UỶ BAN NHÂN
DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
3566/2010/QĐ-UBND
|
Việt Trì, ngày
08 tháng 11 năm 2010
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày
26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày
07/12/2007 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của cán bộ, nhân dân;
Căn cứ Quyết định số 99/2008/QĐ-TTg ngày
14/7/2008 của Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến năm 2020;
Xét đề nghị
của Sở Tư pháp tại Tờ trình số 604/TTr-STP ngày 15/10/2010,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án
Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai
đoạn 2011 - 2015 kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Quyết định này
có hiệu lực kể từ ngày ký. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Thủ trưởng các Sở, ngành,
đoàn thể; Chủ tịch UBND huyện, thành, thị và các đơn vị có liên quan chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhân:
- UBTVQH;
- Chính phủ;
- VPQH, VPCP, Bộ Tư pháp;
- TTTU, HĐND, UBND, UBMTTQ, Đoàn ĐBQH tỉnh;
- VKSND, TAND tỉnh;
- Như Điều 3;
- PVP (Ô. Hậu);
- Website Chính phủ;
- Công báo (2b);
- Lưu VT, NCTD
|
TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
CHỦ TỊCH
Nguyễn Doãn Khánh
|
ĐỀ ÁN
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 3566 /2010/QĐ-UBND ngày 08 tháng 11 năm
2010 của UBND tỉnh Phú Thọ)
Phần thứ nhất
SỰ CẦN THIẾT VÀ CƠ SỞ
PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. Sự cần thiết xây dựng Đề
án:
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)
là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải
pháp luật vào cuộc sống, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý
của công dân, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Vì vậy, làm tốt công tác PBGDPL có ý nghĩa quan trọng trong giữ gìn an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn công tác PBGDPL trên địa
bàn tỉnh giai đoạn qua chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đất
nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng đang trong tiến trình phát triển mạnh
mẽ về kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế. Vì vậy, việc xây dựng một
chương trình mang tính chiến lược để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
tuyên truyền, PBGDPL trong thời gian tới là cần thiết và và có ý nghĩa thiết thực.
II. Cơ sở pháp lý xây dựng Đề
án:
1. Nghị quyết số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 của
Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
2. Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình PBGDPL từ năm 2008 đến năm 2012.
3. Quyết định số 99/2008/QĐ-TTg ngày 14/7/2008 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Phú Thọ đến năm 2020.
4. Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010
của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật.
5. Thông tư liên tịch số 73/2010/TTLT-BTC-BTP
ngày 14/5/2010 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp về kinh phí bảo đảm cho công tác PBGDPL.
Phần thứ hai
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
PBGDPL TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
I. Những kết quả đã đạt được:
1. Công tác PBGDPL đã được lãnh đạo các cấp ủy Đảng,
chính quyền các cấp, ngành, tổ chức đoàn thể, cơ quan, đơn vị Trung ương đóng
trên địa bàn tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện. Đại đa số các đơn vị xác định
đúng ý nghĩa, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác PBGDPL, coi đây là một
bộ phận của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và đặc biệt là đối với mức độ
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong giai đoạn hiện nay. Phú Thọ cũng
là một trong những tỉnh đầu tiên trong cả nước sớm xây dựng được thể chế hoàn
thiện về công tác PBGDPL, đây là tiền đề, cơ sở quan trọng để chỉ đạo thực hiện
có hiệu quả công tác này (Chỉ thị 08, 15 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Nghị quyết
06 của Hội đồng nhân dân tỉnh; Chỉ thị 26, 15, Quyết định 1200, 4323, 3129của
UBND tỉnh).
2. Đến nay, tỉnh Phú Thọ đã xây dựng được một hệ
thống các cơ quan làm công tác PBGDPL.
Sau khi có chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, năm
1998, Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL của tỉnh Phú Thọ đã được thành lập, qua
nhiều lần kiện toàn, đổi mới, đến nay Hội đồng có 25 thành viên, do một Phó Chủ
tịch UBND tỉnh là Chủ tịch Hội đồng, thành viên là đại diện lãnh đạo các Sở,
ngành, đoàn thể, Sở Tư pháp là cơ quan Thường trực Hội đồng. Hội đồng làm nhiệm
vụ chỉ đạo công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh. Tại cấp huyện, 13/13 UBND huyện,
thành, thị thành lập Hội đồng với cơ cấu thành phần, số lượng thành viên như Hội
đồng cấp tỉnh. 100% UBND cấp xã thành lập Hội đồng với số lượng 5-7 thành viên.
Nhiều ngành, đoàn thể và các cơ quan, đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh
đã thành lập Tổ, ban thực hiện công tác tuyên truyền pháp luật.
Ngành Tư pháp được giao nhiệm vụ tham mưu giúp
UBND cùng cấp quản lý nhà nước về công tác PBGDPL. Sở Tư pháp đã thành lập
phòng nghiệp vụ PBGDPL, Trung tâm Trợ giúp pháp lý và 03 chi nhánh ở các cụm
huyện. Phòng Tư pháp các huyện, thành, thị có từ 3 biên chế trở lên. Ở cấp xã,
có 1 cán bộ tư pháp – hộ tịch, một số ít xã, phường có 02 cán bộ tư pháp - hộ tịch.
Nhiều đơn vị cấp Sở, ngành, đoàn thể, như: Cục
Thuế, Liên đoàn Lao động tỉnh, Tỉnh Hội phụ nữ, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Y tế
có phòng, ban chuyên môn thực hiện công tác PBGDPL. 10/18 cơ quan chuyên môn của
UBND tỉnh thành lập được phòng (bộ phận) pháp chế, 03 cơ quan bố trí cán bộ
pháp chế kiêm nhiệm. Toàn tỉnh có 3001 tổ hòa giải với 18574 hòa giải viên cơ sở;
2645 nhóm nòng cốt. Hình thành và củng cố đội ngũ báo cáo viên cấp tỉnh (126
người), báo cáo viên cấp huyện (366 người), tuyên truyền viên cấp xã. Giáo viên
dạy môn giáo dục công dân và giảng viên pháp luật của các trường, các chức danh
tư pháp như luật sư, công chứng viên, thẩm phán, thư ký tòa án, điều tra viên,
kiểm sát viên là đội ngũ cán bộ đông đảo thực hiện có hiệu quả công tác tuyên
truyền pháp luật.
3. Đầu tư cơ sở vật chất, trang bị, phương tiện
cho công tác PBGDPL:
Tủ sách pháp luật đã được xây dựng ở 277 xã, phường,
thị trấn, 145 thôn, làng, tổ dân phố, 795 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, trường
học. Mức đầu tư bổ sung hàng năm cho tủ sách của nhiều đơn vị tuy chưa nhiều
nhưng tương đối nền nếp, hiệu quả. Đặc biệt tủ sách pháp luật dành cho lãnh đạo
cấp tỉnh, cấp huyện được chú trọng đầu tư, bổ sung hàng năm.
Báo Phú Thọ được phát hành đến chi bộ và khu dân
cư, là một trong những hình thức, công cụ phổ biến pháp luật có hiệu quả rất tốt
trên địa bàn tỉnh. Báo Phú Thọ điện tử ra đời cũng là bước đột phá phục vụ cho
việc cập nhật thông tin, tuyên truyền pháp luật và kết quả thực hiện pháp luật
trên địa bàn tỉnh. Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh đã xây dựng mới được trụ sở
làm việc hiện đại và các trang thiết bị hiện đại với tần suất phát sóng cao; đã
xây được 02 điểm thu - phát lại tại Thanh Sơn, Đoan Hùng để đưa tiếng nói của Đảng
bộ, chính quyền tỉnh đến được với cán bộ nhân dân và đồng bào các dân tộc ở
vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Hệ thống Đài phát sóng FM của Đài PT-TH tỉnh và Đài
truyền thanh cấp huyện đã được nâng cấp. Hệ thống truyền thanh cấp xã đã được
quan tâm, nhiều xã đã được lắp đặt đài FM. Trên thực tế hiện nay, hệ thống loa
truyền thanh của cấp xã được coi là công cụ đắc lực và hiệu quả nhất trong công
tác PBGDPL cho quần chúng nhân dân. Ngoài ra, tỉnh Phú Thọ có một hệ thống các
bản tin, tập san, tờ tin rất phong phú do các ngành, đoàn thể biên tập, in ấn,
xuất bản để tuyên truyền các nội dung pháp luật và tình hình thực thi pháp luật
thuộc lĩnh vực quản lý của ngành, điển hình như: Thông tin tuyên truyền viên,
thông tin sinh hoạt chi bộ, Bản tin Tư pháp, Bản tin Hội đồng nhân dân, Tin Tài
nguyên – Môi trường, Thông tin phụ nữ…
Những năm gần đây, Chính phủ, các bộ, ngành;
HĐND - UBND tỉnh, huyện, xã, Sở, ngành, đoàn thể đã có sự quan tâm, đầu tư kinh
phí cho công tác PBGDPL. Ở cấp tỉnh, từ năm 2007, kinh phí dành cho công tác
này là 300 triệu/năm.
