VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 246/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 14
tháng 9 năm 2021
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ PHẠM MINH CHÍNH TẠI CUỘC HỌP VỚI ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT
NAM VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì buổi làm việc với Đài
Tiếng nói Việt Nam về tình hình hoạt động và định hướng phát triển
của Đài trong giai đoạn mới.
Tham dự buổi làm việc có Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam Đỗ Tiến Sỹ và các
đồng chí trong Ban lãnh đạo Đài Tiếng nói Việt Nam, lãnh đạo các đơn vị chủ chốt
trực thuộc Đài, đại diện lãnh đạo Văn phòng Chính phủ. Sau khi nghe Tổng Giám đốc
Đài Tiếng nói Việt Nam báo cáo, ý kiến phát biểu của các đồng chí dự họp, Thủ
tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kết luận như sau:
I. Đánh giá tình
hình hoạt động
Đài Tiếng nói Việt Nam là một
trong những cơ quan báo chí chủ lực của quốc gia, có vai trò quan trọng trong
công tác thông tin, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, góp phần định hướng tư tưởng, nâng cao dân trí, phục vụ đời sống tinh
thần của nhân dân.
Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Ngày
thành lập Đài Tiếng nói Việt Nam (07 tháng 9 năm 1945 - 07 tháng 9 năm 2021),
thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ gửi lời chúc mừng, thăm hỏi đến các thế
hệ cán bộ, phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên, nghệ sĩ và người lao động
của Đài qua các thời kỳ. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao
và trân trọng cảm ơn những đóng góp to lớn của Đài Tiếng nói Việt Nam vào sự
nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với vai trò là Đài phát thanh
quốc gia, Đài Tiếng nói Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả nổi bật: (1)
chủ động, tích cực sáng tạo, bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, thông tin, tuyên truyền,
góp phần định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận xã hội; đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; lan tỏa những giá
trị tốt, cách làm hay, điển hình tiên tiến; quảng bá hình ảnh tốt đẹp, thân thiện,
an toàn về đất nước, về truyền thống văn hóa lịch sử của dân tộc; khơi dậy lòng
yêu nước, niềm tự hào và những giá trị tốt đẹp của dân tộc; làm tốt vai trò cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các chương trình, hoạt động của Đài đã trở
thành cầu nối quan trọng, góp phần củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, khi dịch COVID-19 bùng phát lần thứ tư, Đài
Tiếng nói Việt Nam đã “vào cuộc” một cách rất tích cực, hiệu quả, chủ động
thông tin kịp thời, chính xác, qua đó càng khẳng định vai trò, vị thế của Đài (2)
Chủ động nghiên cứu, ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 một cách sáng tạo,
linh hoạt; thực hiện cơ bản chuyển đổi số, đưa các sản phẩm báo chí đến được với
công chúng trên tất cả các nền tảng hạ tầng số. (3) Tăng cường đoàn kết,
kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống của Đài, phát hiện và khắc phục
những hạn chế, bất cập một cách nhanh nhất, phù hợp, hiệu quả nhất.
II. Thách
thức, hạn chế
Bên cạnh kết quả đạt được
đáng khích lệ, Đài Tiếng nói Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, còn
những hạn chế, bất cập:
Một là, nội
dung chương trình chưa thực sự phong phú, hấp dẫn; việc nắm bắt tình hình,
thông tin định hướng dư luận xã hội chưa nhạy bén, kịp thời, cần xây dựng kế hoạch
truyền thông bám sát yêu cầu thực tiễn…Hai là, bị cạnh tranh gay
gắt bởi các phương tiện truyền thông mới trong điều kiện cách mạng công nghiệp
4.0 phát triển rất nhanh; thông tin có tính tương tác trực tiếp, cá nhân hóa
đang là thách thức lớn, làm thay đổi sâu sắc, mạnh mẽ phương thức hoạt động, tổ
chức sản xuất thông tin. Ba là, cơ chế chính sách, điều kiện làm
việc vẫn còn hạn chế, chưa phù hợp với thực tế hoạt động của Đài, chính sách
đãi ngộ chưa tạo được nhiều động lực để cán bộ gắn bó lâu dài. Bốn là,
đội ngũ cán bộ còn bất cập so với yêu cầu, có lúc, có nơi vẫn thiếu nhân lực;
công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ còn có lúc chưa được coi trọng
đúng mức, phù hợp.
