được 2.633 người nghiện ma
túy vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định của Tòa
án, trong đó 2.096 người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định, 537 người
có nơi cư trú ổn định.
Có 09/123 Trung tâm Chữa bệnh - Giáo
dục - Lao động xã hội đã được chuyển đổi sang cơ sở cai nghiện tự nguyện, hiện
đang quản lý, điều trị cho 920 người.
4. Tác động của
Luật XLVPHC đối với công tác quản lý hành chính và sự phát triển kinh tế xã hội
4.1. Đối với các quy định về
XPVPHC
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 trên tinh thần quán triệt quan điểm
thực hiện “đơn giản hóa và công khai,
minh bạch các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp”. Các quy định của Luật XLVPHC, điển hình là các quy định về trình tự
thủ tục XPVPHC, các quy định về các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm XLVPHC, các
quy định về trình tự, thủ tục lập hồ sơ, xem xét, quyết định áp dụng và thi
hành các BPXLHC... được quy định trên cơ sở chủ trương trên, bước đầu bảo đảm
tính công khai, minh bạch nhưng rất chặt chẽ, rõ ràng, hiệu quả, tạo thuận lợi,
dễ dàng cho người dân nhận thức chấp hành pháp luật và lực lượng chức năng thực thi công vụ trong thực tiễn, tạo môi trường lành mạnh cho các
doanh nghiệp phát triển. Đặc biệt, nếu như pháp luật trước đây còn một số hạn
chế như khi tổ chức, cá nhân bị xử phạt thường thụ động, không biết rõ quy
trình xử phạt bởi pháp luật về XLVPHC chưa trao cho họ quyền được giải trình về
vụ vi phạm. Điều đó dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện của tổ chức, cá
nhân trong trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt xác định thẩm quyền,
áp dụng hình thức xử phạt, thủ tục xử phạt chưa chính xác, thiếu khách quan. Vì
vậy, việc ghi nhận quyền giải trình của đối tượng trong quá trình xem xét VPHC
là rất cần thiết, bảo đảm quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận,
đồng thời thể hiện một sự cải cách rõ nét trong thủ tục
hành chính, thủ tục xử phạt. Điều này đã giúp nâng cao, bảo đảm tính khả thi đối
với quyết định xử phạt do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; tăng tính
dân chủ, tạo niềm tin cho nhân dân đối với cơ chế, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; hạn chế tình trạng khiếu nại kéo dài, tiết kiệm chi phí cho
xã hội trong quá trình XLVPHC.
4.2. Đối với các quy định về
BPXLHC
Thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị đó là “hình thành cơ chế pháp lý đế Chính phủ thực hiện quyền yêu
cầu xem xét, xử lý bằng thủ tục tư pháp đối với mọi vi phạm nghiêm trọng được
phát hiện trong quá trình quản lý, tổ chức thi hành pháp luật”, ((tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo
đảm sự bình đẳng của công dân và cơ quan công quyền
trước Tòa án” cũng như bảo đảm thực hiện các cam kết
quốc tế về quyền con người, tiến tới các chuẩn mực quốc tế về quyền con người
theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, hạn chế việc ban hành quyết định áp
dụng mang tính khép kín, đơn phương của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Luật
XLVPHC quy định chuyển thẩm quyền xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC (đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc) sang cơ quan tư pháp là một cải cách lớn và có ý nghĩa rất sâu sắc.
Điều này giúp tăng uy tín quốc gia trong việc bảo đảm thực hiện các cam kết quốc
tế, hơn nữa, việc thực thi tốt các điều ước quốc tế về quyền con người giúp
doanh nghiệp gián tiếp hưởng lợi về đầu tư và việc tham gia các hiệp định
thương mại; giảm khiếu nại, tố cáo; hiệu quả thi hành của quyết định áp dụng do
đối tượng bị áp dụng và gia đình đồng tình với quyết định áp dụng, tự nguyện thi hành cao hơn trước; tiết kiệm được chi phí cơ hội nếu tránh được
việc bị áp dụng sau pháp luật.
Ngoài ra, việc bỏ quy định áp dụng
BPXLHC đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người bán dâm thể hiện
sự đổi mới trong thái độ đối xử đối với người bán dâm phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn phát triển mới và tính chất của
nhóm đối tượng này.
4.3. Đối với quy định về người chưa thành niên
Luật XLVPHC cũng dành một phần riêng
để quy định về chính sách xử lý đối với người chưa thành niên VPHC và quy định
các biện pháp thay thế XLVPHC (bao gồm nhắc nhở, quản lý tại gia đình); điều kiện,
thẩm quyền và thủ tục áp dụng các biện pháp thay thế. Đây là một nội dung mới,
tiến bộ, thể hiện chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta thường xuyên
quan tâm đến đối tượng người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên
vi phạm pháp luật nói riêng, thể hiện một bước phát triển về thể chế trong việc
bảo vệ quyền con người trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Ngoài ra, việc bổ sung
các biện pháp thay thế XLVPHC đối với người chưa thành niên bên cạnh các BPXLHC
giúp giảm nguồn lực như tài chính, nhân lực (chi phí lập biên bản, chi phí ra
quyết định xử phạt, thi hành quyết định đối với XPVPHC; chi phí lập hồ sơ, tổ
chức họp...) để các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào quy
trình xem xét ra quyết định XLVPHC đối với người chưa thành niên vi phạm; không
mất chi phí tổ chức thi hành quyết định, đặc biệt thi hành các quyết định áp dụng
BPXLHC giáo dục tại cộng đồng như chi phí giáo dục, hỗ trợ cán bộ tổ chức thi
hành biện pháp, cán bộ giám sát; người chưa thành niên không phải xa gia đình,
được gia đình, người thân, cộng đồng giúp đỡ trở thành công dân tốt; tăng uy
tín quốc gia khi thực hiện nội luật hóa chính sách và pháp luật quốc tế mà Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia.
4.4. Đối với quy định về quản lý công tác thi hành pháp luật về XLVPHC
Đối với hoạt động quản lý Nhà nước,
Luật XLVPHC đã quy định toàn diện, đầy đủ trên tinh thần đổi mới, nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thi hành pháp luật về XLVPHC mà các
Pháp lệnh XLVPHC trước đây chưa quy định. Đây cũng là nhân tố quan trọng bảo đảm
thực thi pháp luật XLVPHC nghiêm túc, thống nhất, chính xác, hiệu quả, bảo đảm
đầy đủ các quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đã được
Hiến pháp quy định. Theo đó, các Bộ và UBND cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý
công tác XLVPHC của người có thẩm quyền, kịp thời phát hiện và xử lý trách nhiệm
đối với cán bộ có hành vi vi phạm, đồng thời giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
quy định của pháp luật. Để đáp ứng được yêu cầu về quản lý
nhà nước thì việc sắp xếp, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác XLVPHC được
quan tâm thực hiện đã góp phần khắc phục sự cồng kềnh, chồng chéo trong phân định
chức năng, nhiệm vụ của công tác này.
Tóm lại, từ khi Luật XLVPHC ra đời, với
những quy định cơ bản bảo đảm tính khả thi, công khai, minh bạch của Luật
XLVPHC và các văn bản hướng dẫn, các hành vi vi phạm đã được quy định cụ thể,
rõ ràng, góp phần tích cực trong việc đấu tranh, phòng chống VPHC trong tình
hình mới, giúp cho các cá nhân, tổ chức hiểu rõ hơn về những hành vi VPHC, từ
đó có những hành vi ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật. Việc xây dựng một
môi trường pháp lý minh bạch, khách quan, cũng đã giúp các doanh nghiệp yên tâm
đầu tư sản xuất, kinh doanh, góp phần thay đổi diện mạo của nên kinh tế ở nước
ta. Việc quy định trình tự thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ, rõ ràng cũng đã khắc
phục được những sai sót trong quá trình áp dụng Luật từ đó góp phần hạn chế
tình trạng khiếu nại, tố cáo của cá nhân, tổ chức.