Tỉnh Phú Thọ đã có trang thông tin điện tử của tỉnh,
của một số ngành; Cổng giao tiếp điện tử, Trang thông tin điện tử công bố các
văn bản QPPL của tỉnh Phú Thọ. Hầu hết các ngành, đoàn thể, UBND cấp huyện đã đầu
tư mua sắm và nâng cấp các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác PBGDPL:
máy vi tính, máy in, máy phô tô, máy chiếu…, đã kết nối mạng Internet. Một số
UBND phường, thị trấn đã có máy vi tính và kết nối mạng Internet.
4. Hoạt động PBGDPL được tăng cường, ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân có sự chuyển biến rõ rệt
Hoạt động tuyên truyền pháp luật được tiến hành
tương đối thường xuyên ở các cấp, các ngành. Hình thức, biện pháp tuyên truyền
khá phong phú, đa dạng; các hình thức phổ biến pháp luật truyền thống được sử dụng
là: hội nghị tập huấn kiến thức pháp luật, phổ biến pháp luật; tư vấn pháp luật;
biên soạn, phát hành tờ gấp, đề cương; biên soạn, in sao băng, đĩa; kẻ vẽ pa
nô, áp phích, khẩu hiệu, tranh cổ động; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; tuyên
truyền pháp luật, hòa giải ở cơ sở… Nhiều mảng pháp luật được tuyên truyền, vận
động thực hiện sâu rộng đến từng khu dân cư, từng gia đình, như: dân số - kế hoạch
hóa gia đình; phòng chống ma túy; nếp sống văn hóa; chính sách xã hội; chính
sách đối với người có công với cách mạng, an toàn giao thông… Công tác PBGDPL
được kết hợp, lồng ghép với các hoạt động chính trị, tư tưởng, văn hóa – văn
nghệ. Giáo dục pháp luật đã được phổ cập trong các chương trình giáo dục – đào
tạo, bước đầu giúp thanh thiếu niên làm quen với pháp luật. Các cấp, ngành,
đoàn thể đã có sự phối kết hợp trong công tác PBGDPL do vậy phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị đối với công tác này.
Nội dung tuyên truyền đã có sự chọn lọc, có trọng
tâm, trọng điểm phù hợp với từng thời điểm, phục vụ tốt những sự kiện chính trị
của đất nước, của địa phương. Việc tuyên truyền pháp luật nhất là đối với các
điểm nổi cộm về vi phạm pháp luật; đối với việc triển khai các dự án lớn trên địa
bàn; gắn công tác tuyên truyền pháp luật với kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật, tăng cường xử lý vi phạm pháp luật bước đầu được quan tâm triển khai
thực hiện.
Để đạt được hiệu quả của công tác PBGDPL là quá
trình lâu dài, mặt khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng đến nay có thể khẳng
định PBGDPL đã góp phần tạo sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức cũng như
trong hành động chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; sử dụng pháp luật để
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mình. PBGDPL bước đầu có tác dụng làm
cho công dân ý thức được trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, hướng dẫn
người dân tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Người dân không chỉ từng bước
chủ động tìm hiểu pháp luật mà còn tự giác đóng góp các ý kiến phản ánh tâm tư
nguyện vọng của mình trong quá trình thực hiện pháp luật. Với sự hỗ trợ của hoạt
động PBGDPL, người dân đã và đang phát huy tính chủ động trong tham gia quản lý
nhà nước; đóng góp các ý kiến xây dựng chủ trương, chính sách lớn của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đấu
tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần giữ gìn ổn định trật tự và
an toàn xã hội. Công tác PBGDPL đã thực sự góp phần phát huy quyền làm chủ của
người dân, đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Mỗi người dân có sự quan
tâm với từng chế định pháp luật liên quan mật thiết với nghề nghiệp, địa bàn
sinh sống, điều kiện kinh tế. Thực tế đã cho thấy, nhiều văn bản pháp luật thiết
thực, gần gũi với cuộc sống của người dân đang được nhân dân hưởng ứng, tự giác
tìm hiểu và chấp hành như văn bản về doanh nghiệp, khuyến khích phát triển kinh
tế, vay vốn, xoá đói giảm nghèo, cải cách thủ tục hành chính, chính sách thu
hút sinh viên giỏi, cán bộ có trình độ cao về công tác tại tỉnh, … do vậy đã
góp phần phát triển kinh tế của mỗi gia đình và địa phương.
Do tăng cường PBGDPL và tổ chức thực hiện pháp
luật tốt mà tỷ lệ vi phạm pháp luật trên một số lĩnh vực ở nhiều địa phương, cơ
quan, tổ chức đơn vị có chiều hướng giảm. Ở những địa phương làm tốt công tác
PBGDPL cùng với thực hiện tốt chính sách pháp luật, tình trạng khiếu nại tố cáo
đã có những chuyển biến tích cực, giảm dần tình trạng khiếu kiện đông người, vượt
cấp. Nhiều năm qua, Phú Thọ không có điểm nóng về khiếu nại, tố cáo. Nhìn
chung, đội ngũ cán bộ công chức đã nắm vững pháp luật, cập nhật được các văn bản
pháp luật liên quan đến hoạt động quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ theo chức danh
công chức; nắm được các thông tin về tình hình thực hiện pháp luật; năng lực vận
dụng, thi hành pháp luật được nâng lên một bước rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp đã
có sự quan tâm ngày càng sâu sắc đến pháp luật, hiểu rõ hơn vai trò của pháp luật
trong phát triển sản xuất kinh doanh.
II. Hạn chế:
Công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh còn nhiều hạn
chế, thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:
- Nhìn chung các đơn vị đều tiến hành công tác
tuyên truyền pháp luật, tuy nhiên hoạt động có hiệu quả, duy trì thường xuyên,
đầu tư kinh phí lớn, hình thức tuyên truyền phong phú mới chỉ tập trung ở một số
đơn vị. Nhiều đơn vị thực hiện tuyên truyền mang tính chất chung chung, nội
dung pháp luật đơn thuần, nghèo nàn, chưa thực sự đi vào chiều sâu, ít tính
thuyết phục, vận động thực hiện pháp luật.
- Nhiều nội dung pháp luật quan trọng đối với đời
sống sinh hoạt, quyền và nghĩa vụ của người dân chưa được chuyển tải đến đối tượng
thực hiện, đối tượng thụ hưởng. Việc phổ biến pháp luật đến cơ sở, đối với người
dân tộc ít người, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa. Nhiều mảng trong công tác
thực thi pháp luật chưa được phổ biến rộng rãi.
- Các hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, chưa
phong phú, sinh động và chưa được đổi mới. Hoạt động tuyên truyền mới chỉ dừng
lại ở mức độ đưa thông tin pháp luật; các tin bài chưa thu hút người đọc, người
nghe. Số lượng các hội nghị PBGDPL trên địa bàn toàn tỉnh rất lớn nhưng hiệu quả
tuyên truyền chưa tương xứng, thông tin pháp luật truyền tải đến người tham dự
chưa nhiều. Trong các hội nghị tập huấn, giảng dạy, tài liệu chưa sinh động,
chưa có nhiều tài liệu trực quan, phương pháp giảng dạy mang tính chất một chiều,
chưa chú trọng các phương pháp giảng dạy tích cực, do vậy hiệu quả tuyên truyền
chưa cao. Một số hình thức, biện pháp truyền thống có ưu thế chưa được phát huy
tối đa, ứng dụng công nghệ thông tin trong PBGDPL còn yếu, thiếu linh hoạt
trong lựa chọn hình thức, biện pháp tuyên truyền phù hợp với trình độ người được
tuyên truyền và đặc thù của địa bàn.