III. Định
hướng phát triển Đài Tiếng nói Việt Nam trong giai đoạn mới
Thủ tướng Chính phủ cơ bản nhất
trí với 9 định hướng mà Đài Tiếng nói Việt Nam đã nêu và nhấn mạnh thêm: Thời
gian tới, đất nước ta đứng trước khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi và thời
cơ. Trong bối cảnh chung đó, Đài Tiếng nói Việt Nam phải cố gắng, vươn lên mạnh
mẽ, phát huy hơn nữa những thành tích, kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn
chế, bất cập, đồng thời chia sẻ khó khăn cùng đất nước và nhân dân để có nhiệm
vụ, giải pháp sáng tạo, phù hợp, góp phần cùng các cấp, các ngành đưa đất nước
phát triển.
1. Mục
tiêu
Tiếp tục khẳng định vai trò,
vị trí, tầm quan trọng của Đài phát thanh quốc gia trên mặt trận tư tưởng,
trong công tác truyền thông của hệ thống chính trị; giữ vững định hướng chính
trị, tôn chỉ, mục đích, nêu cao tinh thần cách mạng, tiến công, tinh thần lạc
quan; tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước ta, vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Xây dựng Đài Tiếng nói Việt
Nam trở thành cơ quan báo chí chủ lực, đa loại hình, đa phương tiện, đa nền tảng,
hàng đầu khu vực, phát triển nhanh và bền vững, trong đó yếu tố đột pháp là
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng các chương trình và chuyển đổi số.
2. Tư tưởng
chỉ đạo
- Phải xác định khó khăn,
thách thức là động lực, cơ hội để Đài Tiếng nói Việt Nam phấn đấu trưởng thành,
vươn lên. Tăng cường đoàn kết, thống nhất, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, phát huy
dân chủ, huy động trí tuệ tập thể. Tinh thần chỉ đạo là: “Tư tưởng phải thông,
quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, làm việc phải
có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đấy”.
- Phát huy tối đa tinh thần tự
lực, tự cường, tự chịu trách nhiệm. Coi nguồn lực bên trong là cơ bản, lâu dài,
quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng và đột phá.
- Chủ động, tích cực, không
ngừng đổi mới sáng tạo, thích ứng với tình hình. Lấy đội ngũ cán bộ là nền tảng,
là trung tâm; chương trình hoạt động là động lực; cơ sở vật chất là điều kiện hỗ
trợ quan trọng. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực
thông tin, truyền thông.
- Đẩy mạnh hoạt động thông
tin tuyên truyền, làm chủ mặt trận tuyên truyền, không để xảy ra khủng hoảng
truyền thông; phục vụ hiệu quả hoạt động của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ; tiếp tục thực hiện tốt vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Tích cực đấu tranh, phản bác các thông tin xấu độc, quan điểm sai
trái, xuyên tạc để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp
pháp của nhân dân. Tiếp tục thực hiện tốt vai trò chủ lực trong công tác thông
tin đối ngoại.
- Xây dựng chương trình truyền
thông hài hòa, hợp lý, hiệu quả. Cần có chiến lược truyền thông chính sách,
kiên trì tuyên truyền, giải thích, vận động để người dân biết - dân hiểu - dân
tin - dân theo - dân làm, nhất là với các vấn đề, tác động đến đông đảo người
dân như phòng chống dịch bệnh COVID-19.
IV. Nhiệm
vụ, giải pháp cụ thể
Thứ nhất, phát
huy truyền thống, tinh thần đoàn kết, dân chủ, gắn với nêu gương. Coi trọng hơn
nữa công tác xây dựng tổ chức, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên.
Thứ hai, tập
trung xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, uy tín, nhất là người đứng
đầu. Xây dựng bộ máy tinh gọn gắn với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ
công chức, viên chức. Có chính sách khuyến khích, cơ chế đặc thù để thu hút cán
bộ có năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ ba, quán
triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước
để tổ chức sản xuất các chương trình phù hợp, hiệu quả, đa dạng về nội dung và
hình thức, phù hợp với từng vùng miền và đối tượng khán, thính, độc giả; bám
sát định hướng: lấy công tác xây dựng Đảng là then chốt, phát triển kinh tế là
trung tâm, văn hóa là nền tảng, an ninh quốc phòng là trọng yếu. Tham gia xây dựng
văn hóa, con người mới thông qua các chương trình, sản phẩm báo chí, truyền
thông phong phú, đa dạng, chất lượng cao, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy giá trị con người Việt Nam,
phát triển công nghiệp văn hóa, giải trí.