II. KHÓ KHĂN, VƯỚNG
MẮC, HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ XLVPHC VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Khó khăn, vướng
mắc, hạn chế, bất cập trong công tác triển khai thi hành Luật XLVPHC
1.1. Trong công
tác xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật
XLVPHC có phạm vi rất rộng, thuộc
trách nhiệm của nhiều Bộ, ngành, địa phương; tác động trực tiếp đến các lĩnh vực
khác nhau trong đời sống xã hội và liên quan đến nhiều ngành luật, văn bản
QPPL. Do đó, việc xây dựng văn bản QPPL quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
Luật đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của nhiều bộ, ngành và phải bảo đảm sự
thống nhất giữa các văn bản QPPL về XLVPHC và giữa pháp luật về XLVPHC với pháp
luật khác có liên quan. Tuy nhiên, do phạm vi rộng như đã nêu trên nên các nghị
định XPVPHC trong các lĩnh vực thường liên quan đến nhiều văn bản QPPL có nội
dung quản lý nhà nước khác nhau, trong trường hợp các văn bản làm căn cứ ban
hành được sửa đổi, bổ sung, thay thế thì các nghị định về XPVPHC cũng sẽ phải sửa
đổi, bổ sung tương ứng cho phù hợp, khiến cho việc xây dựng, cập nhật hành vi
vi phạm chưa thực sự được hiệu quả. Hơn nữa các văn bản này lại thay đổi không đồng thời, hay nói cách khác, việc sửa đổi, bổ sung văn bản nội
dung quản lý nhà nước được thực hiện ở các thời điểm khác nhau dẫn đến việc một
nghị định XPVPHC quy định trong nhiều lĩnh vực có thể bị sửa đổi, bổ sung nhiều
lần, gây khó khăn trong việc soạn thảo và áp dụng pháp luật.
Ngoài ra, việc xây dựng quy phạm nhiều
khi còn theo ý chí chủ quan của cơ quan chủ trì xây dựng; một số quy định còn
chưa thống nhất, chồng chéo về hành vi vi phạm, thẩm quyền XPVPHC giữa các lực
lượng, một số dấu hiệu được quy định để XLVPHC theo pháp luật hành chính đồng
thời là dấu hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự,...
1.2. Trong việc thực hiện quản
lý nhà nước về công tác XLVPHC
Qua tổng hợp các Báo cáo tổng kết thi
hành Luật XLVPHC của các Bộ, ngành, địa phương, có thể thấy việc triển khai thi
hành Luật XLVPHC trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác XLVPHC đã được
tổ chức thực hiện kịp thời. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; công tác
phòng ngừa, ngăn chặn, thanh tra, kiểm tra, phát hiện, XLVPHC và áp dụng BPXLHC
ngày càng được đẩy mạnh và chất lượng ngày càng được tăng cao. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, công tác này cũng còn một số khó khăn, vướng mắc:
- Về các điều kiện đảm bảo thi hành
Luật XLVPHC: Tại một số Bộ, ngành, địa phương, cán bộ, công chức thực hiện công
tác XLVPHC là kiêm nhiệm; văn bản hướng dẫn lập dự toán, sử dụng và quyết toán
kinh phí đối với công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật XLVPHC chỉ mới
vừa được ban hành14, hơn
nữa một số nội dung chi và mức chi chưa được quy định cụ thể, rõ ràng khiến cho
các cơ quan, đơn vị còn gặp lúng túng trong việc bố trí ngân sách thực hiện nhiệm
vụ này.
- Về công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về XLVPHC hiện nay tại một số Bộ, cơ quan ngang Bộ chưa được
đầu tư mà chủ yếu được thực hiện lồng ghép trong chương trình tuyên truyền, phổ
biến pháp luật nói chung, vì vậy việc triển khai nhìn chung chưa được sâu rộng
về mọi mặt.
- Sự phối hợp thanh tra, kiểm tra giữa
các Bộ, ngành trong thời gian qua khó triển khai thực hiện và chưa phổ biến do
chưa có hướng dẫn chung, đồng thời chưa có cơ chế hậu kiểm và xử lý trách nhiệm
sau thanh tra, kiểm tra nên có những trường hợp vi phạm nhưng chưa được xử lý một
cách triệt để.
- Để thực hiện
công tác quản lý nhà nước được thực hiện kịp thời, hiệu quả thì việc báo cáo,
thống kê là cần thiết. Hiện nay, báo cáo, thống kê về XLVPHC mặc dù đã được các
Bộ, ngành, địa phương ngày càng quan tâm, chú trọng và gửi về Bộ Tư pháp đúng hạn.
Tuy nhiên, nội dung của báo cáo của nhiều Bộ, ngành, địa phương còn chung
chung, chưa đảm bảo được yêu cầu, chất lượng; số liệu tổng hợp còn nhiều thiếu
sót hoặc chưa chính xác khiến cho việc tổng hợp Báo cáo chung chưa thực sự đạt
được hiệu quả như mong đợi.
2. Hạn chế, bất
cập trong quy định của Luật XLVPHC 15
Những hạn chế, bất cập trong các quy
định pháp luật về XLVPHC bao gồm những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp
luật về XPVPHC và các quy định pháp luật về áp dụng các BPXLHC (được nêu cụ thể
tại Phụ lục số 03 - Hạn chế, bất cập
trong quy định của Luật XL VPHC và một số định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC kèm theo Báo cáo này).
3. Nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập
3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Số lượng các văn bản QPPL về XLVPHC
lớn, nhiều nội dung khó, phức tạp; trong khi đó, công chức thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước về XLVPHC là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo kiến thức, kỹ năng
chuyên sâu về công tác này, do đó ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ công việc
đặc biệt là cán bộ, công chức ở cấp huyện, cấp xã.
- Công tác phối hợp giữa các lực lượng
chức năng trong việc trao đổi thông tin, sử dụng lực lượng phối hợp, đấu tranh,
phòng, chống vi phạm pháp luật chưa chặt chẽ, nhiều thủ tục bất cập.
- Nhận thức pháp luật của một số cán
bộ, công chức về quản lý XLVPHC và theo dõi thi hành pháp luật còn hạn chế; cán
bộ đầu mối phụ trách, tham mưu của một số đơn vị còn thiếu.
- Ý thức chấp hành pháp luật của một
số bộ phận cá nhân, tổ chức còn hạn chế, thường xuyên lợi dụng kẽ hở của pháp
luật để thực hiện hành vi vi phạm.
- Kinh phí phục vụ cho công tác quản
lý XLVPHC cũng như phương tiện, thiết bị nghiệp vụ phục vụ trong công tác
XPVPHC chưa được đảm bảo, do đó, công tác quản lý nhà nước và XLVPHC triển khai
chưa đồng bộ, hiệu quả, kịp thời để đáp ứng nhiệm vụ được giao và nhu cầu thực
tế trong công tác thi hành pháp luật về XLVPHC của các ngành, lĩnh vực.
3.2. Nguyên nhân khách quan
- Lĩnh vực XLVPHC rất rộng, liên quan
đến nhiều ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, dẫn đến việc khó kiểm
soát hết các hành vi vi phạm được quy định trong các Nghị định XPVPHC chuyên
ngành, dẫn đến nhiều sự trùng lặp trong hành vi cũng như thẩm quyền xử phạt của
các lực lượng có thẩm quyền.
- Xuất phát từ chính những quy định của
pháp luật về XLVPHC cũng như các quy định của pháp luật liên quan chưa được rõ
ràng, cụ thể hoặc không phù hợp với thực tiễn áp dụng.
- Cư dân ở nhiều vùng, nhiều địa
phương có trình độ dân trí thấp, ít hiểu biết pháp luật, điều kiện kinh tế khó
khăn; đặc biệt là ở vùng sâu vùng, vùng xa, điều kiện giao thông khó khăn, địa
bàn rộng, phong tục tập quán lạc hậu.
III. GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH LUẬT XLVPHC
1. Giải pháp nhằm
hoàn thiện thể chế
- Tiếp tục tổng hợp những hạn chế, bất
cập liên quan đến Luật XLVPHC để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật XLVPHC trong thời gian tới (Chi tiết xem tại Phụ lục 03 kèm
theo Báo cáo này).
- Trước mắt, rà soát, sửa đổi, bổ sung
các nghị định XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước để phù hợp với tình
hình mới, đặc biệt phải phù hợp với Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
- Hoàn thiện thể chế về công tác kiểm
tra và xử lý trách nhiệm trong thi hành pháp luật về XLVPHC theo hướng cụ thể,
đầy đủ, toàn diện hơn nhằm đáp ứng kịp thời và hiệu quả yêu cầu quản lý nhà nước.
2. Giải pháp
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về XLVPHC
- Tăng cường công tác tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức trong việc thi hành pháp luật về
XLVPHC; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai, phổ biến pháp luật cho các
cán bộ làm công tác XLVPHC, cá nhân, tổ chức có liên quan;
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra công tác thi hành pháp luật về XLVPHC, qua đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm
của các cán bộ, công chức được giao thực hiện công tác thi hành pháp luật về
XLVPHC nhằm đưa công tác này vào nề nếp, có chất lượng,
đáp ứng yêu cầu thực tế; tăng cường công tác theo dõi, kiểm tra văn bản QPPL và
thi hành pháp luật về XLVPHC; tạo điều kiện trao đổi kinh
nghiệm, khảo sát thực tế, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác này.