So với nhiều năm trước, hoạt động tuyên truyền
pháp luật trên địa bàn tỉnh đã được tăng cường; tuy nhiên, chưa tương xứng với
tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chưa ngang tầm với việc quản lý xã
hội bằng pháp luật.
- Nhận thức pháp luật của cán bộ, nhân dân không
đồng đều; một bộ phận không nhỏ chưa có ý thức tốt về chấp hành pháp luật, thể
hiện ở một số lĩnh vực: Tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, tổng số
vụ án giải quyết của Tòa án các cấp tỉnh Phú Thọ năm sau cao hơn năm trước xấp
xỉ 10%; số lượng người phạm tội là nữ, người dân tộc ít người, người tái phạm,
tái phạm nguy hiểm ngày càng tăng. Tình hình vi phạm pháp luật giao thông trên
địa bàn tỉnh ở mức độ nghiêm trọng: số người chết, bị thương trong một năm từ sự
thiếu ý thức chấp hành pháp luật giao thông tuy có chiều hướng giảm nhưng vẫn
còn rất cao, trung bình mỗi năm có 130 người chết, 61 người bị thương do tai nạn
giao thông. Trong 5 năm gần đây, tỉnh Phú Thọ không có điểm nóng về khiếu kiện,
tuy nhiên số đơn khiếu nại đúng, tố cáo đúng chiếm tỷ lệ còn thấp; số đơn khiếu
nại sai, tố cáo sai chiếm tỷ lệ khá cao so với số đơn đã giải quyết.
III. Nguyên nhân của những hạn
chế:
- Hệ thống pháp luật về công tác PBGDPL chưa
hoàn thiện; văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất chỉ đạo công
tác PBGDPL hiện nay là Quyết định của Thủ tướng Chính Phủ, chưa xây dựng được
Nghị định, Pháp lệnh, Luật để điều chỉnh hoạt động PBGDPL, do vậy công tác
tuyên truyền pháp luật chưa trở thành hoạt động bắt buộc, thường xuyên của các
cơ quan nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp.
- Quan điểm về nhà nước pháp quyền XHCN chưa được
nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm túc trong thực tiễn ở một số đơn vị, địa
phương. Một số cấp ủy Đảng, cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ công chức chưa xác
định đúng ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác PBGDPL, do vậy chưa
quan tâm chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ PBGDPL.
- Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp trong công tác PBGDPL chưa đồng bộ, chặt chẽ, thường xuyên, rộng
rãi. Thiếu cơ chế, kế hoạch phối hợp giữa các cấp, các ngành từ tỉnh đến huyện
và cơ sở để huy động sức mạnh tổng của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của
cả xã hội. Nhiều Hội đồng phối hợp cấp huyện, cấp xã hoạt động chưa thực chất,
mang tính hình thức, chưa thực hiện hết vai trò chỉ đạo của Hội đồng đối với
công tác PBGDPL trên địa bàn.
- Nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL còn
thiếu về số lượng; chất lượng đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị trong giai đoạn hiện nay.
Các Phòng Tư pháp cấp huyện mới được bổ sung
biên chế trong năm 2010; trước năm 2010, nhiều Phòng Tư pháp chỉ có 02 biên chế,
cán bộ luân chuyển thường xuyên đã ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn, chỉ đạo
công tác tư pháp nói chung và PBGDPL nói riêng. Toàn tỉnh có 280 cán bộ tư pháp
– hộ tịch chuyên trách/277 xã, phường, thị trấn; tuy nhiên, cán bộ tư pháp cấp
xã phải đảm đương thường xuyên trên 12 đầu việc, do vậy ít có thời gian đầu tư
cho công tác PBGDPL. Trình độ chuyên môn của cán bộ tư pháp cấp xã chưa đáp ứng
so với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng (20% cán bộ tư pháp xã có trình độ Đại học
Luật và Đại học chuyên ngành khác). Trình độ văn hóa, nghiệp vụ, hiểu biết pháp
luật của đội ngũ hòa giải viên cơ sở chưa cao: 36,5% có trình độ phổ thông
trung học, 16,2% có trình độ chuyên môn từ trung cấp đến đại học.
Nhiều Sở, ngành chưa bố trí cán bộ pháp chế
chuyên trách. Số lượng cán bộ làm công tác tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp
còn rất ít ỏi, chưa có đủ trình độ và năng lực thực tiễn làm tư vấn về pháp luật
cho lãnh đạo doanh nghiệp, nhất là mảng pháp luật về xuất nhập khẩu, quan hệ hợp
tác kinh tế với doanh nghiệp nước ngoài…
Mạng lưới báo cáo viên pháp luật tỉnh, cấp huyện,
tuyên truyền viên cấp xã tuy đã được thành lập nhưng hoạt động chưa thực sự có
hiệu quả. Số lượng người thuộc diện trợ giúp pháp lý của tỉnh là rất lớn trong
khi tổ chức trợ giúp pháp lý tuy mới được củng cố, kiện toàn về tổ chức, bộ máy
và thành lập chi nhánh tại một số huyện nhưng chưa thể đáp ứng hết yêu cầu về
giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng thuộc diện trợ giúp
pháp lý.
- Chưa có chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp đối
với đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, do vậy chưa tạo được động lực thu hút
những người giỏi tham gia công tác này.
Việc tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật, nghiệp
vụ PBGDPL cho đội ngũ cán bộ chưa thường xuyên, thiếu bài bản, do vậy việc cập
nhật các nội dung pháp luật mới, kỹ năng tuyên truyền của cán bộ còn hạn chế.
Nhiều chính sách, chế độ chưa được thực hiện
trên thực tế: Hòa giải viên ở cơ sở chưa được hưởng chế độ thù lao cho các vụ
việc hòa giải thành cũng như chưa được cung cấp thường xuyên các tài liệu tuyên
truyền pháp luật và các tài liệu khác phục vụ cho công tác hòa giải, do vậy làm
giảm nhiệt tình tham gia hoạt động này.
- Cơ sở vật chất phục vụ công tác tuyên truyền
pháp luật còn nhiều bất cập. Các điều kiện làm việc của cán bộ, công chức chưa
được cải thiện nhiều; việc tuyên truyền pháp luật qua công nghệ thông tin hiện
đại ít được áp dụng.
- Kinh phí đầu tư cho công tác PBGDPL chưa tương
xứng với yêu cầu, nhiệm vụ.
Mặc dù đã có các văn bản của Trung ương về mức
chi cho các hoạt động nghiệp vụ và thù lao cho cán bộ thực hiện nhưng trên thực
tế do nguồn ngân sách của địa phương khó khăn nên việc đầu tư cho công tác này
hết sức hạn chế.
Hoạt động tuyên truyền pháp luật gặp rất nhiều
khó khăn, vướng mắc do không có kinh phí: Theo kết quả điều tra, khảo sát về
công tác này 5 năm gần đây, kinh phí chi cho công tác PBGDPL/năm ở cấp huyện
cao nhất là từ 50-70 triệu đồng, trung bình ở mức 35 - 45 triệu đồng/năm. Kinh
phí chi cho công tác PBGDPL ở các xã thuộc huyện Đoan Hùng, Hạ Hòa, thành phố
Việt Trì chỉ đạt ở mức 1 - 1,5 triệu đồng/năm. Hầu hết các xã liên tục nhiều
năm không có kinh phí chi cho công tác này. Bình quân kinh phí chi cho công tác
PBGDPL của tỉnh hiện nay mới đạt 1800 đ/người/năm. Việc đầu tư kinh phí cho
công tác PBGDPL trong toàn tỉnh thấp, dàn trải, thiếu đồng bộ. Chưa có nhiều
chương trình, đề án đầu tư cho công tác này.
Đây là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng lớn đến
việc chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai hoạt động, lựa chọn hình thức, biện
pháp cũng như hiệu quả tuyên truyền pháp luật.
