ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
10/2006/QĐ-UBND
|
Đồng Hới, ngày
29 tháng 3 năm 2006
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN CHUYỂN ĐỔI ĐOÀN NGHỆ THUẬT TỔNG HỢP QUẢNG
BÌNH THÀNH ĐOÀN NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Căn cứ Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng
4 năm 2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hoá và thể dục - thể thao;
Căn cứ Quyết định số 61/2005/QĐ-BVHTT ngày 04
tháng 1 năm 2005 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin về việc phê duyệt Đề án
“Quy hoạch phát triển xã hội hoá hoạt động văn hoá đến năm 2010”;
Căn cứ Quyết định số 675/QĐ-UBND ngày 10
tháng 3 năm 2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh về việc đổi tên Đoàn Nghệ thuật Tổng
hợp thành Đoàn Nghệ thuật truyền thống;
Theo đề nghị của Giám đốc Sở Văn hoá - Thông
tin Quảng Bình tại Tờ trình số 09/TTr-SVHTT ngày 01 tháng 3 năm 2006;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Phê duyệt "Đề án chuyển đổi Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Quảng
Bình thành Đoàn Nghệ thuật truyền thống" kèm theo Quyết định này.
Điều 2: Quyết định này có hiệu lực sau 10 ngày, kể từ ngày ký.
Điều 3: Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin,
Thủ trưởng các sở, ban, ngành có liên quan, Trưởng Đoàn Nghệ thuật truyền thống
tỉnh Quảng Bình chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Văn phòng Chính phủ;
- Bộ Văn hoá - Thông tin;
- Cục Kiểm tra văn bản (Bộ Tư pháp);
- Ban Thường vụ Tỉnh uỷ;
- Thường trực HĐND tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh;
- Ban VH-XH HĐND tỉnh;
- Báo Quảng Bình, Đài PT-TH QB;
- Sở Tư pháp;
- Lưu VT, NC-VX.
|
TM. UỶ BAN
NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Trần Công Thuật
|
ĐỀ ÁN
CHUYỂN ĐỔI ĐOÀN NGHỆ THUẬT TỔNG HỢP QUẢNG BÌNH THÀNH ĐOÀN
NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG
(Kèm theo Quyết định số 10/2006/QĐ-UBND ngày 29/3/2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Quảng Bình)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Dân ca Quảng Bình - đặc trưng riêng của
Nghệ thuật truyền thống một vùng quê - sự cần thiết phải bảo tồn và phát triển:
Quảng Bình là một vùng đất có vị trí đặc thù.
Các ngành khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội nhân văn đã chứng minh vùng đất
Quảng Bình có lịch sử rất lâu đời và là nơi tiềm chứa nhiều giá trị vật chất và
văn hoá tinh thần độc đáo. Xét trên bình diện văn hoá, Quảng Bình là khu vực có
sự đan xen và hỗn dung văn hoá giữa các trung tâm văn hoá lớn của
dân tộc như Văn hoá Việt Mường - Chămpa, Đông Sơn - Sa Huỳnh, Đàng Trong - Đàng
Ngoài, Thăng Long - Phú Xuân,... Những yếu tố đan xen, hỗn dung nói trên
làm cho sắc diện văn hoá Quảng Bình càng thêm phong phú và đậm tính bản sắc.
Cũng như ở các vùng quê khác, từ trong lịch sử
hình thành và phát triển của cộng đồng, làng quê Quảng Bình là cái nôi sinh
thành nền văn hoá truyền thống của quê hương; nơi đây không chỉ sản sinh ra
những giá trị văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần mà còn là cái nôi hình thành
và phát triển các trò diễn, diễn xướng dân gian, dân ca, dân vũ,... nhằm thoả
mãn nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của cộng đồng dân cư.
Chỉ xét về loại hình dân ca, Quảng Bình đã rất
phong phú với hàng chục điệu hò, điệu hát, hát ru,... không dễ gì nơi nào cũng
có.
Phong phú nhất, trước hết phải kể đến là các điệu
hò: vùng Minh Hoá, Tuyên Hoá có Hò thuốc, Hò kéo nôốc, Hò văn, Hò xay
lúa, Hò la hò là...; Vùng Quảng Trạch đặc sắc với điệu hò Cảnh Dương, Hò
hụi..; Bố Trạch có Hò bài chòi, Hò đưa linh, Hò kéo lưới, Hò đẩy thuyền...;
Đồng Hới có Hò đưa linh chèo cạn, Hò lỉa gỗ, Hò kéo neo kéo buồm...; Lệ
Thuỷ, Quảng Ninh có Hò bài chòi, Hò lỉa gỗ, Hò chèo cạn, trong đó đặc sắc
với điệu Hò khoan Lệ Thuỷ (hò giã gạo) nổi tiếng với 9 mái, trong
đó có 6 mái cơ bản là: mái chè, mái nện, mái xắp, mái ba, mái ruổi, mái nhì,
mái nâu xăm...