- Tăng cường quy chế phối hợp giữa
các cơ quan, đơn vị có chức năng quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương
về XLVPHC;
- Quan tâm đầu tư nguồn lực, xây dựng
cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC theo Nghị định số 20/2016/NĐ-CP ngày 30/3/2016
của Chính phủ quy định về Cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC.
3. Giải pháp
nâng cao điều kiện đảm bảo nguồn lực
- Cần đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở
vật chất, trang thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính
trong các lĩnh vực quản lý nhà nước.
- Cần quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ
chức bộ máy thực hiện công tác quản lý XLVPHC, nâng cao kỹ năng, chuyên môn,
nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức, người thi hành công vụ trong việc thi hành
và áp dụng pháp luật về XLVPHC.
Trên đây là Báo cáo tổng kết thi hành
Luật XLVPHC, Bộ Tư pháp kính trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, cho ý kiến chỉ
đạo./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương
Đảng (để báo cáo);
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội (để báo cáo);
- Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình (để báo cáo);
- Bộ trưởng Lê Thành Long (để báo cáo);
- Ủy ban Pháp luật Quốc hội (để phối hợp);
- Tòa án nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (để phối hợp);
- Văn phòng Chính phủ (để phối hợp);
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ (để phối hợp);
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (để phối hợp);
- Lưu: VT, Cục QLXLVPHC&TDTHPL (05b).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Khánh Ngọc
|
PHỤ LỤC 01
DANH MỤC CÁC NGHỊ ĐỊNH QUY ĐỊNH CHI
TIẾT THI HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP
ngày 08/01/2018 của Bộ Tư Pháp)
STT
|
Số,
ký hiệu văn bản
|
Ngày
ban hành
|
Trích
yếu
|
Ghi
chú
|
1
|
64/2013/NĐ-CP
|
27/6/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
2
|
79/2013/NĐ-CP
|
19/7/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thống kê.
|
|
3
|
80/2013/NĐ-CP
|
19/7/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
|
|
4
|
81/2013/NĐ-CP
|
19/7/2013
|
Quy định chi tiết một số điều và biện
pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
5
|
86/2013/NĐ-CP
|
29/7/2013
|
Về kinh doanh trò chơi điện tử có
thưởng dành cho người nước ngoài.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung, có một phần nội dung quy định về XPVPHC
|
6
|
93/2013/NĐ-CP
|
20/8/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hàng hải, đường thủy nội địa.
|
Hết
hiệu lực một phần
|
7
|
95/2013/NĐ-CP
|
22/8/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
8
|
97/2013/NĐ-CP
|
27/8/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm trong
lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng
|
Hết
hiệu lực
|
9
|
98/2013/NĐ-CP
|
28/8/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số.
|
|
10
|
99/2013/NĐ-CP
|
29/8/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
|
|
11
|
103/2013/NĐ-CP
|
12/9/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động thủy sản.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
12
|
105/2013/NĐ-CP
|
16/9/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập.
|
|
13
|
107/2013/NĐ-CP
|
20/9/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
14
|
108/2013/NĐ-CP
|
23/9/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
15
|
109/2013/NĐ-CP
|
24/9/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn.
|
Đã được
sửa đổi, bổ sung
|
16
|
110/2013/NĐ-CP
|
24/9/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi
hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
17
|
111/2013/NĐ-CP
|
30/9/2013
|
Quy định về việc áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
18
|
112/2013/NĐ-CP
|
2/10/2013
|
Quy định hình thức xử phạt trục xuất,
biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản
lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục
xuất.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
19
|
114/2013/NĐ-CP
|
3/10/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
|
Hết hiệu lực
|
20
|
115/2013/NĐ-CP
|
3/10/2013
|
Quy định về quản lý, bảo quản tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu theo thủ tục hành
chính.
|
|
21
|
119/2013/NĐ-CP
|
9/10/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi.
|
Hết hiệu lực một phần
|
22
|
120/2013/NĐ-CP
|
9/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
|
|
23
|
121/2013/NĐ-CP
|
10/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh
vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển
nhà ở và công sở.
|
|
24
|
127/2013/NĐ-CP
|
15/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
25
|
129/2013/NĐ-CP
|
16/10/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
26
|
131/2013/NĐ-CP
|
16/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
về quyền tác giả, quyền liên quan.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
27
|
134/2013/NĐ-CP
|
17/10/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực điện lực, an toàn đập thủy điện, sử dụng năng lượng tiết
kiệm và hiệu quả.
|
|
28
|
138/2013/NĐ-CP
|
22/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục.
|
|
29
|
139/2013/NĐ-CP
|
22/10/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính về khai thác, bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; phòng, chống lụt,
bão.
|
Hết
hiệu lực
|
30
|
142/2013/NĐ-CP
|
24/10/2013
|
Về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
|
Hết hiệu lực
|
31
|
144/2013/NĐ-CP
|
29/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
|
|
32
|
147/2013/NĐ-CP
|
30/10/2013
|
Về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực hàng không dân dụng.
|
|
33
|
148/2013/NĐ-CP
|
30/10/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực dạy nghề.
|
Hết
hiệu lực
|
34
|
155/2013/NĐ-CP
|
11/11/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư.
|
Hết
hiệu lực
|
35
|
157/2013/NĐ-CP
|
11/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
36
|
158/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
37
|
159/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động báo chí, xuất bản.
|
|
38
|
162/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam.
|
Đã được
sửa đổi, bổ sung
|
39
|
163/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hóa chất, phân bón và vật liệu nổ công nghiệp.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
40
|
165/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định việc quản lý, sử dụng và
danh mục phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng để phát hiện
vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường.
|
|
41
|
166/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định về cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính.
|
|
42
|
167/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng
và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình.
|
|
43
|
169/2013/NĐ-CP
|
12/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia.
|
|
44
|
171/2013/NĐ-CP
|
13/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt.
|
Hết hiệu lực
|
45
|
173/2013/NĐ-CP
|
13/11/2013
|
Về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tài khí tượng thủy văn, đo đạc bản đồ.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
46
|
174/2013/NĐ-CP
|
13/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến
điện.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
47
|
176/2013/NĐ-CP
|
14/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế.
|
|
48
|
178/2013/NĐ-CP
|
14/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
về an toàn thực phẩm.
|
|
49
|
179/2013/NĐ-CP
|
14/11/2013
|
Về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
|
Hết hiệu lực
|
50
|
185/2013/NĐ-CP
|
15/11/2013
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
51
|
192/2013/NĐ-CP
|
21/11/2013
|
Quy định việc xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
52
|
221/2013/NĐ-CP
|
30/12/2013
|
Quy định quy định chế độ áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
Đã
được sửa đổi, bổ sung
|
53
|
02/2014/NĐ-CP
|
10/1/2014
|
Quy định chế độ áp dụng, thi hành
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và đưa vào cơ sở giáo dục
bắt buộc.
|
|
54
|
71/2014/NĐ-CP
|
21/7/2014
|
Quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
|
|
55
|
93/2014/NĐ-CP
|
17/10/2014
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 64/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học và công nghệ, chuyển giao
công nghệ.
|
|
56
|
96/2014/NĐ-CP
|
17/10/2014
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.
|
|
57
|
102/2014/NĐ-CP
|
10/11/2014
|
Về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai.
|
|
58
|
107/2014/NĐ-CP
|
17/11/2014
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt.
|
Hết
hiệu lực
|
59
|
40/2015/NĐ-CP
|
27/4/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định
số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
|
Hết
hiệu lực
|
60
|
58/2015/NĐ-CP
|
16/6/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định việc xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước.
|
|
61
|
65/2015/NĐ-CP
|
7/8/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước liên quan đến hành vi đăng, phát, cung cấp, đưa tin, công bố
thông tin sai sự thật.
|
|
62
|
67/2015/NĐ-CP
|
14/8/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,
hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
|
|
63
|
79/2015/NĐ-CP
|
14/9/2015
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
|
|
64
|
88/2015/NĐ-CP
|
7/10/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
|
|
65
|
124/2015/NĐ-CP
|
19/11/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định XPVPHC trong hoạt động
thương mại, sản xuất buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng.
|
|
66
|
132/2015/NĐ-CP
|
25/12/2015
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa (thay thế nội dung về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa tại Nghị định số
93/2013/NĐ-CP).
|
|
67
|
17/2016/NĐ-CP
|
17/3/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2013 quy định hình thức xử
phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục
hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời
gian làm thủ tục trục xuất.