Phần thứ ba
NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
I. Phạm vi, đối tượng của Đề
án:
1. Phạm vi:
Đề án được thực hiện trên địa bàn tỉnh từ năm
2011 đến năm 2015.
2. Đối tượng:
Đối tượng của Đề án là các cơ quan của Đảng, cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội –
nghề nghiệp, doanh nghiệp; cơ quan, đơn vị Trung ương, cán bộ, công chức, viên
chức, học sinh, sinh viên, người lao động, nhân dân, người nước ngoài sinh sống,
làm việc trên địa bàn tỉnh.
II. Mục tiêu của Đề án:
1. Mục tiêu tổng quát:
a) Thực hiện công tác PBGDPL đồng bộ, tương xứng
với hoạt động xây dựng pháp luật của Trung ương và văn bản quy phạm pháp luật của
tỉnh Phú Thọ.
b) Từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả của
công tác PBGDPL.
Đến năm 2015, đảm bảo tất cả các văn bản pháp luật
được tuyên truyền đến các đối tượng thi hành; mọi người dân nhận được thông tin
pháp luật phù hợp với lứa tuổi, nghề nghiệp, địa bàn sinh sống.
Xây dựng văn hóa, văn minh chấp hành pháp luật,
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tạo môi trường ổn định cho
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
2. Mục tiêu cụ thể:
a) Xã hội hóa công tác PBGDPL:
Huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị,
tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đối với công tác PBGDPL. Hoàn thiện các thiết
chế văn hóa pháp luật, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu khai thác, tìm hiểu pháp
luật của cán bộ, nhân dân. Cán bộ, nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp có trách nhiệm
tự giác tìm hiểu pháp luật để thực hiện.
b) Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan làm công
tác PBGDPL
- Thường xuyên kiện toàn Hội đồng phối hợp công
tác PBGDPL tỉnh, cấp huyện, cấp xã; nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện cơ chế hoạt
động của Hội đồng đảm bảo chỉ đạo toàn diện, kịp thời đối với công tác PBGDPL
trên địa bàn.
- Tăng cường cán bộ công chức cho các cơ quan quản
lý nhà nước về PBGDPL (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp). Từng bước xây dựng
đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác PBGDPL ở Phòng Tư pháp cấp huyện, Ban
Tư pháp cấp xã.
- 100% Sở, ngành, đoàn thể cấp tỉnh có Phòng, tổ
chức hoặc cán bộ pháp chế chuyên trách.
- 100% doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có cán bộ
tư vấn pháp luật. Phát triển và quản lý đội ngũ tư vấn viên pháp luật.
- Xây dựng mạng lưới báo cáo viên, tuyên truyền
viên, cộng tác viên pháp luật, hòa giải viên ở cơ sở rộng khắp địa bàn tỉnh.
c) Chuẩn hóa về trình độ đối với cán bộ làm công
tác PBGDPL:
- 40% cán bộ quản lý, công chức làm công tác
PBGDPL của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp có trình độ trên đại học chuyên ngành Luật.
100% cán bộ pháp chế của Sở, ngành, đoàn thể có trình độ đại học, có kiến thức
pháp lý.
- 50% cán bộ tư pháp – hộ tịch cấp xã có trình độ
đại học Luật; không có cán bộ tư pháp – hộ tịch chưa qua đào tạo chuyên ngành
luật.
- 100% tuyên truyền viên cấp xã có trình độ
trung cấp pháp lý trở lên.
- 40% hòa giải viên có trình độ pháp lý từ trung
cấp trở lên hoặc có trình độ trung cấp chuyên ngành trở lên, có kiến thức pháp
lý.
- 100% đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL được tập
huấn kiến thức pháp luật, nghiệp vụ PBGDPL theo định kỳ.
d) Đầu tư cơ sở vật chất cho công tác PBGDPL
- Tăng mức đầu tư kinh phí so với giai đoạn
2007-2010.
- Xây dựng trang thông tin điện tử, Bản tin
chuyên về PBGDPL; chuyên trang PBGDPL trên các trang thông tin điện tử.
- Từng bước hiện đại hóa các phương tiện làm việc
cho các cơ quan, công chức làm công tác PBGDPL.
e) Phổ cập kiến thức pháp luật
- 100% cán bộ quản lý; cán bộ, công chức của các
cơ quan của Đảng, Nhà nước, đoàn thể nắm vững pháp luật liên quan đến hoạt động
quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ theo chức danh, chức vụ công chức; cơ bản
nắm được các nội dung pháp luật về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của công
dân.
- 100% các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tự tìm
hiểu và được truyên truyền về pháp luật lao động, thuế, kinh tế, tài nguyên -
môi trường và pháp luật liên quan đến ngành nghề kinh doanh.
- 90% học sinh phổ thông, sinh viên được tuyên
truyền về quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân phù hợp với lứa tuổi.
- 90% người dân nhận được thông tin pháp luật
phù hợp với địa bàn.
III. Nhiệm vụ và giải pháp
thực hiện Đề án:
1. Tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị đối với công
tác PBGDPL:
Đảng bộ và chính quyền các cấp tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo thông qua việc ban hành các nghị quyết, kế hoạch, chương
trình, đề án triển khai công tác PBGDPL; lồng ghép chỉ tiêu về PBGDPL trong hoạch
định chính sách và lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Đưa
công tác PBGDPL thành nội dung thường xuyên chương trình hoạt động của cấp ủy Đảng,
chính quyền, coi đây là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của
đơn vị, địa phương; đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền.
Xây dựng, ban hành văn bản chỉ đạo, tổ chức triển
khai thực hiện công tác PBGDPL phù hợp với điều kiện của địa phương. Xây dựng dự
toán và bố trí kinh phí cho nhiệm vụ này.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; thường
xuyên đánh giá tình hình thực hiện công tác PBGDPL của đơn vị, địa phương, xây
dựng kế hoạch và biện pháp khắc phục những yếu kém, bất cập.
2. Xây dựng cơ chế phối hợp
trong tổ chức thực hiện:
Thường xuyên củng cố, kiện toàn Hội đồng phối hợp
công tác PBGDPL các cấp. Xây dựng và nghiêm túc thực hiện quy chế hoạt động của
Hội đồng, quy chế phân công trách nhiệm của các thành viên Hội đồng. Tăng cường
vai trò chỉ đạo, lãnh đạo công tác PBGDPL trên địa bàn quản lý của Hội đồng.
Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các thành viên
Hội đồng trong triển khai công tác tuyên truyền pháp luật; Xây dựng văn bản
liên tịch của các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện các hoạt động của Đề
án.
Phát huy vai trò đầu mối của cơ quan tư pháp các
cấp, cán bộ pháp chế các Sở, ngành, tổ chức, doanh nghiệp. Chủ động tham mưu
giúp UBND cùng cấp các biện pháp, quyết sách nhằm tăng cường công tác PBGDPL
phù hợp với từng giai đoạn và thời điểm.
3. Xây dựng nguồn nhân lực:
a) Kiện toàn nguồn nhân lực
Các Sở, ngành, đoàn thể cấp tỉnh chưa có cán bộ
pháp chế chuyên trách bố trí ít nhất 1-2 cán bộ pháp chế chuyên trách theo đúng
quy định của Nghị định 122/2004/NĐ-CP của Chính Phủ.
Nghiên cứu tiếp tục bổ sung biên chế cho Phòng
Tư pháp cấp huyện; tăng cường thêm cán bộ làm nhiệm vụ tư pháp - hộ tịch cấp
xã; bố trí đúng trình độ chuyên ngành Luật đối với công chức tư pháp – hộ tịch;
tuyển dụng cán bộ mới đủ tiêu chuẩn thay thế cán bộ không đủ tiêu chuẩn, không
hoàn thành nhiệm vụ; khuyến khích cán bộ, công chức học tập, nâng cao trình độ
chuyên môn, kiến thức pháp lý.
Vận động, khuyến khích những người đã có thời
gian công tác trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thi hành pháp luật có
tâm huyết tham gia hoạt động PBGDPL. Thu hút những người có chức danh tư pháp
(luật sư, công chứng viên, kiểm sát viên, điều tra viên, thẩm phán…) tham gia
tuyên truyền pháp luật.
