BỘ
LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI-BỘ QUỐC PHÒNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
18/TT-LB
|
Hà
Nội , ngày 31 tháng 12 năm 1991
|
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI - QUỐC PHÒNG SỐ
18/TT-LB, NGÀY 31 THÁNG 12 NĂM 1991 HƯỚNG DẪN BỔ SUNG VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT TỒN ĐỌNG
CHÍNH SÁCH SAU CHIẾN TRANH
Để tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
105/CT, ngày 29/4/1989, văn bản số 551/NC ngày 2/3/1991 và Chỉ thị số 367/CT,
ngày 9/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc khẩn trương giải quyết
xong về cơ bản những tồn đọng chính sách sau chiến tranh vào cuối năm 1992.
Tiếp theo Thông tư Liên Bộ số
16/TT-LB ngày 9/10/1989, Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Quốc phòng
giải thích, hướng dẫn bổ sung một số điểm sau đây:
1. Đối với
thương binh, bệnh binh nặng và quân nhân bị bệnh tâm thần:
a) Đối với thương binh hạng 1, bệnh
binh hạng 1 hiện còn ở các cơ sở điều trị, ăn dưỡng trong quân đội hoặc cơ sở
điều dưỡng của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội nếu vết thương, bệnh tật
đã ổn định, đủ điều kiện về gia đình thì các quân Khu, đơn vị và cơ quan Lao động
- Thương binh và Xã hội giúp Uỷ ban nhân dân tiếp tục tiếp tục vận động đón
anh, chị em về nuôi dưỡng tại gia đình. Những trường hợp không có điều kiện về
gia đình thì trong năm 1992 chuyển hết đến các cơ sở điều dưỡng thuộc ngành Lao
động - Thương binh và Xã hội để chăm sóc theo chính sách thống nhất.
Các đơn vị quân đội quản lý
thương binh, bệnh binh có trách nhiệm thông báo số lượng, danh sách thương
binh, bệnh binh cần chuyển giao cho ngành lao động thương binh và xã hội trước
1 tháng, đồng thời lập hồ sơ giải quyết các quyền lợi (phần thuộc trách nhiệm
quân đội), sau đó theo đúng thời gian hợp đồng, bàn giao thương binh, bệnh binh
cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh, thành phố và các cơ sở điều dưỡng trực thuộc Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội có trách nhiệm xem xét thủ tục, tiêu chuẩn và tiếp nhận nhanh gọn, chu
đáo theo kế hoạch đã được thông báo.
Các đơn vị cùng với cơ quan quân
sự địa phương, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan, các ngành có liên quan tạo mọi điều kiện thuận lợi, thiết thực
giúp đỡ những trường hợp có nhiều khó khăn về nhà ở (chưa có nhà hoặc nhà ở hư
hỏng nặng), về đời sống, đăng ký hộ khẩu.... để thương binh, bệnh binh tự nguyện
về an dưỡng tại gia đình và có cuộc sống ổn định.
b) Đối với quân nhân bị bệnh tâm
thần giám định mất sức từ 81% trở lên, đã qua thời kỳ điều trị, thuộc diện
không ổn định, không thể chuyển về gia đình được thì Bộ Quốc phòng chuyển cho
các cơ sở nuôi dưỡng người tâm thần thuộc Ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
ở địa phương anh em về cư trú tiếp nhận và thực hiện chính sách theo quy định
hiện hành. Trường hợp trước khi chuyển ra nếu gia đình có khó khăn thì Bộ Quốc
phòng xem xét trợ cấp khó khăn đặc biệt tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của từng người.
Thủ tục bàn giao và tiếp nhận
quân nhân bị bệnh tâm thần thực hiện như đối với thương binh, bệnh binh (điểm a
trên đây).