|
|
68
|
20/2016/NĐ-CP
|
30/3/2016
|
Quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về
xử lý vi phạm hành chính.
|
|
69
|
31/2016/NĐ-CP
|
6/5/2016
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giống cây trồng, bảo vệ và kiểm dịch thực vật (thay thế Nghị định
số 114/2013/NĐ-CP).
|
|
70
|
45/2016/NĐ-CP
|
26/5/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong
lĩnh vực hải quan
|
|
71
|
46/2016/NĐ-CP
|
26/5/2016
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (thay thế Nghị định số
171/2013/NĐ-CP và Nghị định số 107/2014/NĐ-CP)
|
|
72
|
49/2016/NĐ-CP
|
27/5/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn
|
|
73
|
50/2016/NĐ-CP
|
1/6/2016
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư (thay thế Nghị định số 155/2013/NĐ-CP
ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư)
|
|
74
|
56/2016/NĐ-CP
|
29/6/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định
chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
|
|
75
|
95/2016/NĐ-CP
|
1/7/2016
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực thống kê (thay thế Nghị định số 79/2013/NĐ-CP ngày 19
tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực thống kê)
|
|
76
|
115/2016/NĐ-CP
|
8/7/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Nghị định số 163/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất, phân bón và vật liệu nổ
công nghiệp
|
|
77
|
136/2016/NĐ-CP
|
9/9/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định
chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 221/2013/NĐ-CP)
|
|
78
|
145/2016/NĐ-CP
|
1/11/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 108/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán
|
|
79
|
155/2016/NĐ-CP
|
18/11/2016
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (thay thế Nghị định số 179/2013/NĐ-CP)
|
|
80
|
175/2016/NĐ-CP
|
30/12/2016
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều quy định
tại Nghị định số 86/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ về kinh
doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài
|
Có một
phần nội dung quy định về XPVPHC
|
81
|
03/2017/NĐ-CP
|
16/01/2017
|
Về kinh doanh casino
|
Có một
phần nội dung quy định về XPVPHC
|
82
|
06/2017/NĐ-CP
|
24/01/2017
|
Về kinh doanh đặt cược đua ngựa,
đua chó và bóng đá quốc tế
|
Có một
phần nội dung quy định về XPVPHC
|
83
|
23/2017/NĐ-CP
|
13/3/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định
số 162/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ Quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
|
84
|
28/2017/NĐ-CP
|
20/3/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 131/2013/NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số
158/2013/NĐ- CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
|
|
85
|
33/2017/NĐ-CP
|
3/4/2017
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản (thay thế Nghị định số
142/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản)
|
|
86
|
41/2017/NĐ-CP
|
5/4/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực
thú y, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi; quản lý rừng, phát triển rừng, bảo
vệ rừng và quản lý lâm sản
|
|
87
|
49/2017/NĐ-CP
|
24/4/2017
|
Sửa đổi, bổ sung Điều 15 của Nghị định
số 25/2011/NĐ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông và Điều 30 của Nghị định số
174/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số
vô tuyến điện
|
|
88
|
67/2017/NĐ-CP
|
25/5/2017
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực dầu khí, kinh doanh xăng dầu và khí (thay thế Nghị định số
97/2013/NĐ-CP ngày 27/8/2013 quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực dầu
khí, kinh doanh xăng dầu và khí dầu mỏ hóa lỏng)
|
|
89
|
84/2017/NĐ-CP
|
18/7/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 173/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản
đồ
|
|
90
|
90/2017/NĐ-CP
|
31/7/2017
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thú y
|
|
91
|
97/2017/NĐ-CP
|
18/8/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính
|
|
92
|
104/2017/NĐ-CP
|
14/9/2017
|
Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực phòng, chống thiên tai; khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi;
đê điều
|
|
---------------------------
* Số liệu được tổng hợp, thống kê đến ngày 30/9/2017
(Tổng số 92 Nghị định, trong đó có 09 Nghị định hết hiệu lực toàn bộ)
PHỤ LỤC 02
DANH MỤC CÁC THÔNG TƯ VỀ XLVPHC CÒN
HIỆU LỰC
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP ngày 08/01/2018 của Bộ Tư pháp)
STT
|
Số,
ký hiệu văn bản
|
Ngày
ban hành
|
Trích
yếu
|
Ghi
chú
|
1
|
90/2008/TT-BNN
|
28/8/2008
|
Hướng dẫn xử lý tang vật là động vật
rừng sau xử lý tịch thu
|
|
2
|
09/2013/TT-BCT
|
2/5/2013
|
Quy định về hoạt động kiểm tra và xử
phạt vi phạm hành chính của Quản lý thị trường
|
|
3
|
26/2013/TT-BCT
|
30/10/2013
|
Quy định về mẫu biên bản, quyết định
sử dụng trong hoạt động kiểm tra và xử phạt vi phạm hành chính của quản lý thị
trường
|
|
4
|
32/2013/TT-BGTVT
|
15/10/2013
|
Ban hành mẫu biên bản, mẫu quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội
địa
|
|
5
|
153/2013/TT-BTC
|
31/10/2013
|
Quy định về thủ tục thu, nộp tiền
phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động
của các lực lượng xử phạt vi phạm hành chính
|
|
6
|
166/2013/TT-BTC
|
15/11/2013
|
Quy định chi tiết về xử phạt vi phạm
hành chính về thuế
|
|
7
|
173/2013/TT-BTC
|
20/11/2013
|
Hướng dẫn thực hiện một số nội dung
về quản lý, xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch
thu theo thủ tục hành chính
|
|
8
|
186/2013/TT-BTC
|
5/12/2013
|
Hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý phí, lệ phí
|
|
9
|
32/2013/TT-TTLT-BLĐTBXH-BNG
|
6/12/2013
|
Hướng dẫn trình tự, thủ tục xử phạt
vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm a, Điểm b và Điểm
c Khoản 2 Điều 35 của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ
|
|
10
|
190/2013/TT-BTC
|
12/12/2013
|
Quy định chi tiết thi hành Nghị định
127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan
|
|
11
|
53/2013/TT-BGTVT
|
13/12/2013
|
Ban hành mẫu biên bản, mẫu quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng không dân dụng
|
|
12
|
215/2013/TT-BTC
|
31/12/2013
|
Hướng dẫn về cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính thuế
|
|
13
|
217/2013/TT-BTC
|
31/12/2013
|
Hướng dẫn thực hiện xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
|
|
14
|
07/2014/TT-BTC
|
14/01/2014
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thực
hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước theo quy định tại Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013
của Chính phủ
|
|
15
|
10/2014/TT-BTC
|
17/01/2014
|
Hướng dẫn xử phạt vi phạm hành
chính về hóa đơn
|
|
16
|
02/2014/TT-BXD
|
12/2/2014
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh
doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản
lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở
|
|
17
|
07/2014/TT-BCT
|
14/02/2014
|
Quy định về quản lý, sử dụng trang
phục, phù hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, biển hiệu và thẻ kiểm tra thị trường của
quản lý thị trường
|
|
18
|
31/2014/TT-BTC
|
7/3/2014
|
Hướng dẫn xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực quản lý giá tại Nghị định số 109/2013/NĐ-CP ngày 24
tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn
|
|
19
|
05/2014/TT-BGTVT
|
31/03/2014
|
Ban hành mẫu biên bản, mẫu quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt
|
|
20
|
54/2014/TT-BTC
|
24/04/2014
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thực
hiện việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kho bạc nhà nước theo quy
định tại Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ
|
|
21
|
14/2014/TT-BCT
|
26/5/2014
|
Quy định trình tự xác minh và xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực điện lực thuộc thẩm quyền của thủ trưởng cơ
quan điều tiết điện lực
|
|
22
|
14/2014/TT-BLĐTBXH
|
12/6/2014
|
Ban hành biểu mẫu về lập hồ sơ đề
nghị, thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc và hướng dẫn xây dựng nội quy, quy chế đối với học viên của
cơ sở cai nghiện bắt buộc.
|
|
23
|
19/2014/TT-BKHCN
|
1/7/2014
|
Hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 80/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm,
hàng hóa
|
|
24
|
95/2014/TT-BQP
|
7/7/2014
|
Hướng dẫn thi hành Nghị định số
120/2013/NĐ-CP ngày 09 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.