Kiện toàn đội ngũ tuyên truyền viên pháp luật của
xã, phường, thị trấn đảm bảo có trình độ chuyên môn từ trung cấp luật trở lên.
b) Chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công
tác PBGDPL:
- Về đào tạo, bồi dưỡng:
Các đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng: Nhóm 1:
Cán bộ quản lý về PBGDPL của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp; người đứng đầu tổ chức
pháp chế của Sở, ngành, đoàn thể. Nhóm 2: Công chức làm công tác PBGDPL tỉnh, cấp
huyện, cấp xã; cán bộ pháp chế Sở, ngành, đoàn thể; báo cáo viên pháp luật của
tỉnh, cấp huyện, tuyên truyền viên cấp xã; giảng viên giảng dạy pháp luật của
các trường chính trị, trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; giáo viên giảng
dạy môn pháp luật của các trường phổ thông, đại học, cao đẳng, trung cấp, trường
dạy nghề trên địa bàn tỉnh; phóng viên, biên tập viên pháp luật Đài Phát thanh
– Truyền hình tỉnh, Báo Phú Thọ và Bản tin, tập san của các ngành, đoàn thể.
Nhóm 3: Hòa giải viên ở cơ sở.
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng:
Bồi dưỡng và nâng cao trình độ lý luận chính trị:
1 lần/năm đối với đối tượng nhóm 1 và 2; 02 năm 1 lần đối với đối tượng nhóm 3.
Bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ
PBGDPL: Tổ chức tập huấn cho đối tượng nhóm 1 và 2 theo định kỳ 2 đợt/năm theo
hướng tăng cường tập huấn theo chuyên đề, tập huấn các văn bản pháp luật mới được
ban hành, các vấn đề vướng mắc nổi cộm tại địa bàn, kỹ năng nghiệp vụ PBGDPL. Đội
ngũ cán bộ làn công tác PBGDPL ở những địa bàn cần sử dụng tiếng dân tộc được
đào tạo bồi dưỡng tiếng dân tộc. Tổ chức tập huấn cho đối tượng nhóm 3 theo định
kỳ 1 đợt/năm. Định kỳ tổ chức đánh giá, từ đó tiếp tục xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cho đội ngũ làm công tác PBGDPL.
- Được cung cấp tài liệu pháp luật.
- Được tham dự các cuộc thi người làm công tác
PBGDPL giỏi.
- Báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, hòa
giải viên ở cơ sở được chi trả thù lao khi thực hiện nhiệm vụ về PBGDPL.
4. Thực hiện đa dạng hóa các
hình thức, biện pháp tuyên truyền pháp luật
a) Tiếp tục phát huy hiệu quả của hình thức
tuyên truyền miệng thông qua các hội nghị chuyên đề, lớp tập huấn, lồng ghép
trong buổi họp, tuyên truyền miệng cá biệt. Tất cả các Sở, ngành, đoàn thể có
trách nhiệm tổ chức giới thiệu các văn bản pháp luật mới điều chỉnh các lĩnh vực
quản lý nhà nước của ngành; UBND cấp huyện, UBND cấp xã phổ biến các văn bản
pháp luật mới triển khai trên địa bàn, cần thiết phải tổ chức tập huấn các chế
độ nghiệp vụ, chính sách pháp luật mới cho cán bộ, công chức.
b) Đẩy mạnh việc xây dựng các tài liệu PBGDPL.
Tùy từng điều kiện cụ thể và yêu cầu nhiệm vụ chính trị, các cơ quan, đơn vị, địa
phương tập hợp, tuyển chọn, biên soạn, chỉnh lý, cập nhật các nội dung pháp luật
mới được ban hành, sửa đổi, bổ sung. Biên soạn đề cương, tờ gấp, đĩa hình, đĩa
tiếng, lịch, pa nô, áp phích phổ biến pháp luật và các hình thức khác phù hợp với
việc chuyển tải thông tin pháp luật đến khu dân cư, làng, bản, thôn, xóm; in ấn,
phát hành tài liệu với số lượng lớn nhằm thực hiện mục tiêu đưa thông tin pháp
luật đến được với đa số người dân.
Đa dạng hóa các hình thức biên soạn tài liệu nhằm
phù hợp với đối tượng được tuyên truyền và đặc thù từng vùng miền.
c) Thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục
pháp luật trong các cấp học theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đầu tư
mua sắm các bộ công cụ hỗ trợ dạy và học môn giáo dục công dân, pháp luật (bao
gồm sách, tài liệu tham khảo, đĩa hình, giáo cụ trực quan khác). Nghiên cứu phương
thức giáo dục pháp luật theo hướng đơn giản, dễ hiểu trên trang bìa sách, vở, đồ
dùng học tập (do tỉnh phát hành) phù hợp với các cấp học.
d) Củng cố, duy trì và phát triển tủ sách pháp
luật theo hướng tăng cường sách pháp luật phổ thông phù hợp với điều kiện, yêu
cầu, tâm lý, trình độ của cán bộ, nhân dân ở cơ sở; đa dạng các loại tài liệu
pháp luật; tiếp tục phát huy nhân rộng các mô hình khai thác tủ sách pháp luật
có hiệu quả.
Đảm bảo nguồn chi thường xuyên cho công tác xây
dựng tủ sách pháp luật: Căn cứ điều kiện thực tế và nhiệm vụ chính trị, các Sở,
ngành, UBND cấp huyện, cấp xã bố trí kinh phí hợp lý để phát triển tủ sách pháp
luật. Tiếp tục phát triển tủ sách pháp luật kết hợp với tủ sách pháp luật điện
tử phù hợp với trình độ công nghệ thông tin của tỉnh.
Nâng cao hiệu quả phối hợp luân chuyển sách pháp
luật giữa 3 thiết chế: tủ sách pháp luật – thư viện – điểm bưu điện văn hóa xã;
tiếp tục xây dựng và bổ sung sách pháp luật tại các cơ quan, đơn vị, trường học,
doanh nghiệp và mở rộng mô hình tủ sách pháp luật, ngăn sách pháp luật ở khu
dân cư, các đình chùa, nhà thờ tôn giáo. Huy động các cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp cung cấp sách, tài liệu pháp luật cho các xã thuộc vùng khó khăn.
e) Trang thông tin điện tử, Cổng giao tiếp điện
tử, Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, Báo Phú Thọ, các bản tin, tập san của
các ngành, đoàn thể đều đều có chuyên mục, chuyên trang PBGDPL.
Các Sở, ngành, đoàn thể tích cực xây dựng các
chuyên mục của ngành, tổ chức nhằm giới thiệu các văn bản pháp luật mới liên
quan đến các nội dung quản lý nhà nước của ngành, phản ánh tình hình thực hiện
pháp luật, gương người tốt, việc tốt, các vi phạm pháp luật và biện pháp xử lý,
giải đáp pháp luật, chú trọng phản ánh các vướng mắc trong thực thi pháp luật
và tâm tư nguyện vọng của người dân đối với chế độ, chính sách của nhà nước.
Đề nghị các cơ quan xuất bản, phát hành báo, tạp
chí, bản tin trên địa bàn tỉnh Phú Thọ dành tỷ lệ thích hợp từ 1-5% số lượng
phát hành để cấp phát miễn phí cho một số tủ sách pháp luật, câu lạc bộ pháp luật;
khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp làm nhà tài trợ cung cấp tài liệu
pháp luật cho tủ sách pháp luật, câu lạc bộ pháp luật.
Phát huy hiệu quả của đài truyền thanh, loa truyền
thanh của cấp xã, khu dân cư trong thông tin pháp luật.
f) Tiếp tục phát triển các chi nhánh trợ giúp
pháp lý, đảm bảo sau năm 2015 mỗi huyện, thị có ít nhất 01 chi nhánh nhằm đáp ứng
kịp thời hơn nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các đối tượng thuộc diện trợ giúp
pháp lý.
g) Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình câu lạc bộ;
lồng ghép nội dung pháp luật vào sinh hoạt của các loại hình câu lạc bộ.
