VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 145/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 08 tháng 04 năm 2014
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG VŨ VĂN NINH TẠI HỘI NGHỊ SƠ KẾT 3 NĂM THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CÁC TỈNH KHU VỰC ĐÔNG NAM
BỘ, NAM TRUNG BỘ VÀ TÂY NGUYÊN
Ngày 24 tháng 3 năm 2014, tại thành
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung
ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã chủ trì Hội nghị
sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Tham dự Hội nghị có
các thành viên Ban Chỉ đạo Trung ương, các đồng chí cố vấn Chương trình, đại diện
Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, đồng chí Huỳnh Đức Hòa, Bí thư tỉnh ủy tỉnh Lâm Đồng;
lãnh đạo Ủy ban nhân dân 19 tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên
và đại diện các huyện, xã điển hình của các tỉnh. Sau khi nghe Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn báo cáo kết quả 03 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới các tỉnh khu vực Đông Nam
Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, ý kiến tham gia của các đại biểu, Phó Thủ tướng
Vũ Văn Ninh, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới kết luận như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong 3 năm qua mặc dù còn nhiều khó
khăn nhưng với sự nỗ lực, sáng tạo trong lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện
của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và tham gia tích cực của các tầng lớp
nhân dân, Chương trình xây dựng nông thôn mới đã trở thành phong trào sâu rộng ở
tất cả các xã, được nhân dân đồng tình ủng hộ; nhiều nơi người dân nhận thức
xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của chính mình. Chương trình đã đạt được kết
quả đáng khích lệ, cụ thể là:
- Công tác quy hoạch và lập đề án xây
dựng nông thôn mới được các cấp chính
quyền địa phương quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đến nay đã cơ bản hoàn
thành;
- Phát triển sản xuất và nâng cao hiệu
quả các hình thức tổ chức sản xuất là điểm sáng của các địa phương. Từng địa
phương đã phát huy thế mạnh để biến những tiềm năng, những thuận lợi về điều kiện
tự nhiên, về kinh tế xã hội thành hiện thực. Đến nay, các
tỉnh đã xây dựng được 4.760 mô hình sản xuất chiếm trên
50% mô hình của cả nước (cả nước có khoảng 9.000 mô hình). Xuất hiện nhiều mô
hình sản xuất liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân, hợp tác xã với nông dân
và nông dân với nông dân. Các mô hình đã thực sự phát huy hiệu quả sản xuất, góp phần duy trì và phát triển nông nghiệp chất
lượng và bền vững. Bắt đầu xuất hiện sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao ở một số địa phương, điển hình là tỉnh Lâm Đồng:
Diện tích ứng dụng công nghệ cao các
loại cây trồng trên địa bàn Tỉnh đạt gần 35.000 ha, chiếm 11% diện tích đất
canh tác; có trên 10.000 ha đạt doanh thu từ 500 - 1.000 triệu đồng/ha/năm.
- Đã huy động nguồn lực to lớn từ nhà
nước, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế
xã hội. Xuất hiện nhiều cách làm hay, sáng tạo, huy động sự tham gia tích cực của
người dân trong việc đầu tư xây dựng các công trình, vì vậy, hạ tầng nông thôn
có bước phát triển rõ rệt, từng bước đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, đời sống
và sinh hoạt của nhân dân.
- Các kết quả về phát triển văn hóa,
y tế, giáo dục, môi trường được quan tâm; hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
đạt khá, nhất là ở cấp xã; đời sống nhân dân ngày được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo
giảm nhanh (bình quân 3%/năm); số xã đạt chuẩn nông thôn mới xuất hiện ở nhiều
nơi, điển hình là các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, đến nay toàn
vùng có 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 5,7% tổng số xã, cao hơn tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới cả nước (số xã đạt chuẩn cả nước là 144 xã, chiếm
1,6%).
Thay mặt Chính phủ và Ban Chỉ đạo
Trung ương nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương những kết quả đã đạt được của Đảng
bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh khu vực Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây
Nguyên trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới.