Thứ tư, tập
trung chuyển đổi số, nâng cao năng lực công nghệ, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ, mở rộng diện phủ sóng trên toàn quốc, nhất là
các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Tăng cường phủ sóng khu vực biên giới
Đông Bắc, Tây Nam và Tây Nguyên; Tăng thời lượng phát sóng bằng tiếng dân tộc,
tiếng nước ngoài; Tăng cường phát thanh đối ngoại; Phát triển mạnh mẽ hơn nữa
báo điện tử và nội dung số; Xây dựng các công cụ để bảo vệ bản quyền; Coi trọng
sử dụng các nền tảng số dùng chung để góp phần đào tạo, giáo dục trực tuyến.
V. Về các
đề xuất, kiến nghị của Đài Tiếng nói Việt Nam
Thủ tướng Chính phủ cơ bản đồng
tình. (i)Về đầu mối phối hợp cung cấp thông tin điều hành của Chính phủ, Văn
phòng Chính phủ căn cứ tinh thần Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 31/3/2021 của Thủ tướng
Chính phủ để kiện toàn. (ii)Về sửa
đổi các quy định hiện hành để cho phép các đơn vị sự nghiệp công lập được ký kết
hợp đồng lao động đối với những người làm công tác chuyên môn, nghiệp vụ, Chính
phủ đã có Nghị quyết giao Bộ Nội vụ nghiên cứu, trình Chính phủ. (iii)Về bổ
sung biên chế cho 03 cơ quan thường trú nước ngoài, Đài Tiếng nói Việt Nam căn
cứ các quy định và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để rà soát, đánh giá, rút
kinh nghiệm trên cơ sở đó xây dựng đề án tổng thể về các cơ quan thường trú ở
nước ngoài cho phù hợp, hiệu quả, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
(iv)Về cơ chế tài
chính đặc thù, Đài Tiếng nói Việt Nam có đề xuất cụ thể, phối hợp với các Bộ có
liên quan trình Chính phủ theo quy định. (v)Về đề nghị Chính phủ cho phép Đài
Tiếng nói Việt Nam được lập, trình bổ sung một số dự án đầu tư, Đài Tiếng nói
Việt Nam căn cứ Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng
Chính phủ giao kế hoạch để triển khai thực hiện. Trường hợp đầu tư dự án mới
ngoài danh mục trên, Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
để xác định nguồn vốn và bổ sung danh mục theo đúng quy định. (vi)Về cơ chế đặt
hàng, Đài Tiếng nói Việt Nam căn cứ quy định tại Nghị định số 32/2019/NĐ-CP để
có đề xuất cụ thể. (vii)Về việc mời Thủ tướng Chính phủ thăm và chứng kiến một
số hoạt động của Đài, Đài Tiếng nói Việt Nam có kế hoạch cụ thể, báo cáo lãnh đạo
Chính phủ xem xét quyết định. (viii)Về xây dựng đề án “Phát triển thông tin đối
ngoại của Đài Tiếng nói Việt Nam trên nền tảng hệ thống truyền thông đa phương
tiện” và đầu tư xây dựng xưởng sản xuất radio, Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện
ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 109/TB-VPCP ngày 18
tháng 3 năm 2020 của Văn phòng Chính phủ. (ix)Về bổ sung kinh phí đầu tư, thay
thế thiết bị công nghệ mới, Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện theo quy định của
Luật Đầu tư công. (x)Về Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, trước mắt, Đài Tiếng
nói Việt Nam khẩn trương hoàn thiện và phê duyệt Đề án tái cơ cấu Đài Truyền
hình Kỹ thuật số VTC, trong đó có phương án xử lý nợ và thực hiện đúng các chỉ
đạo của lãnh đạo Chính phủ. Thường trực Chính phủ sẽ họp, nghe Đài Tiếng nói Việt
Nam và các cơ quan liên quan báo cáo riêng về việc này. Đối với
các kiến nghị khác: hầu hết là những vấn đề quan trọng cần sớm được giải quyết
để Đài Tiếng nói Việt Nam có thể thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ được
giao. Đài Tiếng nói Việt Nam chủ động làm việc với các cơ quan liên quan để xử
lý; tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ các nội dung vượt thẩm quyền.
Văn phòng Chính phủ thông báo để Đài
Tiếng nói Việt Nam biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- TTg, PTTg Vũ Đức Đam;
- Các Bộ: TTTT,NG, NV, TC,KHĐT;
- Đài TNVN;
- VPCP: BTCN, PCN Nguyễn Sỹ Hiệp, Trợ lý TTg, TGĐ Cổng TTĐT, các Vụ: TKBT,
TH, KTTH, TCCV, ĐMDN;
- Lưu: VT, KGVX.BH
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Sỹ Hiệp
|