Trước mắt thành lập thí điểm câu lạc bộ pháp luật
ở một số huyện, thành, thị trên cơ sở các câu lạc bộ của Hội phụ nữ, Đoàn thanh
niên, Hội cựu chiến binh. Trong thời gian hoạt động thí điểm, câu lạc bộ pháp
luật hoạt động bằng nguồn kinh phí do ngân sách cấp tỉnh (một triệu đồng/tháng/CLB)
và ngân sách UBND cấp huyện nơi có câu lạc bộ (một triệu đồng/tháng/CLB) cấp.
Đến năm 2015, nhân rộng mô hình câu lạc bộ pháp
luật ở tất cả các huyện, thành, thị và 50% số xã, phường, thị trấn. Phân công mỗi
đơn vị Sở, ngành, đoàn thể, UBND cấp huyện quản lý, chịu trách nhiệm về hoạt động
của một hoặc một số câu lạc bộ. Giữa các câu lạc bộ thực hiện trao đổi, luân
chuyển tài liệu pháp luật.
h) Tăng tỷ lệ số vụ án xét xử lưu động hàng năm
từ 12 -15% trên tổng số vụ án được giải quyết. Nghiên cứu phương thức tuyên
truyền rộng rãi hơn các vụ án xét xử lưu động trên các phương tiện thông tin đại
chúng.
i) Thực hiện nghiêm túc công tác tuyên truyền
pháp luật trong các dự án về giao đất, thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng,
tái định cư, cổ phần hóa doanh nghiệp, tuyển dụng công chức, xây dựng, …).
k) Khuyến khích hoạt động sân khấu hóa công tác
PBGDPL, lồng ghép tuyên truyền pháp luật trong các hoạt động văn hóa, văn nghệ,
thể thao, lễ hội, hội thi. Hoạt động PBGDPL cần được tăng cường hơn nhân dịp
các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa lớn của đất nước, của địa phương.
l) Tăng cường sử dụng các hình thức, biện pháp
nhằm tuyên truyền quy định pháp luật, đồng thời đẩy mạnh việc tuyên truyền
thông qua các hình thức áp dụng quy định của pháp luật vào các trường hợp cụ thể,
hoạt động thực thi pháp luật như: tư vấn pháp luật, hòa giải ở cơ sở, tuyên
truyền cá biệt, hoạt động thực thi công vụ của các cơ quan kiểm lâm, thuế,
thanh tra, thi hành án, công an, kiểm sát, tòa án… nhằm làm cho công tác PBGDPL
cụ thể hơn với đại đa số nhân dân.
m) Tổ chức thực hiện Ngày pháp luật trên
địa bàn tỉnh. Trước mắt tổ chức làm điểm trên một số lĩnh vực, địa bàn; sau
giai đoạn thí điểm, tổng kết để nhân rộng mô hình.
n) Đồng thời với việc tuyên truyền vận động thực
hiện, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường thanh tra, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện và tiến hành xử lý nghiêm các vi phạm theo quy định của
pháp luật để củng cố sâu sắc các nội dung pháp luật đã được tuyên truyền, tạo
niềm tin vào pháp luật trong cán bộ, nhân dân.
Chú trọng việc biên soạn các tài liệu thông tin
về các vụ việc vi phạm pháp luật đã xảy ra trên địa bàn được dư luận xã hội
quan tâm, quá trình và kết quả xử lý, việc vận dụng pháp luật trong quá trình xử
lý nhằm giúp cán bộ và nhân dân hiểu biết sâu sắc hơn về pháp luật.
o) Tổ chức các đợt cao điểm tuyên truyền pháp luật
nhân dịp các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, của tỉnh.
5. Xã hội hóa công tác
PBGDPL:
Huy động, vận động các doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân tài trợ, hỗ trợ kinh phí, tài liệu cho các hoạt động PBGDPL. Hỗ trợ in ấn,
phát hành tài liệu pháp luật cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, đồng
bào dân tộc ít người. Tài trợ tài liệu pháp luật cho một hoặc một số câu lạc bộ
pháp luật, tủ sách pháp luật. Các cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể phối hợp,
hợp tác cùng các doanh nghiệp thực hiện tuyên truyền pháp luật trên các ấn phẩm
văn hóa, bao bì sản phẩm hoặc sản phẩm, hóa đơn bán hàng, thông qua các dịch vụ
công nghệ thông tin; lồng ghép phổ biến pháp luật với quảng bá xúc tiến thương
mại của doanh nghiệp.
Xây dựng các thiết chế văn hóa pháp luật (tủ sách
pháp luật, điểm bưu điện văn hóa xã, thư viện, Internet công cộng, trung tâm tư
vấn pháp luật, tổ chức tư vấn pháp luật của các tổ chức chính trị - xã hội,
trang thông tin điện tử cung cấp văn bản pháp luật, giải đáp pháp luật) tạo điều
kiện thuận lợi cho người dân có thể tự khai thác, tìm hiểu các quy định của
pháp luật khi có nhu cầu.
Đưa giáo dục pháp luật trở thành nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Cán bộ, công chức, viên chức và
mọi người dân có trách nhiệm tự giác học tập, tìm hiểu pháp luật để chấp hành.
6. Tăng cường vai trò quản
lý nhà nước đối với công tác PBGDPL
Xây dựng kế hoạch, chương trình, hướng dẫn, định
hướng, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác PBGDPL của các đơn vị, địa
phương.
Tổ chức thực hiện thông tin, tuyên truyền pháp
luật thường xuyên.
Bố trí kinh phí cho công tác PBGDPL: Kinh phí đầu
tư cho công tác PBGDPL bao gồm: ngân sách của tỉnh, huyện, xã; ngân sách của
Trung ương đầu tư cho các Đề án, chương trình về PBGDPL; huy động đóng góp của
cộng đồng, viện trợ quốc tế.
Phấn đấu kinh phí đầu tư của các cấp, ngành,
đoàn thể cho công tác này đến năm 2015 đạt: xã, phường, thị trấn: 30 triệu đồng;
riêng đối với các xã vùng đặc biệt khó khăn có thể đạt 50 triệu đồng; huyện,
thành, thị: 150 triệu đồng (không tính kinh phí chi cho công tác thông tin,
tuyên truyền của các dự án trên địa bàn); Sở, ngành, đoàn thể cấp tỉnh: 50 triệu
đồng; tỉnh: 1 500 triệu đồng (cấp riêng cho mục PBGDPL) nhằm đạt được mức đầu
tư xấp xỉ 10000đ/người/năm vào năm 2015. Kết hợp lồng ghép PBGDPL với các hoạt
động khác và sử dụng có hiệu quả kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia,
viện trợ quốc tế và xã hội hóa để tăng mức đầu tư cho công tác này đạt 20000
đ/người/năm.
Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, ứng dụng
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động
PBGDPL.
Xây dựng và phát triển Bản tin, trang thông tin
điện tử chuyên về PBGDPL của tỉnh Phú Thọ. Tiếp tục thực hiện kết nối mạng
Internet đối với các đơn vị chưa có Internet. Khuyến khích phát triển việc xây
dựng trang thông tin điện tử của đơn vị, địa phương.
IV. Tổ chức thực hiện:
1. Hội đồng phối hợp công
tác PBGDPL tỉnh:
Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực
hiện Đề án; chỉ đạo, điều phối các hoạt động của Đề án nhằm tạo sự phối kết hợp
chặt chẽ, thống nhất trên phạm vi toàn tỉnh. Hàng năm đề xuất mức kinh phí dành
cho công tác PBGDPL và đề ra các giải pháp cụ thể tăng cường hiệu quả hoạt động
của Đề án; đề nghị UBND tỉnh khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất
sắc trong công tác PBGDPL.
2. Sở Tư pháp:
Tham mưu giúp Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL
tỉnh tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án; tổ chức kiểm tra các hoạt
động của Đề án trên toàn tỉnh; chủ trì, phối hợp việc tổ chức khảo sát, đánh
giá; tham mưu đề xuất việc lựa chọn thực hiện thí điểm.