|
|
25
|
97/2014/TT-BQP
|
16/7/2014
|
Quy định về ban hành, quản lý và sử
dụng biểu mẫu trong xử phạt theo thủ tục hành chính
|
|
37
|
48/2014/TT-BCA
|
17/10/2014
|
Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2013 quy định chế độ
áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
|
|
38
|
193/2014/TT-BTC
|
12/12/2014
|
Quy định quản lý và sử dụng kinh
phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục, tại xã, phường,
thị trấn
|
|
39
|
07/2015/TT-BCA
|
27/01/2015
|
Quy định quản lý trại viên cơ sở
giáo dục bắt buộc
|
|
40
|
10/2015/TT-BCA
|
11/2/2015
|
Quy định chi tiết về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực liên quan an ninh, trật tự, an toàn xã hội
|
|
41
|
20/2015/TT-BCA
|
14/05/2015
|
Ban hành nội quy trường giáo dưỡng
|
|
42
|
21/2015/TT-BCA
|
14/05/2015
|
Ban hành nội quy cơ sở giáo dục bắt
buộc
|
|
43
|
13/2015/TT-BCT
|
16/6/2015
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư số 26/2013/TT-BCT ngày 30 tháng 10 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Công
Thương quy định về mẫu biên bản, quyết định sử dụng trong hoạt động kiểm tra
và xử phạt vi phạm hành chính của quản lý thị trường
|
|
44
|
47/2015/TT-BQP
|
18/06/2015
|
Hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 169/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia
|
|
45
|
11/2015/TT-BKHCN
|
26/6/2015
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
|
|
46
|
17/2015/TTLT-BYT-BLĐTBXH-BCA
|
9/7/2015
|
Quy định thẩm quyền, thủ tục và quy
trình xác định tình trạng nghiện ma túy
|
|
47
|
27/2015/TTLT-BCT-BCA-VKSNDTC-TANDTC
|
17/8/2015
|
Hướng dẫn chuyển hồ sơ vụ trộm cắp
điện để truy cứu trách nhiệm hình sự
|
|
48
|
10/2015/TT-BTP
|
31/8/2015
|
Quy định chế độ báo cáo trong quản
lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và theo dõi tình
hình thi hành pháp luật
|
|
49
|
43/2015/TT-BCA
|
9/9/2015
|
Quy định về thăm gặp; nhận, gửi
thư, tiền, quà; liên lạc điện thoại đối với học sinh trường giáo dưỡng, trại
viên cơ sở giáo dục bắt buộc
|
|
50
|
44/2015/TT-BCA
|
9/9/2015
|
Quy định về thi đua đối với học
sinh trường giáo dưỡng, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc
|
|
51
|
20/2015/TT-BKHCN
|
5/11/2015
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Nghị định số 93/2014/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 64/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm
2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động khoa học
và công nghệ, vi phạm hành chính của Bộ Quốc phòng
|
|
26
|
105/2014/TT-BTC
|
7/8/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư số 153/2013/TT-BTC ngày 31 tháng 10 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính quy định về thủ tục thu, nộp tiền phạt, biên lai thu tiền phạt và kinh
phí từ ngân sách nhà nước bảo đảm hoạt động của các lực
lượng xử phạt vi phạm hành chính
|
|
27
|
38/2014/TT-BCA
|
12/9/2014
|
Quy định về biểu mẫu sử dụng khi áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
|
|
28
|
39/2014/TT-BCA
|
12/9/2014
|
Quy định về biểu mẫu sử dụng khi áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc
|
|
29
|
130/2014/TT-BQP
|
24/9/2014
|
Hướng dẫn thực hiện một số điều Nghị
định số 162/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
|
|
30
|
42/2014/TT-BCA
|
25/9/2014
|
Quy định về biểu mẫu sử dụng trong Công an nhân dân khi áp dụng
và thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn
|
|
31
|
43/2014/TT-BCA
|
8/10/2014
|
Quy định chi tiết thi hành Nghị định
số 02/2014/NĐ-CP ngày 10/01/2014 quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc
|
|
32
|
148/2014/TTLT-BTC-BLĐTBXH
|
8/10/2014
|
Quy định quản lý và sử dụng kinh
phí thực hiện chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc; chế độ đối với người chưa thành niên, người tự nguyện chữa
trị, cai nghiện tại Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao
động xã hội và tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình và cộng đồng
|
|
33
|
27/2014/TT-BKHCN
|
10/10/2014
|
Quy định chi tiết một số điều của
Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử
|
|
34
|
149/2014/TT-BTC
|
10/10/2014
|
Quy định về số lợi bất hợp pháp có
được do thực hiện hành vi vi phạm hành chính để sung vào ngân sách nhà nước
|
|
35
|
34/2014/TT-BCT
|
15/10/2014
|
Quy định về công tác phối hợp giữa
cơ quan Quản lý thị trường các cấp trong hoạt động kiểm tra và xử lý vi phạm
hành chính
|
|
36
|
47/2014/TT-BCA
|
17/10/2014
|
Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Nghị định số 115/2013/NĐ-CP ngày 03/10/2013 về quản lý, bảo quản
tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu chuyển giao
công nghệ
|
|
52
|
55/2015/TT-BLĐTBXH
|
16/12/2015
|
Hướng dẫn việc tiếp nhận, quản lý
và giáo dục người chưa thành niên không có nơi cư trú ổn định bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn tại các cơ sở trợ giúp trẻ em
|
|
53
|
19/2015/TT-BTP
|
28/12/2015
|
Quy định việc kiểm tra tính pháp lý
của Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
|
|
54
|
78/2016/TT-BQP
|
8/6/2016
|
Quy định quy trình xử lý vi phạm
hành chính của Bộ đội Biên phòng
|
|
55
|
12/2016/TT-BGTVT
|
9/6/2016
|
Hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 132/2015/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2015 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
|
|
56
|
12/2016/TTLT-BTNMT-BTC
|
24/6/2016
|
Quy định việc quản lý, cấp phát, tạm
ứng và hoàn trả chi phí đo đạc xác định diện tích đất vi
phạm
|
|
57
|
30/2016/TT-BCA
|
11/7/2016
|
Quy định công tác của giáo viên chủ
nhiệm ở trường giáo dưỡng
|
|
58
|
31/2016/TT-BCA
|
11/7/2016
|
Quy định công tác của Cảnh sát quản
giáo ở cơ sở giáo dục bắt buộc
|
|
59
|
18/2016/TT-BCT
|
31/08/2016
|
Quy định về thẻ kiểm tra thị trường
và sửa đổi, bổ sung nội dung một số mẫu biên bản, quyết định sử dụng trong hoạt
động kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính của lực lượng
|
|
65
|
06/2017/TT-BGTVT
|
28/02/2017
|
Quy định quy trình sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ và sử dụng kết quả thu được từ phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ làm căn cứ để xác định vi phạm hành chính và xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
|
|
66
|
19/2017/TT-BTC
|
28/02/2017
|
Quy định việc lập dự toán, quản lý,
sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho công tác quản lý nhà nước
về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính
|
|
67
|
36/2017/TT-BTC
|
27/4/2017
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư số 217/2013/TT-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2013 hướng dẫn thực hiện xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán
|
|
----------------------
* Số liệu được tổng hợp, thống kê đến
ngày 30/9/2017
PHỤ LỤC 03
HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT XLVPHC VÀ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT XLVPHC
(Kèm theo Báo cáo số: 09/BC-BTP
ngày 08/01/2018 của Bộ
Tư pháp)
I. Hạn chế, bất
cập trong quy định của Luật XLVPHC
1. Hạn chế, bất
cập của các quy định về XPVPHC
- Một số thuật ngữ quy định còn mang
tính định tính, chưa giải thích rõ ràng nên việc áp dụng còn chưa thống nhất,
ví dụ như: “trình độ lạc hậu” (Điều 7 Luật XLVPHC); “có
quy mô lớn” (Điều 10 Luật
XLVPHC); “vi phạm hành chính nghiêm trọng” (Điều
25, 26 Luật XLVPHC); “vụ việc đặc biệt nghiêm trọng”, “nhiều tình tiết phức
tạp” (Điều 66 Luật XLVPHC); hành vi “trốn tránh”, “trì hoãn”,
“côn đồ hung hãn” (Điều 118 Luật XLVPHC); “gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh
hưởng xấu về dư luận xã hội” (Điều 72 Luật XLVPHC); “tài sản khác”
(Điều 82 Luật XLVPHC).
- Điểm b khoản 1 Điều 6 Luật XLVPHC
quy định: “Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được
tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính
từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm”. Tuy nhiên, cách xác định thời điểm kết thúc hành vi VPHC để từ đó xác
định hành vi nào “đã kết thúc”, hành vi nào “đang được thực hiện” thì chưa có
văn bản nào hướng dẫn, do vậy, đang có nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng với
các vi phạm diễn ra trên thực tế.
- Khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC quy định
về việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới. Tuy nhiên, việc
thực hiện quy định này trong thực tế đang gặp khó khăn vướng mắc, đó là: (i)
Chưa có hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ tục để tránh khiếu nại, khởi kiện về thủ
tục thực hiện; (ii) Nếu sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới
thì hậu quả pháp lý ra sao; (iii) Nếu quyết định xử phạt đúng nhưng trình tự,
thủ tục có sai sót thì xử lý như thế nào; (iv) phạm vi xem xét để xử lý quyết định
XPVPHC “có sai sót”. Đồng thời, Luật XLVPHC cũng chưa quy định trường hợp phát
hiện việc lập Biên bản VPHC có sai sót và việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ,
ban hành mới biên bản mặc dù trường hợp này xảy ra rất nhiều trong thực tiễn
thi hành.
- Vấn đề thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện VPHC bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền (Từ Điều 38 đến Điều 51
Luật XLVPHC): Luật XLVPHC quy định thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện
VPHC bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền làm phát sinh nhiều vụ việc vi phạm
vượt quá thẩm quyền xử phạt của cơ quan cấp dưới bị dồn lên cơ quan cấp trên giải
quyết, không bảo đảm tính kịp thời, nhanh chóng trong việc xử phạt.
- Về thẩm quyền XPVPHC (Từ Điều 38 đến
Điều 51 Luật XLVPHC): Hiện nay, nhiều chức danh có thẩm quyền XPVPHC đã thay đổi
hoặc không còn nữa hoặc phát sinh thêm một số chức danh do việc phân, tách,
thành lập mới các cơ quan quản lý nhà nước, cần phải bãi bỏ,
sửa đổi hoặc bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tiễn cũng
như đảm bảo tính thống nhất của pháp luật.
- Về thẩm quyền một số chức danh của
Bộ đội Biên phòng như Đồn trưởng Đồn biên phòng (điểm d khoản 3 Điều 40 Luật
XLVPHC), Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng cấp tỉnh (điểm đ khoản 4 Điều 40): Cả
hai chức danh này đều không được áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại
điểm d khoản 1 Điều 28 Luật XLVPHC: “buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện”. Tuy nhiên, trên thực tế ở khu vực biên giới thường xảy ra các hành vi
vi phạm của người, phương tiện nước ngoài, nhất là phương tiện chở hàng tạm nhập,
tái xuất. Khi XPVPHC theo thẩm quyền trên, nếu hai chức danh trên không được áp
dụng biện pháp này, dẫn đến những khó khăn trong công tác xử phạt VPHC của lực
lượng Bộ đội biên phòng.
- Điều 54, Điều 87, Điều 123 Luật
XLVPHC quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó, nhưng lại chưa có quy định
cũng như hướng dẫn việc cấp phó được giao quyền có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp ngăn chặn và bảo đảm việc XPVPHC dẫn đến các cách hiểu và áp dụng khác
nhau. Đồng thời, Luật XLVPHC và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa có hướng
dẫn cụ thể xác định trường hợp cấp trưởng “vắng mặt” (Điều
87) là như thế nào, gây lúng túng trong việc áp dụng trên
thực tế.
- Điều 57 Luật XLVPHC quy định việc “đánh
bút lục” trong hồ sơ. Việc đánh bút lục đối với hồ sơ XPVPHC nhằm mục đích
thực hiện tốt công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ XPVPHC, tạo thuận lợi cho việc
tra cứu hồ sơ XPVPHC trong trường hợp cần thiết (khi có khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện, xem xét sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định XPVPHC...). Tuy nhiên, hiện
nay, chưa có văn bản hướng dẫn về cách đánh bút lục, thứ tự đánh bút lục cách sắp
xếp hồ sơ XPVPHC.
- Khoản 3 Điều 60 Luật XLVPHC quy định
thời gian tạm giữ tang vật để xác định giá trị là không quá 24 giờ và nếu cần
thiết có thể kéo dài thêm nhưng không được quá 24 giờ (tổng cộng tối đa là 48
giờ). Có thể thấy thời gian quy định là không phù hợp vì việc thành lập hội đồng
định giá, việc tổ chức định giá đối với những vụ vi phạm mà tang vật là hàng
hóa nhập lậu có giá trị, đặc biệt ở các khu vực biên giới, biển, đảo rất khó
khăn. Hơn nữa, có nhiều vụ vi phạm tang vật là nhiều chủng loại hàng hóa, hàng
hóa phức tạp, khó xác minh trị giá... việc xác định giá trị trong khoảng thời
gian 24 giờ sẽ không đảm bảo tính chính xác, dẫn đến việc ra quyết định XPVPHC
không chính xác, không đúng thẩm quyền.
- Khoản 1 Điều 61 Luật XLVPHC không
quy định quyền giải trình đối với trường hợp đối tượng vi phạm bị áp dụng biện
pháp tịch thu tang vật, phương tiện VPHC hoặc phương tiện sử dụng trong VPHC là
không hợp lý, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đối tượng vi phạm, vì trong
nhiều trường hợp, nhiều tang vật, phương tiện vi phạm còn có giá trị lớn hơn
nhiều lần so với số tiền bị xử phạt.
- Điều 62 Luật XLVPHC quy định về việc
chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự,
tuy nhiên chưa quy định rõ khi chuyển sang cơ quan điều tra thì tang vật,
phương tiện VPHC bị tạm giữ do cơ quan nào quản lý, chi phí do ai chi trả, thời
hạn, thủ tục tạm giữ trong trường hợp này giải quyết như thế nào.
- Điều 70 Luật XLVPHC quy định thời hạn
gửi quyết định XPVPHC trong vòng 02 ngày, việc quy định này khó thực hiện do khối
lượng quyết định XPVPHC rất lớn, nhiều đối tượng vi phạm không có nơi cư trú ổn
định hoặc ít có mặt tại địa phương hoặc địa chỉ ghi trong
giấy tờ khác với địa chỉ cư trú thực tế.
- Về tạm giữ người theo thủ tục hành
chính: Điều 122 Luật XLVPHC quy định chỉ được áp dụng biện pháp tạm giữ người
theo thủ tục hành chính trong trường hợp cần ngăn chặn,
đình chỉ ngay nhưng hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người
khác. Việc quy định quá hạn hẹp những trường hợp được áp dụng biện pháp giữ người
theo thủ tục hành chính đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng, trong nhiều
trường hợp đối tượng có nhiều hành vi vi phạm khác nhau như đánh bạc, trộm cắp
tài sản..., cần có thời gian đế xác minh, làm rõ hành vi, hậu quả, thiệt hại, đặc
biệt là xác minh về nhân thân của các đối tượng vi phạm để xử lý theo đúng quy
định pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm (nhất là đối với những tội có quy định đã
bị XPVPHC về các hành vi trên) nhưng đối tượng lại không có nơi cư trú ổn định,
nếu không tạm giữ hành chính thì đối tượng bị bỏ trốn, gây khó khăn cho công
tác điều tra, xử lý về sau.
Ngoài ra, trường hợp vi phạm thường
xuyên diễn ra trên thực tế hiện nay là các đối tượng có các hành vi chống lại
người thi hành công vụ. Nếu không tạm giữ theo thủ tục
hành chính thì sẽ khó có thể xử phạt hành chính đối với họ. Đây cũng là khó
khăn, bất cập trong việc quản lý người vi phạm để bảo đảm cho công tác XPVPHC.
- Đoạn 2 khoản 1 Điều 126 Luật XLVPHC
quy định buộc đối tượng vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá
tang vật, phương tiện vi phạm vào ngân sách nhà nước trong trường hợp họ chiếm
đoạt, sử dụng trái phép để VPHC. Tuy nhiên, quy định này rất khó triển khai áp
dụng trên thực tế do pháp luật hiện hành chưa cụ thể: hình thức nộp tiền; trình
tự, thủ tục nộp tiền; thời điểm nộp tiền; thời điểm trả lại tài sản cho chủ sở
hữu hợp pháp...? Ngoài ra, tính khả thi của quy định này cũng là một trong những
vấn đề cần lưu ý, vì theo phản ánh từ nhiều Bộ, ngành, địa phương thì quy định
này hầu như không thể thực hiện được trên thực tế. Điều này xuất phát từ thực
trạng hiện nay, các phương tiện VPHC như xe ô tô, máy xúc, máy ủi, tàu thuyền
(là những tài sản có giá trị lớn) đều do những người làm công, làm thuê quản
lý, sử dụng và thực hiện hành vi VPHC. Trong trường hợp này, các lực lượng chức
năng không thể tịch thu các phương tiện mà phải trả lại cho chủ sở hữu, đồng thời
yêu cầu người làm công, làm thuê phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá
phương tiện VPHC, trong khi hầu hết những đối tượng này đều thuộc diện nghèo
khó, không có điều kiện kinh tế để thi hành quyết định xử phạt.