- Quân nhân phục viên, xuất ngũ
về địa phương thời gian không quá 1 năm, kể từ ngày có quyết định phục viên, xuất
ngũ mà bệnh tâm thần tái phát hoặc do hậu quả của chiến tranh tác động bị bệnh
tâm thần, thì cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội địa phương hướng dẫn và
làm thủ tục cho anh em đi khám điều trị theo quy định của Bộ Y tế. Sau thời
gian điều trị, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các địa phương theo dõi
và tổ chức giám định; với những trường hợp có đủ điều kiện quy định tại Quyết định
số 78/CP ngày 13/4/1978 và Quyết định số 301/CP ngày 20/9/1980 của Hội đồng
Chính phủ thì xét để chuyển sang thực hiện chính sách bệnh binh.
2- Đối với quân
nhân bị thương chuyển ra ngoài quân đội chưa được giải quyết quyền lợi thương tật.
a) Quân nhân bị thương trong các
cuộc chiến tranh (chống Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây nam, biên giới phía Bắc,
và làm nhiệm vụ quốc tế ở K, C) đã hoàn thành nhiệm vụ chuyển ra ngoài quân đội,
chưa được giải quyết quyền lợi thương binh thì quân khu chỉ đạo Bộ chỉ huy quân
sự tỉnh, thành phố phối hợp với đơn vị, các cơ quan có liên quan và cơ sở
(chính quyền, xã đội, thương binh và xã hội) thẩm tra, xác minh kết luận, nếu đủ
điều kiện, tiêu chuẩn thì Thủ trưởng quân khu hoặc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh,
thành phố xét cấp giấy chứng nhận bị thương đăng ký quản lý danh sách và giới
thiệu sang Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi quân nhân bị thương cư trú để
làm thủ tục giám định thương tật, giải quyết quyền lợi. (Những người không phải
là quân nhân, bị thương trong các cuộc chiến tranh chưa được xác nhận thì điều
kiện, tiêu chuẩn và thủ tục tiến hành vẫn theo các quy định hiện hành).
b) Đối với những quân nhân bị thương
trong kháng chiến chống Pháp ở miền Bắc (kể cả những người bị thương ở miền Nam
đã tập kết ra Bắc rồi trở về các tỉnh phía Nam từ sau ngày 30/4/1975) và những
quân nhân bị thương trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở chiến trường A
thì chỉ xét trường hợp bị thương có vết thương thực thể (áp dụng cả đối với các
đối tượng bị thương khác không phải là quân nhân).
c) Việc giải quyết trợ cấp
thương tật như sau:
- Nếu không đủ tiêu chuẩn xếp hạng
thương tật thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội giải quyết trợ cấp thương tật
1 lần theo quy định hiện hành.
- Nếu được xếp hạng thương tật
hưởng trợ cấp hàng tháng:
+ Đối với quân nhân (kể cả người
bị thương hưởng chính sách như thương binh) bị thương trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ ở các tỉnh phí Nam thì trợ cấp thương tật do Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội giải quyết theo hướng dẫn tại Thông tư số 11/LĐ-TBXH-TT
ngày 19/9/1990 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
+ Đối với quân nhân (kể cả người
bị thương hưởng chính sách như thương binh) bị thương trong kháng chiến chống
Pháp ở miền Bắc (kể cả những trường hợp bị thương ở miền Nam đã tập kết ra Bắc
rồi trở lại miền Nam từ sau ngày 30/4/1975) và những trường hợp bị thương trong
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở chiến trường A thì trợ cấp thương tật giải
quyết từ ngày quyết định xếp hạng thương tật theo văn bản số 909/LĐ-TBXH ngày
21/4/1989 và Thông tư 11/LĐ-TBXH ngày 19/9/1990 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội.
+ Đối với quân nhân bị thương từ
1/5/1975 trở về sau thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội giải quyết trợ cấp
thương tật từ ngày có quyết định chuyển ra ngoài quân đội nhận công tác hoặc phục
viên, xuất ngũ (áp dụng cả đối với những quân nhân bị thương đã được giám định,
xếp hạng thương tật trước khi chuyển ra ngoài nhận công tác hoặc phục viên, xuất
ngũ nhưng chưa được giải quyết quyền lợi thương tật).