- Để đạt được
các kết quả nêu trên, các địa phương cần tiếp tục đánh giá, rút kinh nghiệm và
nhân rộng những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn sau:
Một là, Cấp ủy, chính quyền các cấp có quyết tâm chính trị cao, vận động nhân dân vào cuộc, phát huy
dân chủ ở nông thôn;
Hai là, Vận dụng một cách sáng tạo chủ
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực
tiễn địa phương;
Ba là, Quan tâm đến tổ chức sản xuất,
xây dựng mô hình sản xuất phù hợp và biết phát huy lợi thế từng địa bàn; quan
tâm lợi ích thực sự của người dân, làm cho đời sống nhân
dân ngày càng được nâng lên; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, ứng dụng công
nghệ cao vào sản xuất; khuyến khích người dân tham gia phát triển sản xuất, thu
hút doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất thông
qua liên kết;
Bốn là, Quan tâm chỉ đạo và tổ chức
thực hiện, phân công từng đồng chí cấp ủy phụ trách từng địa bàn, từng xã, định
kỳ báo cáo kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ được phân
công;
Năm là, Quan tâm huy động nguồn lực
thực hiện Chương trình.
- Tuy nhiên, trong quá trình triển
khai thực hiện Chương trình vẫn còn một số tồn tại: Một số nơi, nhận thức của
cán bộ các cấp về tầm quan trọng và ý nghĩa của Chương trình còn chưa đầy đủ,
sâu sắc; cấp ủy đảng, chính quyền ở một số địa phương chưa thật sự quan tâm phổ
biến nhân rộng cách làm hay, sáng tạo về xây dựng mô hình nông thôn mới, mô
hình sản xuất, xây dựng hạ tầng, bảo vệ môi trường nông
thôn; thực hiện các tiêu chí: quy hoạch, giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt,
trường học đạt thấp hơn so với bình quân chung cả nước; cơ cấu kinh tế nông
thôn chậm được điều chỉnh, công nghiệp dịch vụ phát triển chậm; số hợp tác xã
hoạt động hiệu quả còn chưa nhiều; liên kết giữa doanh nghiệp - nông dân chưa
phát triển mạnh; bố trí ổn định đời sống dân di cư tự do tại
các tỉnh vùng Tây Nguyên còn nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực.
II. NHIỆM VỤ TRONG
THỜI GIAN TỚI
Đồng ý với phương hướng, nhiệm vụ nêu
trong báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các tỉnh
cần lưu ý một số nội dung trọng tâm sau:
1. Xác định rõ mục tiêu xây dựng nông
thôn mới: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông
nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với
đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giầu bản sắc văn hóa
dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng
cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các cấp, các ngành của địa phương
tiếp tục quán triệt tư tưởng chỉ đạo về xây dựng nông thôn mới, xác định xây dựng
nông thôn mới là giải pháp chủ yếu, quan trọng có tính chiến
lược để thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp
hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Xây dựng nông thôn mới
phải thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên tục, bền bỉ, không nóng vội, không
chạy theo thành tích.
3. Tiếp tục rà soát để nâng cao chất
lượng công tác quy hoạch cấp xã, cấp huyện, thực hiện quản lý theo quy hoạch,
trong đó đặc biệt ưu tiên gắn quy hoạch cơ sở hạ tầng với quy hoạch sản xuất
hàng hóa tập trung theo từng địa bàn xã, huyện, tỉnh, trên
cơ sở thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo Quyết định số 899/QĐ- TTg
ngày 10 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ và theo
Nghị quyết số 30-NQ/BCT ngày 12 tháng 3 năm 2014 của Bộ
Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động
của công ty nông, lâm nghiệp.
4. Nhân rộng mô hình sản xuất mới,
liên kết giữa nông dân với nông dân, doanh nghiệp với nông dân, gắn sản xuất với
chế biến và tiêu thụ nông sản. Xây dựng và nhân rộng mô hình ứng dụng khoa học
công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị trên một đơn vị diện
tích;
5. Về huy động nguồn lực thực hiện
Chương trình: Huy động nguồn lực từ ngân sách trung ương,
ngân sách địa phương, lồng ghép từ các chương trình mục tiêu,
từ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Huy động dân đóng góp tự nguyện
vừa với sức dân tại từng địa bàn, không yêu cầu đóng góp bắt buộc, không huy động
quá sức dân.
Tăng cường nguồn lực đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng nông thôn, trong đó cần ưu tiên nguồn lực đầu tư các dự án phục vụ
sản xuất, dân sinh; các công trình hạ tầng khác thực hiện dần từng bước. Cân đối bố trí tăng nguồn vốn ngân sách địa phương đầu tư trực
tiếp cho Chương trình; thực hiện tốt việc lồng ghép nguồn vốn các chương trình,
dự án khác trên địa bàn xã với Chương trình xây dựng nông thôn mới.
6. Về quản lý đầu tư xây dựng công
trình: đối với các công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản
cần phân cấp mạnh cho xã, cho người dân và cộng đồng dân cư trong xã tự làm
theo quy định tại Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 21 tháng 3 năm 2012 của Thủ tướng
Chính phủ về bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010-2020.