Sau hò, là các điệu hát, với Hát
nhà trò (ả đào), hát Kiều, Hát sắc bùa, Hát ví đúm, Hát bội, Hát đối, Hát ghẹo,
Hát đồng dao, Hát ru... Đó là chưa nói đến ca dao, vè cũng khá phổ biến ở
Quảng Bình.
Về múa dân gian cũng rất phong phú, mà điển
hình là các điệu: Múa bông, Múa tứ linh, Múa bài đăng, Múa sư tử, Múa
vòng...
Về nhạc cụ, ở Quảng Bình cơ bản có một số loại
nhạc cụ truyền thống sau: đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn thập lục,
sáo trúc (quyển), đàn bầu, đàn ống, khèn bè, trống
bùm bùm, bộ gõ, kèn, pi, còi, kèn lá,...
Các loại hình dân ca, dân vũ trên đây đã trường
tồn trong lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Quảng Bình và hiện nay
đang có nguy cơ mai một dần trước sự lấn lướt của loại hình văn hoá - văn nghệ
hiện đại, cần phải có sự bảo tồn và phát triển.
Mặt khác, do Quảng Bình có vị trí địa lý đặc
thù, nên chịu ảnh hưởng giao thoa của nền văn hoá Đại Việt (ngoài vào) và Phú
Xuân (trong ra), mà điển hình là các điệu dân ca Huế, Bình Trị Thiên, như các
điệu ca: Nam ai, Nam bình, Nam xuân, Tứ đại cảnh, Cổ bản, Long ngâm, Đăng
đàn cung, Lưu thuỷ hành vân, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ... hiện đang rất
thịnh hành trong đời sống văn nghệ của nhân dân, cần được giữ gìn và phát triển.
2. Căn cứ pháp lý để xây dựng Đề án chuyển đổi
Đoàn Nghệ thuật:
+ Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng về
định hướng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
+ Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục - thể thao.
+ Nghị quyết số 05/CP ngày 18/4/2005 của Chính
phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, TDTT...
+ Quyết định số 61/2005/QĐ-BVHTT ngày 04/11/2005
của Bộ Văn hoá - Thông tin về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển xã hội
hoá hoạt động văn hoá đến năm 2010, tại điểm a, mục 3, điều 1 của Quyết định đã
nêu rõ: " Sắp xếp lại các đơn vị nghệ thuật theo hướng:... Ở mỗi tỉnh
chỉ nên duy trì một đoàn nghệ thuật truyền thống và tiêu biểu".
3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Đoàn
Nghệ thuật Quảng Bình thời gian qua:
Sau ngày tái lập tỉnh, Đoàn Nghệ thuật Quảng
Bình được UBND tỉnh quyết định thành lập với định hướng nghệ thuật là ca -
múa - nhạc tổng hợp, tên gọi là Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Quảng Bình.
Bước đường 15 năm hình thành và phát triển, từ một
bộ khung gồm 19 cán bộ, diễn viên, cơ sở vật chất ban đầu hầu như không có gì,
không có trụ sở, không có phương tiện,... đến nay Đoàn đã lớn mạnh với tổng số
36 cán bộ, diễn viên, nhạc công với cơ sở vật chất, trang thiết bị, cơ bản đáp ứng
được hoạt động trước mắt theo định hướng nghệ thuật ca múa nhạc tổng hợp. Hàng
năm, Đoàn đã cố gắng xây dựng mới và hoàn chỉnh, bổ sung từ 1 - 3 chương trình
nghệ thuật để phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ công chúng trong và ngoài tỉnh,
giao lưu với các nước trong khu vực (Lào, Thái Lan...). Mỗi năm Đoàn đã cố gắng
thực hiện từ 80 - 120 buổi diễn, trong đó có hàng chục buổi biểu diễn phục vụ
cho vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, rẻo cao.