Tham gia, phối hợp với các cơ quan, tổ chức
trong thực hiện Đề án. Chịu trách nhiệm chính trong thực hiện các nhiệm vụ:
thông tin, tuyên truyền các văn bản pháp luật điều chỉnh chung; hướng dẫn, theo
dõi việc xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật; nghiên cứu việc xây dựng
Trang thông tin điện tử, Bản tin chuyên về PBGDPL; tham mưu việc phát triển các
chi nhánh trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý; xúc tiến việc thành lập
thí điểm các câu lạc bộ pháp luật và quản lý, theo dõi hoạt động của các câu lạc
bộ pháp luật; đề xuất việc thực hiện Ngày pháp luật; theo dõi, tổng hợp toàn bộ
hoạt động PBGDPL trên địa bàn tỉnh.
Tổng hợp kết quả thực hiện Đề án, báo cáo HĐND,
UBND tỉnh vào tháng 12 hàng năm; tham mưu sơ kết vào năm 2015, tổng kết thực hiện
Đề án vào năm 2020.
3. Sở Kế hoạch - Đầu tư:
Chủ trì, phối hợp với Sở Tài chính, Sở Tư pháp
và các ngành liên quan tham mưu với UBND tỉnh xây dựng cơ chế, chính sách huy động
các nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL; lồng ghép các chỉ tiêu cơ bản về
PBGDPL vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từng năm và cả giai đoạn;
đưa công tác tuyên truyền pháp luật là một nội dung bắt buộc của các dự án kinh
tế - xã hội.
4. Sở Nội vụ:
Chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp rà soát, bổ
sung chỉ tiêu biên chế hàng năm cho nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL.
Hướng dẫn lồng ghép các chỉ tiêu thực hiện công tác PBGDPL thành một trong những
tiêu chuẩn để đánh giá thi đua, xét danh hiệu và hình thức khen thưởng đối với
tập thể, cá nhân.
5. Sở Tài chính:
Chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch -
Đầu tư cân đối, đảm bảo nguồn chi ngân sách thực hiện Đề án và các chương
trình, đề án khác về PBGDPL đang được triển khai trên địa bàn tỉnh. Tăng cường
các hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát việc sử dụng kinh phí đúng mục
tiêu, có hiệu quả.
6. Sở Thông tin và Truyền
thông:
Chỉ đạo việc xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng
các chuyên trang, chuyên mục PBGDPL phục vụ cán bộ, nhân dân trên Báo, Đài,
trang thông tin điện tử của tỉnh; chỉ đạo việc phát triển đội ngũ phóng viên,
biên tập viên chuyên trách về tuyên truyền pháp luật; thường xuyên bồi dưỡng kiến
thức pháp luật, nghiệp vụ báo chí bảo đảm tuyên truyền đúng đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước.
7. Sở Văn hóa – Thể thao và
Du lịch:
Chỉ đạo lồng ghép tuyền truyền pháp luật thông
qua các hoạt động văn hóa thể thao và du lịch; Chỉ đạo sử dụng các thiết chế
văn hóa – thông tin cơ sở trong hoạt động PBGDPL.
8. Sở Giáo dục và Đào tạo:
Chỉ đạo việc tổ chức giảng dạy môn pháp luật và
các hoạt động ngoại khóa về pháp luật trong các đơn vị giáo dục thuộc phạm vi
quản lý, đảm bảo chất lượng và nội dung chương trình; tổ chức tập huấn cho đội
ngũ giáo viên giảng dạy môn giáo dục công dân, pháp luật thuộc quyền quản lý; đề
xuất và chỉ đạo tổ chức thực hiện phương thức giáo dục pháp luật trên đồ dùng học
tập (sản xuất ở tỉnh) phù hợp với lứa tuổi học sinh.
9. Đài PT-TH tỉnh, Báo Phú
Thọ:
Tiếp tục củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng
các chuyên trang, chuyên mục thông tin, phổ biến pháp luật; tăng thời lượng
phát thanh và truyền hình về tuyên truyền pháp luật, nâng cao tính định hướng,
hướng dẫn dư luận xã hội, tạo sự đồng thuận của đông đảo nhân dân trong việc
xây dựng ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật.
10. Các Sở, ngành:
Trên cơ sở các hoạt động của Đề án và tình hình
thực tế, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL dài hạn, hàng năm để
triển khai thực hiện ở ngành mình; bố trí cán bộ có trình độ pháp lý thực hiện
nhiệm vụ pháp chế ngành hoặc tiếp tục thành lập Phòng, bộ phận pháp chế phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ chính trị; chịu trách nhiệm chính trong việc thông tin, phổ
biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật chuyên ngành thuộc lĩnh vực quản
lý nhà nước của ngành và các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban
hành; phổ biến pháp luật cho cán bộ công chức của ngành; chỉ đạo việc tổ chức
tuyên truyền pháp luật đối với các hoạt động, dự án đối với xã hội do đơn vị
triển khai thực hiện; chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ
pháp luật do ngành được phân công quản lý; xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách
pháp luật theo đúng nội dung Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
Phủ; lập dự toán và bảo đảm kinh phí cho hoạt động PBGDPL. Tiến hành sơ kết, tổng
kết, đánh giá tình hình thực hiện thông báo cho Sở Tư pháp để tổng hợp.
11. UBND cấp huyện:
Xây dựng chương trình, kế hoạch PBGDPL dài hạn,
hàng năm để triển khai thực hiện ở địa phương; chịu trách nhiệm thông tin, phổ
biến, hướng dẫn thực hiện các văn bản pháp luật Trung ương, các văn bản quy phạm
pháp luật do HĐND, UBND tỉnh ban hành trên địa bàn quản lý; phổ biến pháp luật
cho cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý; tổ chức tuyên truyền pháp luật đối với
các hoạt động, dự án phức tạp, nhạy cảm đối với xã hội triển khai trên địa bàn;
chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ pháp luật do đơn vị
được phân công quản lý; xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật theo
đúng tinh thần của Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; xây dựng
và tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ PBGDPL đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và hòa giải viên ở cơ sở; lập dự toán
và bảo đảm kinh phí cho hoạt động PBGDPL. Tiến hành sơ kết, tổng kết, đánh giá
tình hình thực hiện thông báo cho Sở Tư pháp để tổng hợp.
12. Trường Chính trị tỉnh
phối hợp với Sở Tư pháp, Sở Nội vụ và các cơ quan liên quan xây dựng chương
trình bồi dưỡng lý luận chính trị và kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ làm
công tác PBGDPL và đội ngũ cán bộ, công chức cấp tỉnh, huyện và xã.
13. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc
tỉnh và các tổ chức thành viên
Chủ động phối hợp với các cơ quan nhà nước tích
cực vận động nhân dân, hội viên, đoàn viên tự giác tìm hiểu pháp luật, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, đẩy mạnh việc giám sát hoạt động thi hành pháp luật
của các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức; kiến nghị với các cơ quan chức
năng xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.
14. Đề nghị Tòa án nhân dân
tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh
Tăng cường PBGDPL thông qua hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử; quan tâm bồi dưỡng kỹ năng lồng ghép tuyên truyền pháp luật;
Tòa án nhân dân tỉnh tăng số vụ xét xử lưu động hàng năm và chỉ đạo Tòa án nhân
dân cấp huyện tăng cường hoạt động này.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Đề án tăng cường công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 là một bước tiếp tục thể chế hóa
chủ trương của Đảng và Nhà nước về PBGDPL trong điều kiện thực tiễn của tỉnh
Phú Thọ. Đề án được triển khai đồng bộ, nghiêm túc sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu
tìm hiểu pháp luật ngày càng cao của cán bộ, nhân dân; nhân dân từng bước ý thức
được trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình, biết sử dụng pháp luật đúng đắn
trong công việc và cuộc sống; tích cực tham gia hoạt động xã hội, đóng góp ý kiến
của mình đối với quá trình thực hiện pháp luật; tham gia giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước, đấu tranh chống các hành vi phạm pháp luật; từ đó xây dựng,
củng cố niềm tin của nhân dân đối với pháp luật, với Nhà nước.
Năng lực vận dụng, tổ chức thi hành pháp luật của
đội ngũ cán bộ, công chức được nâng cao, đảm bảo đúng pháp luật. Do vậy, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
II. Đề xuất và kiến nghị:
1. Đối với Chính phủ:
- Ban hành theo thẩm quyền và trình Quốc hội ban
hành các văn bản về tăng cường số lượng, chuẩn hóa cán bộ, công chức cấp xã đảm
bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Tăng mức đầu tư kinh phí cho các hoạt động
PBGDPL, thành lập Quỹ PBGDPL; đưa công tác PBGDPL vào Chương trình mục tiêu quốc
gia.