+ Mức trợ cấp thương tật hàng
tháng thực hiện theo Thông tư số 02/LĐ-TBXH-TT ngày 12/1/1989 hướng dẫn thi
hành Quyết định số 203/HĐBT ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng và các quy định
bổ sung về trợ cấp thương tật tiếp theo của Hội đồng Bộ trưởng.
3- Đối với quân
nhân mất tin, mất tích:
a) Quân nhân mất tin, mất tích
trong các cuộc chiến tranh (chống Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây Nam, biên giới
phía Bắc và làm nhiệm vụ quốc tế ở K, C) mà bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố
đã qua nhiều năm thẩm tra, xác minh, đến nay vẫn không có chứng cớ pháp lý là đầu
hàng, phản bội hoặc đảo ngũ, nếu được cơ sở (chính quyền, xã đội, thương binh
xã hội) đề nghị Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố theo sự chỉ đạo của Quân
khu, tiến hành lập hồ sơ báo tử theo Thông tư số 1286/QP ngày 31/8/1984 của Bộ
Quốc phòng và giải quyết các quyền lợi (phần thuộc trách nhiệm quân đội) sau đó
bàn giao hồ sơ cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để thực hiện chính sách
với gia đình. Quá trình thẩm tra, xác minh, kết luận nếu có trường hợp giữa cơ
quan quân sự địa phương và cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội chưa thống
nhất thì cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội cần có ý kiến cụ thể về từng
trường hợp; sau đó Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố chuyển hồ sơ về Bộ Quốc
phòng; trong thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Bộ Quốc phòng,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm phối hợp xem xét kết luận cụ
thể và thông báo về địa phương, không để tồn đọng kéo dài.
Riêng những người ở các tỉnh
phía Nam được tổ chức tập kết ra miền Bắc, có chứng cớ đã trở về miền Nam tiếp
tục hoạt động trong kháng chiến chống Mỹ, sau đó mất tin, mất tích thì cũng thực
hiện theo hướng dẫn trên đây.
Đối với những người không phải
là quân nhân mất tin, mất tích khi làm nhiệm vụ trong cuộc chiến tranh thì thủ
tục xét giải quyết vẫn theo quy định hiện hành. Nếu được xác nhận là liệt sỹ
thì thân nhân (nếu có) được hưởng trợ cấp theo quy định chung tại điểm b dưới
đây:
b) Về việc giải quyết trợ cấp đối
với gia đình liệt sỹ.
(Phần thuộc trách nhiệm của cơ
quan Lao động - Thương binh và Xã hội).
+ Về khoản trợ cấp 1 lần:
- Những trường hợp mất tin, mất
tích trong các cuộc chiến tranh, nay mới được xác nhận là liệt sỹ thì thân nhân
được hưởng trợ cấp 1 lần và một khoản tiền để chi trong khi làm lễ báo tử theo
quy định hiện hành. Trường hợp liệt sỹ không còn người thân gần gũi nào khác
thì không chi các khoản trợ cấp này (áp dụng cả đối với thân nhân những trường
hợp chết trong khi làm nhiệm vụ được xác nhận là liệt sỹ).
- Về khoản trợ cấp hàng tháng:
+ Những trường hợp mất tin, mất
tích trong các cuộc chiến tranh thì trợ cấp tiền tuất hàng tháng đối với thân
nhân chủ yếu (nếu có) thực hiện theo hướng dẫn tại văn bản số 909/LĐTBXH ngày
21/4/1989, Thông tư số 11/LĐTBXH ngày 19/9/1990 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội.
+ Mức trợ cấp tiền tuất hàng
tháng đối với thân nhân chủ yếu (nếu có) thực hiện theo Thông tư số
02/LĐTBXH-TT ngày 12/1/1989 hướng dẫn thi hành Quyết định 203/HĐBT, ngày
28/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng và các quy định bổ sung về trợ cấp tiền tuất
tiếp theo của Hội đồng Bộ trưởng.