- Khoản 2 Điều 129 quy định “trong
trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ
ở thì đề nghị Chủ tịch UBND cấp huyện xem xét, quyết định” gặp nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình thực hiện, vì có những vụ
VPHC xảy ra tại địa bàn khu vực biên giới, cách xa trụ sở
UBND huyện, nếu đề nghị Chủ tịch UBND huyện xem xét, quyết định thì đối tượng
đã có thời gian tiêu hủy tang vật, gây khó khăn cho công tác xác minh của lực
lượng chức năng.
2. Hạn chế, bất
cập của các quy định về BPXLHC
- Điểm b khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC
quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối
với người nghiện không có nơi cư trú ổn định “tài liệu
chứng minh người đó đã bị áp dụng biện pháp
giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi nghiện
ma túy”. Quy định này rất
khó thực hiện trong thực tế và dễ bị Tòa án trả lại hồ sơ vì người nghiện không
có nơi cư trú ổn định không bị áp dụng biện pháp GDTXPTT.
- Về quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm
là điều kiện để áp dụng các BPXLHC được quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 90
Luật XLVPHC chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau, đó là:
(i) đối tượng lần vi phạm thứ hai hay phải vi phạm lần thứ ba mới đủ điều kiện
áp dụng BPXLHC giáo dục tại xã, phường, thị trấn?; (ii) hành vi vi phạm của đối
tượng tại các lần vi phạm có nhất thiết phải có sự trùng lặp không (ví dụ: lần
1 đối tượng có hành vi trộm cắp, lần 2 đối tượng có hành vi đánh bạc thì có bị
áp dụng BPXLHC giáo dục tại xã, phường, thị trấn hay không)?; (iii) tại lần vi
phạm cuối cùng để xem xét, lập hồ sơ đề nghị áp dụng BPXLHC giáo dục tại xã,
phường, thị trấn, người có thẩm quyền XPVPHC có phải ra quyết định XPVPHC
không, hay chỉ cần lập biên bản VPHC?... Tương tự đối với khoản 4 Điều 92 và
khoản 1 Điều 94 Luật XLVPHC.
- Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực
hiện quy định khoản 1 và 2 Điều 131 Luật XLVPHC không khả thi, vì hầu hết các đối
tượng người nghiện đều lệ thuộc nặng nề vào ma túy cả về tinh thần lẫn thể chất,
họ thường có thái độ bất hợp tác, thậm chí chống đối quyết liệt việc đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc, gia đình và tổ chức xã hội rất khó quản lý. Hơn nữa, hiện
nay, các tổ chức xã hội không có đầy đủ các điều kiện về con người, cơ sở vật
chất. Bên cạnh đó, Luật XLVPHC và các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật
cũng không quy định cụ thể tổ chức xã hội nào thực hiện công việc này.
II. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG LỚN SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT XLVPHC
Từ các hạn chế, bất cập nêu trên, Bộ Tư
pháp đề xuất một số định hướng lớn trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong 05 năm thi hành Luật
XLVPHC, cụ thể là:
1. Đối với công
tác XPVPHC
Bộ Tư pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung
các quy định liên quan đến thẩm quyền xử phạt, trình tự, thủ tục XPVPHC nhằm
rút ngắn thời gian, đơn giản hóa thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
pháp luật của các lực lượng chức năng có thẩm quyền xử phạt, cụ thể là:
1.1. Về một số quy định chung
Thứ nhất,
để giải quyết việc áp dụng chưa thống nhất trong một số quy định của Luật
XLVPHC, cần nghiên cứu, chỉnh sửa, làm rõ định nghĩa của một số thuật ngữ còn
mang tính định tính, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau như: “có quy mô lớn” (khoản
1 Điều 10 Luật XLVPHC); “vi phạm hành chính nghiêm trọng” (Điều 25, 26
Luật XLVPHC); “vụ việc đặc biệt nghiêm trọng”, “nhiều tình tiết phức tạp”
(khoản 1 Điều 66 Luật XLVPHC)...
Thứ hai,
không quy định “vi phạm hành chính nhiều lần” là tình tiết tăng nặng như hiện
nay tại điểm b khoản 1 Điều 10 Luật XLVPHC để thống nhất với quy định tại điểm
d khoản 1 Điều 3 Luật XLVPHC (vi phạm hành chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng
hành vi vi phạm).
Thứ ba,
nghiên cứu làm rõ cách tính thời gian, thời hạn, thời hiệu theo hướng quy định
thống nhất thời gian theo ngày làm việc để tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn áp
dụng.
1.2. Về thẩm quyền XPVPHC
Thứ nhất,
về các chức danh có thẩm quyền xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả,
cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung bãi bỏ các quy định sau đây:
- Bổ sung thẩm quyền xử phạt và áp dụng
biện pháp khắc phục hậu quả đối với một số chức danh hiện nay chưa có thẩm quyền xử phạt và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, ví dụ: Cục trưởng
Cục Quản lý cạnh tranh; Cục trưởng Cảnh sát phòng chống tội phạm về buôn lậu, Bộ
Công an (C74);
Cục trưởng Cục Kiểm soát hoạt động bảo
vệ môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường; Cục trưởng Cục Phòng chống tội phạm
ma túy, Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng;..
- Đổi tên một số chức danh có thẩm
quyền xử phạt, ví dụ: Cục Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt Cục Cảnh sát
giao thông đường thủy sửa thành Cục Cảnh sát giao thông (khoản 6 Điều 39 Luật
XLVPHC); Cục trưởng Cục Cảnh sát biển sửa thành Tư lệnh Cảnh sát biển (khoản 7
Điều 41 Luật XLVPHC); Chỉ huy trưởng Vùng Cảnh sát biển sửa thành Tư lệnh Vùng
Cảnh sát biển (khoản 6 Điều 41 Luật XLVPHC)....
- Bỏ thẩm quyền xử phạt đối với một số
chức danh, ví dụ: Chức danh Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản của vụ việc
phá sản: Điểm b khoản 1 Điều 163 Luật thi hành án dân sự năm 2008 đã bị bãi bỏ
bởi khoản 49 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân
sự năm 2014, theo đó, chức danh này không được XPVPHC.
Thứ hai,
về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị giới hạn
theo thẩm quyền phạt tiền (Từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC): Sửa đổi quy định
về thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của các chức
danh có thẩm quyền xử phạt được quy định từ Điều 38 đến Điều 51 Luật XLVPHC
theo hướng không bị giới hạn theo thẩm quyền phạt tiền để bảo đảm tính kịp thời,
nhanh chóng trong việc xử phạt, tránh phát sinh nhiều vụ việc vi phạm vượt quá
thẩm quyền xử phạt của cơ quan cấp dưới bị dồn lên cơ quan cấp trên giải quyết.
Thứ ba, vấn
đề giao quyền: Sửa đổi, bổ sung Luật XLVPHC theo hướng cấp trưởng được giao quyền
cho cấp phó trong tất cả các quyết định về XLVPHC nói chung và các quyết định về
XPVPHC nói riêng, không chỉ giới hạn trong 03 trường hợp quy định tại Điều 54
(Giao quyền xử phạt); khoản 2 Điều 87 (Cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC) và
khoản 2 Điều 123 (Tạm giữ người theo thủ tục hành chính).
1.3. Về trình tự, thủ tục
Tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định
sau đây:
Thứ nhất, để bảo đảm tính khả thi trong tổ chức thực hiện, cần nghiên cứu kéo
dài thời gian tiến hành một số công việc mà hiện nay Luật quy định thời gian thực
hiện quá ngắn, ví dụ: Thời hạn định giá tang vật vi phạm hành chính tại Điều 60
Luật XLVPHC, thời hạn ra quyết định XPVPHC tại Điều 66 Luật XLVPHC...
Thứ hai,
bổ sung các quy định cụ thể liên quan đến căn cứ, trình tự, thủ tục, hậu quả
pháp lý của việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt
vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ ba, sửa
đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục thực hiện việc giải trình tại Luật
XLVPHC do hiện nay, việc này chưa được thực hiện một cách nghiêm túc. Một phần
nguyên nhân là do pháp luật còn thiếu các quy định liên quan đến trình tự, thủ
tục, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức bị XPVPHC.