Về hoạt động nghệ thuật truyền thống: Ngay từ
ngày đầu mới thành lập, Đoàn đã mạnh dạn dàn dựng vở ca kịch "Tình yêu
viên quận trưởng" của tác giả Văn Nhĩ. Từ năm 2003 đến nay, Đoàn đều
có xây dựng các chương trình truyền thống như: 02 chương trình trong Lễ đón nhận
Bằng Di sản thiên nhiên thế giới Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng; 01 chương
trình chào mừng Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh lần thứ II năm 2005... và đã để lại
những ấn tượng tốt đẹp trong lòng công chúng Quảng Bình.
Quá trình hoạt động, Đoàn đã được tặng nhiều bằng
khen, cờ thi đua xuất sắc, trong đó có Bằng khen của Chính phủ.
Tuy vậy, thực trạng tình hình của Đoàn hiện nay
gặp nhiều khó khăn cần phải tập trung xây dựng, định hướng lại, đó là:
- Trước hết, về định hướng nghệ thuật, trong điều
kiện mở cửa, hội nhập, giao lưu toàn diện hiện nay, trong đó có văn hoá - nghệ
thuật, cần phải bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống theo
định hướng của Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) của Đảng về giữ gìn và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Từ sự cần thiết, thực trạng Đoàn và các căn cứ
pháp lý trên, để duy trì và phát triển Đoàn Nghệ thuật Quảng Bình theo đúng định
hướng nghệ thuật giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo, Sở Văn hóa -
Thông tin xây dựng "Đề án chuyển đổi Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Quảng Bình
thành Đoàn Nghệ thuật truyền thống Quảng Bình".
II. NỘI DUNG CHUYỂN ĐỔI:
1 - Mục tiêu, định hướng:
- Mục tiêu: Việc chuyển đổi Đoàn
Nghệ thuật Tổng hợp thành Đoàn Nghệ thuật truyền thống nhằm hướng tới mục tiêu
làm nòng cốt cho việc duy trì, bảo tồn và phát huy giá trị các loại
hình ca múa nhạc truyền thống của quê hương Quảng Bình. Tăng mức hưởng thụ
nghệ thuật truyền thống cho nhân dân địa phương trong thời kỳ giao thoa, hội
nhập của nhiều loại hình nghệ thuật hiện đại có khả năng làm mai một dần nghệ
thuật truyền thống của quê hương, đất nước. Giới thiệu nghệ thuật truyền thống
của Quảng Bình (dân ca, dân vũ,...) với các địa phương bạn và với quốc tế nhằm
khẳng định bản sắc văn hoá Quảng Bình và phục vụ du lịch.
- Định hướng nghệ thuật: Chuyển đổi
Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp Quảng Bình theo hướng: Chuyển dần từng bước từ ca
múa nhạc tổng hợp hiện nay sang nghệ thuật truyền thống, lấy dân ca Quảng Bình,
dân ca Bình Trị Thiên làm chính, bên cạnh tiếp tục duy trì một bộ phận ca múa
nhạc tổng hợp. Đến năm 2010, Đoàn thực sự trở thành Đoàn Nghệ thuật truyền
thống Quảng Bình.
2. Về cơ cấu tổ chức bộ máy:
a. Tên gọi của Đoàn: Đoàn Nghệ
thuật truyền thống Quảng Bình (UBND tỉnh đã có Quyết định số 675/QĐ-UBND
ngày 10/3/2006 về việc đổi tên Đoàn nghệ thuật tổng hợp thành Đoàn Nghệ thuật
truyền thống).
b. Về tổ chức bộ máy:
Đoàn Nghệ thuật truyền thống Quảng Bình có:
- Ban lãnh đạo Đoàn: Trưởng đoàn và 2 Phó Trưởng
đoàn.
- Các bộ phận chuyên môn có:
+ Đội ca
+ Đội nhạc
+ Đội múa
+ Đội hành chính - Hậu đài
Tổng biên chế tối thiểu: 35
Tổng biên chế tối đa: 40
(Biên chế này nằm trong tổng biên chế được tỉnh
giao hàng năm cho Sở Văn hoá - Thông tin. Năm 2006 được giao là 36).
Ngoài ra, khi dàn dựng các chương trình, tiết mục
lớn, hoành tráng, cần nhiều diễn viên quần chúng, Đoàn sẽ hợp đồng ngắn hạn với
một số diễn viên không chuyên hoặc huy động lực lượng từ các đội văn nghệ quần
chúng của các cơ sở.
c. Về đội ngũ diễn viên, nhạc công:
Trên cơ sở phân tích chất lượng diễn viên và nhạc
công hiện có (có danh mục phụ lục kèm theo), sẽ tập trung giải quyết dần
theo hướng:
+ Giữ lại những diễn viên, nhạc công đã được đào
tạo cơ bản, có khả năng phát triển theo hướng nghệ thuật truyền thống để làm
nòng cốt cho Đoàn.