Thân nhân của liệt sỹ đủ điều kiện
hưởng sinh hoạt phí hàng tháng thì giải quyết tiền tuất từ ngày Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội quyết định.
c) Những trường hợp mất tin, mất
tích đã được báo tử về gia đình, nhưng nay có chứng cớ pháp lý là vẫn còn sống
thì cơ quan quân sự địa phương có trách nhiệm thông báo cho cơ quan Lao động -
Thương binh và Xã hội để thôi thực hiện chính sách đối với gia đình liệt sỹ.
4- Về cất bốc,
quy tập mộ liệt sỹ.
a) Liệt sỹ hy sinh ở địa phương
nào, chính quyền, đoàn thể và nhân dân ở địa phương đó có trách nhiệm giữ gìn,
cất bốc quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ theo Quyết định số 60/CP ngày 5/4/1976
và Chỉ thị số 105/CT ngày 28/4/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
chỉ đạo cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, cơ quan quân sự địa phương
giúp Uỷ ban nhân dân thống nhất việc tổ chức thực hiện; trước mắt tập trung khảo
sát ở những địa bàn khó khăn tồn đọng nhiều mộ liệt sỹ chưa cất bốc, quy tập
trên cơ sở đó, lập kế hoạch và có sự phân công cụ thể theo hướng dẫn tại Thông
tư Liên Bộ số 16/TT-LB để bảo đảm hoàn thành cơ bản công việc này trong năm
1992.
b) Với những khu vực mộ đã cất bốc
quy tập thì các quân Khu đơn vị chuyển giao hết sang ngành Lao động - Thương
binh và Xã hội tiếp nhận quản lý.
Bộ Quốc phòng chỉ đạo các đơn vị
quân đội làm nhiệm vụ chiến đấu trong các cuộc chiến tranh cung cấp cụ thể tình
hình về phần liệt sỹ của đơn vị mình cho Uỷ ban nhân dân nơi đóng quân để chỉ đạo
việc quy tập.
c) Những mộ liệt sỹ đã được cất
bốc, quy tập vào nghĩa trang địa phương, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
tỉnh, thành tiến hành ngay việc xây vỏ mộ, gắn bia, đồng thời khẩn trương lập
danh sách mộ liệt sỹ theo mẫu thống nhất, có kế hoạch thông báo cho địa phương
nơi thân nhân liệt sỹ cư trú biết. Khi thân nhân liệt sỹ đến thăm mộ (hoặc tìm
mộ) cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
quân sự địa phương hướng dẫn gia đình trong việc thăm viếng.
Trên đây là một số nội dung bổ
sung cụ thể. Để bảo đảm việc thực hiện được thuận lợi, nhanh chóng, chính xác
căn cứ vào văn bản số 551/NC, ngày 2/3/1991 Chỉ thị số 367/CT ngày 9/11/1991 của
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Liên Bộ yêu cầu Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương chỉ đạo tập trung thống nhất, coi đây là một công tác
quan trọng ở địa phương và có kế hoạch khẩn trương tiếp tục hoàn thành việc khảo
sát, tiến hành sơ kết 2 năm việc thực hiện vận động các cấp, các ngành, các cơ
quan đoàn thể và nhân dân địa phương tự nguyện đóng góp sức người, sức của để sớm
hoàn thành nhiệm vụ giải quyết những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh ở địa
phương, thiết thực kỷ niệm 45 năm ngày thương binh liệt sỹ (27/7/1947 -
27/7/1992).
Thông tư hướng dẫn bổ sung này
cũng được áp dụng để giải quyết các trường hợp tương tự đối với bộ đội biên
phòng.
Những quy định trước đây trái với
nội dung trong Thông tư này đều bãi bỏ.
Nguyễn
Trọng Xuyên
(Đã
ký)
|
Trần
Hiếu
(Đã
ký)
|