Thứ tư, sửa
đổi, bổ sung quy định tại Điều 64 Luật XLVPHC liên quan đến việc sử dụng phương
tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ trong việc phát hiện vi phạm hành chính theo
hướng:
- Mở rộng phạm vi chủ thể có thẩm quyền
được phép sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện
vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông (Ví dụ: Các tổ chức được giao
quản lý, khai thác, bảo trì kết cấu hạ tầng giao thông đường
bộ, đường sắt), không chỉ “cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính” được sử dụng phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn
giao thông và bảo vệ môi trường như quy định hiện nay tại khoản 1 Điều 64 Luật XLVPHC.
- Quy định cụ thể (hoặc giao Chính phủ
quy định cụ thể) quy trình “chuyển hóa” kết quả thu được từ các phương tiện,
thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ do các tổ chức được giao quản lý, khai thác, bảo
trì kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt cung cấp thành các chứng cứ
để làm căn cứ cho người có thẩm quyền xử phạt có thể ban hành quyết định
XPVPHC.
- Quy định cụ thể (hoặc giao Chính phủ
quy định cụ thể) quy trình “chuyển hóa” kết quả thu được từ các phương tiện,
thiết bị khác (không phải các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ) do các
cá nhân, tổ chức cung cấp thành các chứng cứ để làm căn cứ cho người có thẩm
quyền xử phạt có thể ban hành quyết định XPVPHC, ví dụ: các clip hình ảnh do
người dân ghi lại, trong đó có chứa đựng các thông tin hình ảnh về việc vi phạm
hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và
cung cấp cho cơ quan, người có thẩm quyền XPVPHC.
Thứ năm,
sửa đổi, bổ sung quy định tại đoạn 2 khoản 1 Điều 126 Luật XLVPHC (buộc đối tượng
vi phạm phải nộp một khoản tiền tương đương trị giá tang vật, phương tiện vi phạm
vào ngân sách nhà nước trong trường hợp họ chiếm đoạt, sử dụng trái phép để vi
phạm hành chính) theo hướng cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng, bảo đảm tính
khả thi hơn.
1.4. Về xử lý tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính
Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật
liên quan đến trình tự, thủ tục tạm giữ, tịch thu, bán đấu giá, thanh lý tài sản
nhà nước theo hướng đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn thời
gian xử lý các tang vật, phương tiện bị tạm giữ, chẳng hạn như:
- Rút ngắn thời gian và số lần thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong trường hợp phương tiện vi phạm
hành chính đã quá thời hạn tạm giữ mà người vi phạm không đến nhận (không có lý
do chính đáng) hoặc trường hợp không xác định được người vi phạm (quy định tại
khoản 4 Điều 126 Luật XLVPHC) để cơ quan có thẩm quyền có thể nhanh chóng tiến
hành các thủ tục bán đấu giá, thanh lý tang vật, phương tiện vi phạm.
- Đối với các tang vật, phương tiện
vi phạm có giá trị thấp hoặc không còn giá trị sử dụng mà chủ sở hữu, người quản
lý hoặc người sử dụng hợp pháp phương tiện không đến nhận lại thì có thể tiến
hành ngay các thủ tục để bán đấu giá, thanh lý tài sản,
tránh trường hợp tang vật, phương tiện để lâu ngày, bị tồn đọng tại các điểm
trông giữ tang vật, phương tiện vi phạm.
1.5. Về cưỡng chế thi hành quyết
định XPVPHC
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định
sau đây:
Thứ nhất,
bổ sung quy định cụ thể về thời hạn, thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế
thi hành quyết định XPVPHC.
Thứ hai,
hiện nay, Luật XLVPHC chưa có quy định về việc cơ quan nào có thẩm quyền ra quyết
định cưỡng chế trong trường hợp chuyển quyết định xử phạt để tổ chức thi hành tại
Điều 71 của Luật (cơ quan ra quyết định hay cơ quan tiếp nhận quyết định xử phạt
để thi hành). Do vậy, cần nghiên cứu bổ sung quy định về vấn đề này.
Thứ ba, quy định cụ thể, chi tiết hơn các nội dung liên quan đến trình tự, thủ
tục cưỡng chế thi hành quyết định XPVPHC trong Luật XLVPHC để bảo đảm tính khả
thi trong tổ chức thực hiện, bảo đảm tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật
về XLVPHC, đồng thời bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành pháp luật
về XLVPHC.
1.6. Về sự tương thích giữa các
quy định về XPVPHC của Luật XLVPHC và các nghị định quy định về XPVPHC với các
quy định của Bộ luật hình sự
Cần rà soát, nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung một số quy định tại Luật XLVPHC và các nghị định quy định về XPVPHC liên
quan đến đối tượng bị XPVPHC; các hành vi vi phạm hành chính, cách mô tả hành
vi vi phạm hành chính; mức tiền phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính; mức
định lượng hậu quả, thiệt hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra;... nhằm bảo
đảm sự tương thích với các quy định của Bộ luật hình sự, ví dụ: đối với một số
hành vi đã được quy định là tội phạm với cấu thành “đã bị XPVPHC” nhưng hành vi đó chưa được quy định trong nghị định về XPVPHC, thì cần
thiết phải bổ sung các hành vi này vào nghị định XPVPHC để có cơ sở truy cứu
trách nhiệm hình sự.
2. Đối với công
tác áp dụng các BPXLHC
2.2. Về điều kiện áp dụng các
BPXLHC
Thứ nhất,
sửa đổi quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm là
điều kiện để áp dụng các BPXLHC tại các Điều 90, 92 và 94 Luật XLVPHC do hiện
nay có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau liên quan đến vấn đề này.
Thứ hai,
sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp GDTXPTT theo hướng loại trừ việc
áp dụng biện pháp này đối với một số đối tượng, vì trên thực tế, BPXLHC giáo dục
tại xã, phường, thị trấn chỉ là biện pháp tiền đề, “đầu vào” cho các BPXLHC
khác như: đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và
đưa vào trường giáo dưỡng.
2.2. Về trình tự, thủ tục
Thứ nhất,
sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc
thời gian thực hiện các công việc liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng các
BPXLHC, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng các
BPXLHC.
Thứ hai,
bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 1 và 2 Điều 131 Luật XLVPHC về
việc giao gia đình hoặc tổ chức xã hội quản lý người có hành vi vi phạm pháp luật
thuộc đối tượng bị áp dụng các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ
sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đặc biệt là đối tượng
người nghiện ma túy) trong thời gian lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp
này nhằm bảo đảm tính khả thi.
Thứ ba, sửa
đổi các quy định tại điểm a khoản 1 Điều 99; điểm b khoản 1 Điều 101 và điểm a
khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC theo hướng: kiểm tra tính pháp lý là “khâu” cuối
cùng, trước khi chuyển hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện áp dụng
BPXLHC.
2.3. Về sự tương thích giữa các
quy định về áp dụng BPXLHC của Luật XLVPHC với các quy định của Bộ luật hình sự và Luật phòng, chống ma túy
Thứ nhất,
sửa đổi các quy định về đối tượng áp dụng các BPXLHC giáo dục tại xã, phường,
thị trấn, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng tại khoản
3, khoản 5 Điều 90, khoản 4 Điều 92 và khoản 1 Điều 94 Luật XLVPHC cho thống nhất
với quy định của Bộ luật hình sự. Bởi vì, theo các quy định nêu trên thì các đối
tượng nếu vi phạm lần thứ hai về các hành vi liên quan đến xâm phạm quyền sở hữu
(trộm cắp, lừa đảo...) thì sẽ bị áp dụng các BPXLHC. Tuy nhiên, theo quy định của
Bộ luật hình sự thì các đối tượng nêu trên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự,
ví dụ đối với các tội như: trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS năm 1999, Điều 173
BLHS năm 2015); lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS năm 1999, Điều 174
BLHS năm 2015)... nếu đã bị XPVPHC mà còn tái phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (mà sẽ không bị XPVPHC).
Thứ hai,
bổ sung quy định để bãi bỏ hình thức quản lý sau cai nghiện được quy định tại
Luật Phòng, chống ma túy để thống nhất với quy định của Luật XLVPHC, hạn chế
tình trạng học viên cai nghiện “phá trại”, “trốn trại” tại một số địa phương
trong thời gian vừa qua.
3. Về quản lý
công tác thi hành pháp luật về XLVPHC
Bộ Tư pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung
các quy định về việc báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC nhằm giảm bớt
thủ tục, giảm khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực
tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo, cụ thể là bãi bỏ quy định về việc
báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật
XLVPHC nhằm giảm bớt thủ tục, giảm khó khăn cho các Bộ, ngành, địa phương và
các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo cáo.