2. Đối với Bộ Tư pháp và
các Bộ, ngành liên quan:
- Đề nghị Bộ Tư pháp tham mưu Chính phủ trình Quốc
hội hoàn thiện trình tự xây dựng các văn bản pháp luật, cơ chế thực thi pháp luật
phải rõ ràng, tính khả thi cao, tránh sự chồng lấn, giao thoa về phạm vi, đối
tượng điều chỉnh của các ngành luật; tránh tình trạng văn bản có tính pháp lý
cao phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan nhà nước cấp dưới, làm hạn chế hiệu
quả công tác PBGDPL do phải tuyên truyền một cách chung chung, không cụ thể.
- Đề nghị Bộ Tư pháp sớm tham mưu với Chính phủ
trình Quốc hội ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật tạo cơ sở pháp lý chỉ
đạo công tác này.
- Để khắc phục khó khăn về kinh phí, đề nghị Bộ
Tư pháp phối hợp với các Bộ, ngành trung ương xây dựng cơ chế, chính sách thực
hiện thống nhất kinh phí chi cho công tác PBGDPL cho các cấp trên cả nước tương
xứng với hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, xây dựng các tiểu mục
chi cho công tác PBGDPL tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị chủ động xây dựng
kế hoạch, chương trình tuyên truyền phù hợp với điều kiện kinh phí.
- Đề nghị Bộ Tư pháp và Bộ Giáo dục - Đào tạo
nghiên cứu xây dựng giáo trình đưa giáo dục pháp luật vào các cấp giáo dục, đào
tạo.
- Đề nghị Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ tham mưu với
Chính phủ kiện toàn bộ máy, nguồn nhân lực thực hiện công tác PBGDPL ở địa
phương; nghiên cứu các phương thức kiện toàn, nâng cao chất lượng và cơ chế
chính sách đối với đội ngũ làm công tác PBGDPL trên cả nước.
- Đề nghị các Bộ, ngành ở Trung ương có liên
quan phối hợp chặt chẽ hướng dẫn cụ thể cho địa phương tổ chức các chiến dịch,
đợt tuyên truyền sâu rộng đối với các nội dung pháp luật cụ thể, nhân dịp các sự
kiện lớn của đất nước, cần thiết xây dựng các tài liệu tuyên truyền thống nhất
trong đó quan tâm đầu tư các tài liệu trực quan như tranh ảnh, pa nô, áp phích
để tăng hiệu quả tuyên truyền; cần thiết tổ chức làm điểm ở một số địa phương
việc tuyên truyền pháp luật kết hợp với giám sát, kiểm tra, xử lý nghiêm các vi
phạm pháp luật để làm chuyển biến sâu sắc nhận thức pháp luật cũng như ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ nhân dân ở địa phương đó để từ đó nhân rộng cách
làm.
3. Đối với Tỉnh ủy và Hội
đồng nhân dân tỉnh:
- Đề nghị Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết về tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020.
- Đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua Nghị
quyết bố trí ngân sách của tỉnh hàng năm đảm bảo thực hiện công tác PBGDPL.
PHỤ LỤC 1:
KINH PHÍ NGÂN SÁCH CẤP CHO CÔNG TÁC PBGDPL GIAI ĐOẠN
2007 - 2010
(Ban hành Quyết định số 3566/2010/QĐ-UBND ngày 08/11/2010 của UBND tỉnh
Phú Thọ về việc Phê duyệt Đề án Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 - 2015)
Năm
|
Ngân sách đầu
tư cho công tác PBGDPL ở cấp tỉnh
(thời kỳ ổn
định ngân sách địa phương)
|
Ngân sách đầu
tư cho công tác PBGDPL ở cấp huyện
|
Ngân sách đầu
tư cho công tác PBGDPL ở cấp xã
|
Sở, ban,
ngành, đoàn thể
(38 đơn vị)
|
Bình quân KP
người/năm
|
2007
|
300 triệu đồng
|
30 triệu đ/đơn vị x 12 HTT = 360 triệu đ
|
1 triệu đ/đơn vị x 274 XPTT = 274 triệu đ
|
20 triệu đ/đơn
vị x 38 = 760 triệu đ
|
1303 đ
(1694 triệu đ/1300 nghìn người )
|
2008
|
300 triệu đồng
|
35 triệu đ/đơn vị x 12 HTT = 420 triệu đ
|
1 triệu đ/đơn vị x 274 XPTT = 274 triệu đ
|
1285 đ
(1754 triệu đồng /1364 nghìn người)
|
2009
|
300 triệu đồng
|
42 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 546 triệu đ
|
1,2 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 332,4 triệu
đ
|
1400 đ
(1938,4 triệu đồng/1379 nghìn người)
|
2010
|
300 triệu đồng
|
45 triệu đồng/đơn vị x 13 HTT = 585 triệu đ
|
3,5 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 969,5 triệu
đ
|
1876 đ
(2614,5 triệu đồng/1393 nghìn người)
|
PHỤ LỤC 2:
MỤC TIÊU CẤP NGÂN SÁCH CHO CÔNG TÁC PBGDPL GIAI ĐOẠN
2011 - 2015
(Ban hành Quyết định số 3566 /2010/QĐ-UBND ngày 08/11/2010 của UBND tỉnh
Phú Thọ về việc Phê duyệt Đề án Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 - 2015)
Năm
|
Ngân sách đầu
tư cho công tác PBGDPL ở cấp tỉnh
(Tỷ lệ tăng
so với năm trước liền kề)
|
Ngân sách đầu
tư công tác PBGDPL cho cấp huyện
(Tỷ lệ tăng
so với năm trước liền kề)
|
Ngân sách đầu tư công tác PBGDPL cho cấp xã
(Tỷ lệ tăng
so với năm trước liền kề)
|
Ngân sách đầu tư công tác PBGDPL Sở, ban,
ngành, đoàn thể
(Tỷ lệ tăng
so với năm trước liền kề)
|
Bình quân KP
người/năm
(Tỷ lệ tăng
so với năm trước liền kề)
|
2011
|
500 triệu
(tăng 66%)
|
50 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 650 triệu
(tăng 66%)
|
7 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 1939 triệu đ
(tăng 100 %)
|
25 triệu đ/đơn vị x 38 đ.vị = 950 triệu đ
(tăng 25 %)
|
2870 đ
(4039 triệu đ/1407 nghìn người )
(tăng 52%)
|
2012
|
700 triệu đồng
(tăng 40%)
|
70 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 910 triệu đ
(tăng 40%)
|
12 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 3324 triệu đ
(tăng 71%)
|
30 triệu đ/đơn vị x 38 đ.vị = 1140 triệu đ
(tăng 20 %)
|
4274 đ
(6074 triệu đồng /1421 nghìn người)
(tăng 48%)
|
2013
|
900 triệu đồng
(tăng 28%)
|
90 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 1170 triệu đ
(tăng 28%)
|
17 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 4709 triệu đ
(tăng 41%)
|
37 triệu đ/đơn vị x 38 đ.vị = 1406 triệu đ
(tăng 23%)
|
5707 đ
(8185 triệu đồng/1434 nghìn người)
(tăng 33%)
|
2014
|
1200 triệu đồng
(tăng 33%)
|
120 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 1560 triệu đ
(tăng 33%)
|
24 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 6648 triệu đ
(tăng 41%)
|
43 triệu đ/đơn vị x 38 đ.vị = 1634 triệu đ
(tăng 16%)
|
7625 đ
(11042 triệu đồng/1448 nghìn người)
(tăng 33%)
|
2015
|
1500 triệu đồng
(tăng 25%)
|
150 triệu đ/đơn vị x 13 HTT = 1950 triệu đ
(tăng 25%)
|
30 triệu đ/đơn vị x 277 XPTT = 8310 triệu đ
(tăng 25%)
|
50 triệu đ/đơn vị x 38 đ.vị = 1900 triệu đ
(tăng 16%)
|
9356 đ
(13660 triệu đồng/1460 nghìn người)
(tăng 22%)
|