7. Về quản lý nhà nước đối với Chương
trình: Các cấp, các ngành cần tiếp tục nghiên cứu cơ chế chính sách để bổ sung
sửa đổi hoặc ban hành mới cho phù hợp với thực tiễn nhằm tạo điều kiện cho
doanh nghiệp liên kết với nông dân phát triển sản xuất, xây dựng quê hương theo
quy hoạch, kế hoạch để đạt mục tiêu đề ra. Trong quy hoạch của địa phương cần
phải tính đến quy hoạch cả nước, gắn với thị trường, tôn trọng thị trường; xác
định rõ vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua chính sách ưu đãi về thuế, đất
đai, khoa học công nghệ....
8. Tiếp tục quan tâm đến công tác
giáo dục, y tế, văn hóa, an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ
môi trường, nhất là vấn đề xử lý rác thải;
9. Xây dựng bộ máy, hệ thống chính trị
vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy cao vai trò của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông thôn, nâng cao năng lực
của bộ máy quản lý nhà nước các cấp trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện
Chương trình.
10. Về chỉ tiêu xã đạt chuẩn nông
thôn mới đến năm 2015: số xã đạt chuẩn nông thôn mới của cả nước theo mục tiêu
đề ra đến năm 2015 là khó đạt được. Tuy vậy, yêu cầu các địa phương không hạ chỉ
tiêu, tích cực phấn đấu đạt chỉ tiêu ở mức cao nhất; có chỉ tiêu cụ thể giao
cho các huyện, xã phấn đấu trong từng năm; việc thực hiện các tiêu chí phải
tránh tư tưởng nóng vội, thành tích; căn cứ vào huy động nguồn lực, đặc điểm từng
thôn, buôn, từng xã, tập quán của từng dân tộc để sắp xếp theo thứ tự ưu tiên,
lựa chọn tiêu chí căn bản, quan trọng, có tính quyết định trong xây dựng nông
thôn mới để thực hiện trước, như tiêu chí: Thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ
lao động có việc làm thường xuyên, giảm tỷ lệ hộ nghèo, giao thông, thủy lợi...,
các tiêu chí dễ thực hiện, gắn với dân thì giao cho dân làm;
Trong quá trình thực hiện tiêu chí
nên lựa chọn giải pháp vừa làm điểm vừa làm diện rộng tại thôn, buôn, xã; sau từng
năm phải có đánh giá, rút kinh nghiệm để phấn đấu thực hiện năm sau số tiêu chí
đạt chuẩn cao hơn năm trước, đồng thời có biện pháp để giữ và nâng cao chất lượng
đối với tiêu chí đã đạt chuẩn nhằm duy trì bền vững.
11. Các cấp, các ngành từ trung ương
đến địa phương tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của Chương trình xây
dựng nông thôn mới; khơi dậy sức mạnh của nhân dân trong
việc thực hiện các mục tiêu của Chương trình.
12. Về tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm
thực hiện Chương trình:
- Các địa phương khẩn trương chỉ đạo
và tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình và triển khai kế hoạch
năm 2014; bình xét thi đua, khen thưởng đối với đơn vị, cá nhân có thành tích
xuất sắc trong quá trình thực hiện Chương trình và trong
phong trào thi đua “cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, trình cấp có thẩm
quyền quyết định khen thưởng theo quy định. Việc tổ chức sơ kết phải bảo đảm
thiết thực, hiệu quả và tiết kiệm, tránh phô trương hình
thức gây lãng phí.
- Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn
chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan khẩn trương thực
hiện nhiệm vụ được giao về chuẩn bị Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Chương
trình xây dựng nông thôn mới toàn quốc theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại
văn bản số 134/TB-VPCP ngày 31 tháng 3 năm 2014 của Văn Phòng Chính phủ.