+ Đào tạo, bồi dưỡng nghệ thuật truyền thống cho
số diễn viên thanh nhạc hiện đại hiện có tại Đoàn còn khả năng phục vụ lâu dài
để bổ sung lực lượng nòng cốt cho Đoàn.
+ Chọn lựa, bổ sung diễn viên và nhạc công dân
ca đã qua đào tạo cơ bản tại các trường Nghệ thuật để bổ sung nhằm trẻ hoá
đội ngũ diễn viên của Đoàn.
+ Giải quyết chế độ (thôi việc theo Nghị định số
54/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ về chế độ thôi việc, chế độ bồi thường
chi phí đào tạo đối với cán bộ, công chức) cho số diễn viên, nhạc công không
còn phù hợp khi Đoàn chuyển đổi tính chất nghệ thuật.
d, Về chuyển đổi cơ sở vật chất, kỹ thuật:
Cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện tại về cơ bản trước
mắt có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Đoàn. Để từng bước đảm bảo cho tính chất
hoạt động của Đoàn, cần phải:
- Về trụ sở làm việc kiêm nhà tập của Đoàn: Hoán
đổi Nhà tập (kiêm trụ sở) theo hướng thu hồi cơ sở hiện có và cấp đất mới, cấp
kinh phí để Đoàn xây dựng Nhà tập ở nơi khác; hoặc cho sửa chữa lại Nhà tập cho
phù hợp.
- Về phương tiện chuyên chở diễn viên đi lưu diễn
phục vụ nhân dân trong và ngoài tỉnh: Hiện tại đáp ứng được yêu cầu. Trong năm
2006, sẽ đề nghị cho thanh lý xe 12 chỗ để mua xe tải chuyên chở phục trang, đạo
cụ.
- Về âm thanh, ánh sáng: Trong năm 2006, sẽ đầu
tư một số trang thiết bị âm thanh, ánh sáng,... phù hợp với tính chất biểu diễn
chương trình dân ca (từ chương trình đầu tư của Bộ Văn hoá - Thông tin và của tỉnh).
3 - Kế hoạch và lộ trình thực hiện chuyển đổi
dần từ 2006 - 2010:
- Giai đoạn 2006 - 2007:
+ Tập trung đánh giá, phân loại đội ngũ diễn
viên, nhạc công.
+ Bồi dưỡng, đào tạo lại (cơ bản là bồi dưỡng tại
chỗ) số diễn viên thanh nhạc hiện đại hiện có sang dân ca. Chọn lựa, tiếp nhận
một số diễn viên mới được đào tạo.
+ Lựa chọn và gửi đi đào tạo cán bộ thuộc lĩnh vực
Đạo diễn sân khấu.
+ Giải quyết chính sách (cho thôi việc) một số
diễn viên, nhạc công không có khả năng phát triển phù hợp.
+ Đầu tư một bước trang, thiết bị (từ nguồn vốn
xin hỗ trợ của Bộ Văn hoá - Thông tin và của tỉnh).
+ Xây dựng một chương trình dân ca 45 - 60 phút
để phục vụ trong và ngoài tỉnh.
- Giai đoạn 2008 - 2009:
+ Tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo tại chỗ diễn viên
dân ca.
+ Tiếp tục đầu tư trang, thiết bị: âm thanh, ánh
sáng theo hướng đồng bộ cho nghệ thuật truyền thống.
+ Xây dựng 2 chương trình dân ca mới để phục vụ.
- Giai đoạn 2010:
+ Hoàn chỉnh việc chuyển đổi Đoàn Nghệ thuật
truyền thống.
+ Tập trung đầu tư dàn dựng Chương trình nghệ
thuật chào mừng Đại hội Đảng các cấp...