III. VỀ GIẢI QUYẾT CÁC KIẾN NGHỊ
1. Về
hoàn thiện các cơ chế chính sách thực hiện Chương trình:
a) Các Bộ, ngành là thành viên Ban Chỉ
đạo Trung ương tiếp thu kiến nghị của các địa phương, nghiên cứu từ thực tiễn
những cơ chế, chính sách đã ban hành còn có điểm chưa phù hợp cần điều chỉnh hoặc
những điểm còn thiếu cần bổ sung và chủ động ban hành văn bản hướng dẫn địa
phương thực hiện theo thẩm quyền, báo cáo Thủ tướng Chính phủ những vấn đề vượt
thẩm quyền.
b) Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan:
- Khẩn trương hoàn thiện, ban hành
văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành và địa phương thực hiện cơ chế, lồng ghép nguồn
vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án khác trên địa
bàn với nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ tại các văn bản: số 57/CT-BCĐTWXDNTM
ngày 04 tháng 4 năm 2013 và số 379/TB-VPCP ngày 15 tháng 10 năm 2013;
- Khẩn trương nghiên cứu việc hợp nhất các Chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện trên địa bàn
nông thôn (hợp nhất nội dung hoạt động, cơ chế đầu tư, hỗ
trợ, cơ chế quản lý điều hành chương trình từ Trung ương đến địa phương) để khắc
phục những hạn chế: Trùng chéo nội dung hoạt động, nguồn lực đầu tư, hỗ trợ dàn
trải, thiếu tập trung..., báo cáo Ban Chỉ đạo Trung ương vào tháng 5 năm 2014.
Trước mắt, hướng dẫn các địa phương lồng ghép vốn của các chương trình mục tiêu
quốc gia.
- Khẩn trương
ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng
12 năm 2013 của Chính phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn;
- Phối hợp với Bộ Tài chính xem xét lại
cơ chế quản lý đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng
thuộc Chương trình (việc phân cấp quyết định đầu tư, công tác chỉ định thầu)
đang thực hiện tại các địa phương để hướng dẫn cụ thể hơn, phù hợp hơn với thực
tế từng vùng nhằm giúp các địa phương giải quyết các khó khăn, vướng mắc hiện
nay.
c) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn: Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính trên cơ sở quy định
tại Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ,
tiếp tục nghiên cứu, quy định cụ thể hơn về cơ chế huy động đóng góp của người dân để xây dựng các công trình, trong đó cần lưu ý đến điều kiện cụ
thể từng vùng, miền; việc huy động tự nguyện cũng phải phù hợp với khả năng của
nhân dân. Không huy động quá khả năng của nhân dân, không bắt buộc người dân
đóng góp dưới mọi hình thức;
d) Ngân hàng Nhà nước tiếp tục nghiên
cứu chính sách tín dụng áp dụng cho doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân phát triển
sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại tỉnh Lâm Đồng và một số địa
phương khác (mức vốn vay, thế chấp tài sản vốn vay bằng nhà kính...) và giải
quyết theo thẩm quyền nhằm tháo gỡ vướng mắc hiện nay; báo cáo Thủ tướng Chính
phủ những vấn đề vượt thẩm quyền.
đ) Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan:
- Hướng dẫn việc quản lý, thanh quyết
toán nguồn vốn trái phiếu Chính phủ để đầu tư xây dựng các công trình trên địa
bàn xã; hướng dẫn bố trí ngân sách địa phương thực hiện quy hoạch nông thôn mới
(ngoài số vốn ngân sách trung ương hỗ trợ bình quân như hiện nay), trong đó lưu
ý đối với những địa phương thật sự có khó khăn để đề xuất ngân sách trung ương
hỗ trợ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số
134/TB-VPCP ngày 31 tháng 3 năm 2014 của Văn Phòng Chính phủ.
- Khẩn trương tổng kết việc thí điểm
bảo hiểm nông nghiệp, đề xuất việc mở rộng đối tượng bảo hiểm nông nghiệp trên
phạm vi toàn quốc (trong đó có bảo hiểm chăn nuôi bò sữa), báo cáo Thủ tướng
Chính phủ.
e) Về chức năng
nhiệm vụ, biên chế cán bộ của Văn phòng điều phối Chương trình nông thôn mới
các cấp: Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh nghiên cứu, đề xuất
hình thức tổ chức cho phù hợp với chức năng quản lý nhà nhà nước của các cấp đối
với Chương trình, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ tại văn bản số 379/TB-VPCP ngày 15 tháng 10 năm 2013 của Văn phòng Chính phủ.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để
các cơ quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng CP;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- Tỉnh uỷ, Thành uỷ, UBND các tỉnh, thành phố Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ
và Tây Nguyên;
- Các thành viên BCĐ Chương trình NTM;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Tổng Bí thư;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Quốc hội;
- Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam:
- UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN, Trợ lý TTg, các Vụ: TKBT, KTTH, KGVX, TH, V.III,
ĐMDN, TGĐ Cổng TTĐT;
- Lưu: Văn thư, KTN (3).Lĩnh 135
|
KT. BỘ TRƯỞNG,
CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Cao Lục
|