Biểu phụ lục
nhu cầu đầu tư, dự kiến nguồn
Đơn vị tính: Triệu
đồng
Giai đoạn
đầu tư
Danh mục
đầu tư
|
2006 - 2007
|
2008 - 2009
|
2010
|
Tổng mức
|
Trong đó
|
Tổng mức
|
Trong đó
|
Tổng mức
|
Trong đó
|
TW
|
Địa phương
|
TW
|
Địa phương
|
TW
|
Địa phương
|
1. Đào tạo diễn viên
|
100
|
|
100
|
50
|
|
50
|
|
|
|
2. Trang, thiết bị
|
300
|
300
|
|
200
|
100
|
100
|
|
|
|
3. Dàn dựng chương trình
|
100
|
|
100
|
100
|
|
100
|
100
|
|
100
|
4. Giải quyết chính sách (từ 5-10 diễn viên)
|
100
|
|
100
|
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng
|
600
|
300
|
300
|
350
|
100
|
250
|
100
|
|
100
|
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ
ÁN CHUYỂN ĐỔI:
1. Giải pháp:
a. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp, các ngành,
trước hết là của Sở Văn hoá - Thông tin (cơ quan chủ quản) để tham mưu cho UBND
tỉnh có cơ chế, chính sách đặc thù về con người, có chính sách thu hút nhân
tài, nghệ nhân tiêu biểu trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống.
b. Tăng cường công tác tuyên truyền về bảo tồn
và phát triển nền văn hoá dân tộc, sắc thái văn hoá quê hương trong đó chú ý
tuyên truyền việc giữ gìn, bảo tồn, phát triển nghệ thuật truyền thống của tỉnh
nhà. Kêu gọi sự quan tâm đầu tư của các tổ chức kinh tế, của cộng đồng và của
các cá nhân đến nghệ thuật truyền thống của tỉnh nhà.
c. Về tổ chức: Ưu tiên tuyển chọn diễn viên mới
theo hướng lấy khả năng, năng khiếu biểu diễn nghệ thuật truyền thống làm
chính; đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng số diễn viên và nhạc công có điều kiện
chuyển hướng được sang nghệ thuật truyền thống; Kiện toàn tổ chức, bộ máy của
Đoàn tinh gọn theo hướng vừa đảm bảo phục vụ nhiệm vụ chính trị đột xuất, vừa sẵn
sàng phục vụ rộng rãi công chúng trong và ngoài tỉnh. Trong đó cần quan tâm việc
đào tạo (hoặc tuyển dụng) cán bộ có chuyên môn Đạo diễn sân khấu.
d. Về cơ chế chính sách: Hàng năm (từ 2006 -
2010) tỉnh cân đối ngân sách bố trí một khoản kinh phí (ngoài khoản ngân sách cấp
lương và chi thường xuyên trong năm) để hỗ trợ cho Đoàn trong việc đào tạo diễn
viên, giải quyết chính sách cho số diễn viên không có khả năng ở lại Đoàn, dàn
dựng chương trình truyền thống và mua sắm trang, thiết bị... (nhu cầu cụ thể
qua hàng năm đã thể hiện ở tiết 3, mục II của Đề án), cũng như có chính sách
thu hút nhân tài (như có chính sách khen thưởng diễn viên xuất sắc đạt giải cao
qua các kỳ hội diễn, hỗ trợ một phần nhà ở cho các diễn viên trẻ, độc thân để họ
yên tâm công tác...).
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ ÁN:
1. Sở Văn hoá - Thông tin chủ trì phối hợp với
các ban, ngành hữu quan (Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ...) chỉ
đạo triển khai thực hiện Đề án chuyển đổi Đoàn Nghệ thuật Tổng hợp thành Đoàn
Nghệ thuật Truyền thống Quảng Bình theo Quyết định số 675/QĐ-UBND ngày 10 tháng
3 năm 2006 của UBND tỉnh.
2. Sở Nội vụ: Căn cứ chức năng, nhiệm vụ chuyển
đổi của Đoàn, phối hợp với Sở Văn hoá - Thông tin để kiện toàn tổ chức bộ máy,
đảm bảo đủ biên chế, cơ chế hợp đồng lao động, công tác đào tạo (đơn vị nghệ
thuật phải có thời gian lao động thử việc), từng bước ổn định tổ chức bộ máy
đáp ứng nhiệm vụ của Đoàn theo hướng chuyển đổi.
3. Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính cân đối
ngân sách để có kế hoạch đầu tư hàng năm nhằm đảm bảo cho Đoàn chuyển đổi đúng
yêu cầu và thời gian đề ra.
4. Đoàn Nghệ thuật Truyền thống Quảng Bình có
trách nhiệm tổ chức thực hiện phương án chuyển đổi tính chất nghệ thuật của
Đoàn theo đúng định hướng nghệ thuật đã được phê duyệt tại Đề án này.
5. Quá trình tổ chức thực hiện, phát sinh vướng
mắc các ngành chức năng báo cáo UBND tỉnh để chỉ đạo tháo gỡ.